intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Những vấn đề kinh tế chính trị đương đại: Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

94
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận tìm hiểu những đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo tiểu luận để nắm chi tiết hơn nội dung nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Những vấn đề kinh tế chính trị đương đại: Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

  1. MỤC LỤC  MỞ ĐẦU.................................................................................................................................. 1 PHẦN NỘI DUNG................................................................................................................... 2 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG................................................................................................ 2 1. Phân công lao động và sử dụng lao động.................................................................... 2 2. Cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức...................................... 3 II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM............................................................................................................................ 8 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 22 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 23 MỞ ĐẦU Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự phát triển của kinh tế tri   thức đã tạo những chuyển biến quan trọng trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay,   thế  giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  4, đó là xu   hướng phát trển mới, dựa trên hệ thống vật lý mạng, là sự  kết hợp của công   nghệ  mới trong các lĩnh vực vật lý, số  hóa, tự  động hóa và sinh học, tạo ra   những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc tới các hệ thống chính  trị, xã hội và kinh tế của thế giới. Chỉ trong hơn một thập kỷ trở lại đây, thế giới đã chứng kiến những sự  nhảy vọt về công nghệ thông tin, internet và tự động hóa, cách mạng số, phát   triển dựa trên tri thức và trí tuệ nhân tạo.  Bên cạnh những  ưu điểm và tác động tích cực, cuộc cách mạng công  nghiệp mới cũng đang đặt ra cho các nước, các chính phủ, doanh nghiệp và   người lao động nhiều vấn đề  cần giải quyết và cần chuẩn bị. Trong đó vấn   đề  phân công và sử  dụng lao động là vấn đề  quan trọng hàng đầu. Với mỗi   cuộc cách mạng khoa học công nghệ, việc phân công và sử dụng lao động có  sự  khác biệt rõ rệt, trong phạm vi tiểu luận này của học viên trong môn học  Những vấn đề  kinh tế  chính trị đương đại, học viên nghiên cứu chủ yếu  trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển của kinh tế tri   thức với Chủ đề tiểu luận: “Đổi mới phân công và sử dụng lao động trong   bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ  và phát triển kinh tế  tri   thức ở Việt Nam”.
  2. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 1. Phân công lao động và sử dụng lao động 1.1. Khái niệm Phân công lao động xã hội là việc chuyên môn hóa người sản xuất, mỗi   người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định, hay nói cách khác:   Sự phân công lao động xã hội là cách điều chỉnh hạn chế một cách thích ứng   những cá nhân vào những lĩnh vực nghề nghiệp đặc thù.  Trình độ phát triển lực lượng sản xuất của một xã hội biểu hiện rõ nhất   ở trình độ  phân công lao động xã hội. Nói cách khác, sự  phát triển lực lượng  sản xuất là điều kiện quyết định trình độ phân công lao động xã hội; đặc biệt   là sự  phát triển của công cụ  lao động. Đồng thời, phân công lao động, bản   thân nó, tác động trở lại đến sự  phát triển ngày càng có năng suất cao. Trong  lịch sử, ở thời kỳ công trường thủ công, phân công lao động đóng vai trò đòn   bẩy mạnh mẽ đối với sản xuất và tăng năng suất lao động, mặc dù kỹ  thuật  vẫn dựa trên cơ sở thủ công.  Sử  dụng lao động:  nói đến sử  dụng lao động là đề  cập đến vấn đề  người lao động và người sử dụng lao động. Theo Luật Lao động 2012, người   lao động là người từ đủ  15 tuổi trở  lên, có khả  năng lao động, làm việc theo   hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người   sử  dụng lao động. Người sử  dụng lao động là doanh nghiệp, cơ  quan, tổ 
  3. chức, hợp tác xã, hộ  gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử  dụng lao động theo   hợp đồng lao động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.  1.2. Tác dụng Sự  phân công lao động trong xã hội làm cơ  sở  chung cho mọi nền sản   xuất hàng hóa, chính sự phân công lao động trong xã hội làm cho sức lao động  trở thành hàng hóa.  Sự phân công lao động đặt cơ sở cho việc hình thành những nghề nghiệp   chuyên môn, những ngành chuyên môn nhằm nâng cao sức sản xuất.  Sự  phân công lao động theo vùng với ngành sản xuất chuyên môn hóa  đặc trưng sẽ  là yếu tố  quyết định sự  khai thác có hiệu quả  và phát huy thế  mạnh của vùng. Sự phân công lao động trong xã hội khi đã phát triển đến một   trình độ  nào đó thì sẽ  dẫn đến sự  phân công lao động  ở  tầm vi mô – các xí  nghiệp, các hãng sản xuất – điều này làm cho các giai đoạn sản xuất ra sản   phẩm bị  chia nhỏ, sản phẩm được hoàn thiện về  chất lượng, dễ  dàng  ứng   dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự phân công lao động áp dụng tiến bộ khoa  học kỹ thuật làm việc sản xuất đi vào chuyên môn hóa, nâng cao tay nghề của  người sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội.  1.3. Các hình thức phân công lao động Có 3 hình thức phân công lao động: Phân công lao động theo công nghệ: là phân công loại công việc theo tính  chất quy trình công nghệ,  ví dụ: ngành dệt, may cơ  khí. Hình thức này cho  phép xác định nhu cầu công nhân theo nghề  tạo điều kiện nâng cao trình độ  chuyên môn của công nhân.  Phân công lao động theo trình độ:  là phân công lao động theo mức độ  phức tạp của công việc, hình thức này phân công thành công việc giản đơn và   phức tạp (chia theo bậc). Hình thức này tạo điều kiện kèm cặp giữa các loại  công nhân trong quá trình sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ  lành nghề của công nhân.  Phân công lao động theo chức năng: là phân chia công việc cho mỗi công  nhân viên của doanh nghiệp trong mối quan hệ  với chức năng mà họ  đảm  nhận. Ví dụ: công nhân chính, công nhân phụ, công nhân viên quản lý kinh tế,   kỹ  thuật, hành chính… Hình thức này xác định mối quan hệ  giữa lao động   gián tiếp và lao động trực tiếp và tạo điều kiện cho công nhân chính được  chuyên môn hóa cao hơn nhờ không làm công việc phụ.  2. Cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức 2.1. Cách mạng khoa học công nghệ 2.1.1. Khái niệm Trong nghiên cứu lý luận, hiện nay có nhiều cách quan niệm về  cách   mạng khoa học công nghệ (hay công nghiệp), ở  đây, theo cách tiếp cận của  kinh tế  chính trị  Mác – Lênin có thể  thấy rằng, khi lực lượng sản xuất phát   triển, tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực sản xuất có những thay đổi  mang tính đột biến, triệt để  làm thay đổi cơ  bản các điều kiện kinh tế  ­ xã 
  4. hội, văn hóa và kỹ thuật, tại một thời điểm nhất định thì khi đó xuất hiện một  cuộc cách mạng công nghiệp.  Cách mạng khoa học công nghiệp được hiểu đó là những bước phát triển   nhảy vọt về  chất trình độ  tư  liệu lao động trên cơ  sở  những phát minh đột  phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại kéo theo   sự thay đổi căn bản về trình độ phân công lao động xã hội cũng như tạo bước   phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ  áp dụng một cách phổ  biến  những tính năng mới trong kỹ thuật – công nghệ đó vào đời sống xã hội.  Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa hẹp: là cuộc cách mạng  trong lĩnh vực sản xuất, tạo ra sự thay đổi cơ  bản các điều kiện kinh tế ­ xã   hội, văn hóa và kỹ  thuật, xuất phát từ  nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế  giới. Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa hẹp thường dùng để  chỉ  cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở Anh, vào nửa cuối thế kỷ  XVIII, đầu thế  kỷ  XIX. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp này là  chuyển từ lao động thủ công, quy mô nhỏ lên lao động sử dụng máy móc, quy  mô lớn.  Cách mạng khoa học công nghiệp theo nghĩa rộng: là những cuộc cách  mạng diễn ra ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực sản xuất, dẫn đến những thay  đổi cơ bản các điều kiện kinh tế ­ xã hội, văn hóa và kỹ thuật của xã hội loài  người với mức độ  ngày càng cao. Như  vậy, theo nghĩa rộng thì “Cách mạng   công nghiệp” bao quát tất cả  các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử  đều được đặc trưng bằng sự  thay đổi về  chất của sản xuất và sự  thay đổi   này được tạo ra bởi các tiến bộ đột phá của khoa học công nghệ.  2.1.2. Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp Về  mặt lịch sử, cho đến nay, loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng   công nghiệp và đang bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  (Cách  mạng công nghiệp 4.0). Cụ thể: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất  khởi phát từ nước Anh, bắt đầu từ  giữa thế  kỷ  XVIII đến giữa thế  kỷ  XIX. Tiền đề  của cuộc cách mạng này  xuất phát từ  sự  trưởng thành về  lực lượng sản xuất cho phép tạo ra bước  phát triển đột biến về  tư  liệu lao động, trước hết trong lĩnh vực dệt vải sau   đó lan tỏa ra các ngành kinh tế khác của nước Anh. Nội dung cơ bản của cuộc   cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là chuyển từ lao động thủ công thành lao  động sử  dụng máy móc, thực hiện cơ  giới hóa sản xuất bằng việc sử  dụng   năng lượng nước và hơi nước. Những phát minh quan trọng tạo tiền đề  cho   cuộc cách mạng này là: Phát minh máy móc trong ngành dệt như thoi bay của  John Kay (1733), xe kéo sợi Jenny (1764), máy dệt của Edmund Cartwright   (1785)… làm cho ngành công nghiệp dệt phát triển mạnh mẽ. Phát minh máy   động lực, đặc biệt là máy hơi nước của James Watt là mốc mở đầu quá trình   cơ  giới hóa sản xuất. Các phát minh trong công nghiệp luyện kim của Henry   Cort, Henry Bessemer về  lò luyện gang, công nghệ  luyện sắt là những bước  tiến lớn đáp ứng cho nhu cầu chế tạo máy móc. Trong ngành giao thông vận 
  5. tải, sự ra đời và phát triển của tàu hỏa, tàu thủy… đã tạo điều kiện cho giao   thông vận tải phát triển mạnh mẽ.  Nghiên cứu về cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, C.Mác đã khái quát  tính quy luật của cách mạng công nghiệp qua ba giai đoạn phát triển là: hiệp  tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp. C.Mác khẳng định đó  là ba giai đoạn tăng năng suất lao động xã hội; ba giai đoạn phát triển của lực  lượng sản xuất gắn với sự củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tư bản chủ  nghĩa; đồng thời cũng là ba giai đoạn xã hội hóa lao động và sản xuất diễn ra   trong quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán lên sản xuất  lớn, tập trung, hiện đại.  Cách mạng công nghiệp lần thứ  hai  diễn ra vào nửa cuối thế  kỷ  XIX  đến đầu thế  kỷ  XX. Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  hai  được thể  hiện  ở  việc sử  dụng năng lượng điện và động cơ  điện, để  tạo ra   các dây chuyền sản xuất có tính chuyên môn hóa cao. Nội dung của cuộc cách   mạng này là chuyển nền sản xuất cơ khí sang nền sản xuất điện – cơ khí và   sang giai đoạn tự  động hóa cục bộ  trong sản xuất. Cuộc cách mạng công  nghiệp lần thứ  hai là sự  tiếp nối cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  nhất,  với những phát minh về công nghệ và sản phẩm mới được ra đời và phổ biến   như  điện, xăng dầu, động cơ  đốt trong. Kỹ  thuật phun khí nóng, công nghệ  luyện thép Bessemer trong sản xuất thép đã làm tăng nhanh sản lượng, giảm   chi phí và giá thành sản xuất. Ngành sản xuất giấy phát triển kéo theo sự phát   triển của ngành in ấn và phát hành sách, báo. Ngành chế tạo ô tô, điện thoại,  sản phẩm cao su cũng được phát triển nhanh. Sự  ra đời của những phương  pháp quản lý sản xuất tiên tiến của H.For và Taylor như  dây chuyền, phân  công   lao   động   chuyên   môn   hóa   được   ứng   dụng   rộng   rãi   trong   các   doanh   nghiệp   đã   thúc   đẩy   nâng   cao   năng   suất   lao   động.   Cuộc   cách   mạng   công  nghiệp lần thứ  hai cũng đã tạo ra những tiến bộ  vượt bậc trong giao thông  vận tải và thông tin liên lạc.  Cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu từ  khoảng những thập niên  60 của thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX. Đặc trưng cơ bản của cách mạng này   là  sử  dụng  công  nghệ  thông  tin,  tự   động  hóa  sản   xuất.  Cách  mạng  công  nghiệp lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và  số  hóa vi mô được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính   (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập  niên 1990). Đến cuối thế kỷ XX, quá trình này cơ bản hoàn thành nhờ những   thành tựu khoa học công nghệ  cao. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  ba   đã chuyển từ  công nghiệp điện tử  ­ cơ  khí, sang công nghệ  số. Sản phẩm   được sản xuất hàng loạt với sự  chuyên môn hóa cao, cùng với sự  phát triển  của cách mạng Internet, máy móc điện tử, điện thoại di động. Những tiến bộ  kỹ thuật công nghệ  nổi bật trong giai đoạn này là: hệ  thống mạng, máy tính   cá nhân, thiết bị điện tử sử dụng công nghệ số và robot công nghiệp.  Cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  được đề  cập lần đầu tiên tại Hội  chợ triển lãm công nghệ Hannover (CHLB Đức) năm 2011 và được Chính phủ 
  6. Đức đưa vào “Kế  hoạch hành động chiến lược công nghệ  cao” năm 2012.  Gần đây tại Việt Nam cũng như trên nhiều diễn đàn kinh tế thế giới, việc sử  dụng thuật ngữ cách mạng công nghiệp lần thứ tư với hàm ý có một sự  thay  đổi về chất trong lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thế giới. Cách mạng  công nghiệp lần thứ  tư  được hình thành trên cơ  sở  cuộc cách mạng số, gắn  với sự phát triển và phổ  biến của Internet kết nối vạn vật với nhau (Internet  of Things – IoT). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được phát triển ở ba lĩnh  vực chính là vật lý, công nghệ số và sinh học. Biểu hiện đặc trưng là sự xuất  hiện các công nghệ mới có tính đột phá về chất so với các công nghệ truyền  thống.  Trong lĩnh vực vật lý thông tin, có nhiều công nghệ  mới xuất hiện và  nhanh chóng được áp dụng một cách phổ  biến. Công nghệ  in 3D, Big Data,   Blockchain… chẳng hạn. Công nghệ in 3D là công nghệ tạo ra một đối tượng  vật lý bằng cách in theo các lớp từ một bản vẽ hay một mô hình 3D có trước.   Cùng với công nghệ in 3D, trong lĩnh vực vật lý còn có sự phát triển của cảm  biến – bộ cảm biến là thiết bị  điện tử  cảm nhận trạng thái hay quá trình vật  lý, hóa học  ở  môi trường khảo sát và biến đổi thành tín hiệu điện tử  để  thu   thập thông tin về trạng thái hay quá trình đó. Thông tin sau đó sẽ được xử  lý  để rút ra tham số định tính hoặc định lượng, phục vụ cho các nhu cầu nghiên   cứu, nhu cầu kinh tế ­ xã hội, môi trường và dân sinh. Ngoài ra, trong lĩnh vực   vật lý còn có sự  phát triển của công nghệ  xe tự  hành, hiện đang được thử  nghiệm ở giai đoạn cuối và sẽ được thương mại hóa trong tương lai gần, khi   đó sẽ dẫn đến những thay đổi lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và bảo vệ  môi trường.  Về  công nghệ  số  nhưng công nghệ  nổi bật là Internet kết nối vạn vật,   dữ liệu lớn, trí thông minh nhân tạo và chuỗi khối. Internet phát triển giúp kết  nối vạn vật thông qua mạng wifi, mạng viễn thông băng thông rộng (3G, 4G)   Bluetooth, Zigbee, hồng ngoại… sẽ hình thành các hệ thống thông minh và các  hệ thống thông minh này kết nối với nhau, để hình thành hệ thống thông minh   lớn hợp nhất như: nhà thông minh, văn phòng thông minh, thành phố  thông  minh, đô thị  thông minh, công nghiệp thông minh, nông nghiệp thông minh…   Dữ  liệu lớn (Big Data) là một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp, được xử  lý để lấy các thông tin thích hợp phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế ­   xã hội, văn hóa hoặc môi trường. Công nghệ Blockchain cho phép một cơ  sở  dữ  liệu được chia sẻ  trực tiếp không thông qua trung gian, trong tương lai   Blockchain sẽ được sử  dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: bầu cử, khai   sinh, kết hôn, xác nhận tài liệu, văn bằng…  Về công nghệ sinh học, nổi bật là các công nghệ về gen và tế bào, công   nghệ  phức hợp y sinh – thông tin (kết hợp thông tin với các bộ  phận cơ  thể  sống). Sự phát triển của công nghệ sinh học tổng hợp trong tương lai sẽ cho  phép các nhà khoa học tạo ra các AND, cấy ghép để  tạo ra những bộ  phận  thay thế  trong cơ  thể  người, giúp chữa những căn bệnh nan y như  ung thư,  huyết áp, tiểu đường… từ đó giúp kéo dài tuổi thọ con người, công nghệ gen 
  7. thậm chí có thể tạo ra những giống, loài động, thực vật kể cả con người, có  thể  chống chọi được với điều kiện môi trường tự  nhiên khắc nghiệt. Công  nghệ  gen cũng giúp ngành nông nghiệp gia tăng sản lượng lương thực, thực  phẩm đáp ứng nhu cầu gia tăng dân số nhanh chóng.  Như  vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội   dung cốt lõi về  tư  liệu lao động. Sự  phát triển của tư  liệu lao động đã thúc   đẩy sự  phát triển của văn minh nhân loại. Theo nghĩa đó, vai trò của cách   mạng công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy phát triển.  2.1.3. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển Vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp đối với phát triển có thể  được khái quát như sau: Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất. Ba là, thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển 2.2 Kinh tế tri thức 2.2.1. Sự hình thành và bản chất của kinh tế tri thức Từ những năm cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ có bước phát  triển nhảy vọt, đặc biệt là xuất hiện cách mạng thông tin, cách mạng tri thức  và sự bùng nổ của công nghệ cao làm ra đời nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế  tri thức đã cuốn mọi quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển.  Kinh tế tri thức là lĩnh vực mà ở đó mỗi sản phẩm hay toàn bộ sản phẩm   được tạo bởi nguồn gốc là tri thức chiếm tỷ trọng chủ yếu (70 – 75% trở lên) Bản chất của nền kinh tế tri thức: là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri   thức cho phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả  việc khai thác kho tri thức  toàn cầu, cũng như  làm chủ, sáng tạo ra tri thức đáp  ứng nhu cầu riêng của  mình (UNDP – 2014). Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ  yếu nhất là  sáng tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức, biến tri thức thành  giá trị. Sức lao động trở thành động lực trực tiếp nhất của sự phát triển.  2.2.2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức Nền kinh tế tri thức bao gồm một số đặc điểm sau: Một là, hoạt động kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Hai là, sáng tạo và đổi mới là động lực phát triển “phát minh trở  thành   một nghề đặc biệt”.  Ba là, hoạt động kinh tế có tính toàn cầu hóa, mạng thông tin là kết cấu   hạ tầng quan trọng nhất.  Bốn là, sự di chuyển cơ cấu lao động theo hướng gia tăng số lao động trí  tuệ và dịch vụ. Sự chuyển đổi về cơ cấu các ngành kinh tế. Năm là, nền kinh tế dựa trên sự học tập và nhân lực tài năng.  Sáu là, tri thức hóa các quyết sách kinh tế.
  8. II. THỰC TRẠNG PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO  ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG  NGHỆ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 1. Tác động của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế  tri thức đến   phân công lao động và sử dụng lao động nói chung Các cuộc cách mạng công nghiệp có những tác động vô cùng to lớn đến  sự  phát triển lực lượng sản xuất của các quốc gia. Và đồng thời, tác động  mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu trúc và vai trò của các nhân tố trong lực  lượng sản xuất xã hội. Về tư  liệu lao động, từ  chỗ  máy móc ra đời thay thế  cho lao động chân tay cho đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản   xuất sang giai đoạn tự động hóa, tài sản cố định thường xuyên được đổi mới,  quá trình tập trung hóa sản xuất được đẩy nhanh. Sự phát triển mạnh mẽ của  lực lượng sản xuất dưới tác động của công nghệ thông tin hiện đại đang tạo  ra những biến đổi to lớn trong phân công lao động xã hội, cụ thể là: Phân công lao động dưới tác động của công nghệ thông tin đang thay đổi  theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân tay, mà điển hình là sự  xuất hiện một dạng lao động mới ­ lao động thông tin. Đây là loại lao động  liên quan trực tiếp đến thông tin, đến các quy trình, như đầu vào, đầu ra, xử lý   thông tin. Những người lao  động trong lĩnh vực thông tin rất đa dạng, đa  ngành nghề; họ có thể là những nhân viên văn phòng, người lập trình, chuyên  gia, kỹ  sư, nhà nghiên cứu, doanh nhân, nhà phân tích... Nhiệm vụ  của họ  là   sản xuất, xử  lý, trao đổi thông tin, cung cấp những cơ  sở  cho việc ra quyết   định. Đòi hỏi đối với lao động thông tin là không chỉ nắm vững khả năng thao   tác, mà còn phải có khả  năng thích  ứng và sáng tạo với những thay đổi liên   tục của công việc, nhằm thu được hiệu quả  tối đa. Như  vậy, phân công lao  động trong nền kinh tế mới không còn phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên  nhiên, ngành nghề  được đào tạo, nguồn lao động dồi dào hay lượng tư  bản  lớn như  trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng lao động có   năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động thông tin   là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức. Đi kèm với sự  xuất hiện của lao động thông tin là sự  biến đổi nhanh  chóng trong cơ  cấu ngành nghề  của nền kinh tế. Việc thu hẹp những ngành  nghề trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và xu hướng mở rộng, phát  triển các loại ngành nghề mới thuộc lĩnh vực hoạt động dịch vụ  tất yếu kéo  theo sự  thay đổi về cơ  cấu lao động. Số  lao động trong các lĩnh vực có liên  quan đến thông tin và xử lý thông tin tăng nhanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực   phần mềm máy tính, nghiên cứu triển khai, phân tích, đo lường, giáo dục ­ đào  tạo và hàng loạt các ngành khác. Cơ  cấu lao động biến đổi theo hướng tăng  đội ngũ lao động chất xám. Vai trò của người điều hành sản xuất ngày càng   trở  nên hết sức quan trọng, quyết định sự  thành bại của các công ty, các tổ  chức kinh tế. Như vậy, ngoài việc đem lại những lợi ích to lớn, như thúc đẩy  nền kinh tế phát triển vượt bậc, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều, tạo  
  9. những cơ  hội có việc làm mới thì nền sản xuất mới, với những đòi hỏi khắt   khe về  năng lực và kỹ  năng lao động cũng sẽ  loại trừ  những cá nhân không  đáp ứng được những yêu cầu đó. Có thể thấy, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nòng cốt  là cách mạng công nghệ thông tin đã góp phần làm biến đổi nội dung và tính  chất của lao động. Về  nội dung, lao động đang chuyển dần từ  lao động thủ  công, lao động cơ  khí sang lao động thông tin, lao động trí tuệ. Về  tính chất,  lao động đang biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc.   Lao động được xã hội hoá thể  hiện  ở  việc tổ  chức sản xuất trực tiếp giữa   các đơn vị  sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn với sự  phân công lao động   vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng phi chuyên môn hoá  một cách rộng rãi. Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động dưới tác động của cuộc   cách mạng trong công nghệ  thông tin đặt ra một câu hỏi là, phải chăng bản   chất của lao động đang có sự thay đổi? Chúng ta biết rằng, trong các nền sản  xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lao động là một sự  bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở thành cái   mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung và   tính chất của lao động, chúng ta có thể  hy vọng rằng, lao động không còn là  một thứ  nô dịch, lao động đang dần trở  về  đúng với bản chất đích thực của   nó, tức là lao động đã thực sự  trở  thành một nhu cầu, là hoạt động tự  do và   sáng tạo của con người. Công nghệ thông tin đã và đang tạo tiền đề cho việc  thay đổi vị trí, chức năng của con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát  triển của công nghệ  thông tin, nhiều chức năng mà con người trực tiếp đảm  nhận trong chu trình sản xuất trước đây được chuyển giao dần cho máy móc.  Điều này đã giúp con người có thể  giảm thiểu thời gian cho các hoạt động   vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần, sáng tạo và  hưởng thụ. Con người không còn bị  cột chặt vào guồng máy sản xuất như  trong nền kinh tế  công nghiệp, mà họ  được tự  do hơn trong các hoạt động  của mình. Công nghệ thông tin cùng các công nghệ khác của cuộc cách mạng   khoa học và công nghệ  đang góp phần tạo ra một hệ  thống "khoa học ­ kỹ  thuật ­ sản xuất" thống nhất. Với hệ  thống này, lao động ngày càng mang  nhiều nội dung khoa học, trí tuệ và sáng tạo. Song, cần phải lưu ý rằng, điều đó không có nghĩa là những tiến bộ của  công nghệ nói chung và công nghệ thông tin nói riêng là nguyên nhân duy nhất   quyết định sự thay đổi bản chất của lao động. Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng,  bản chất của lao động là sáng tạo, nhưng dưới chế độ  sở  hữu tư nhân về  tư  liệu sản xuất, cái bản chất tốt đẹp đó của lao động đã bị  tha hoá. Bởi vậy,   nếu chỉ  căn cứ  vào sự  phát triển của các tiến bộ  khoa học, kỹ  thuật, công   nghệ mà khẳng định trong nền kinh tế thông tin, lao động đã trở  về  với bản   chất sáng tạo ban đầu của nó thì chưa thoả  đáng.  Ở  điểm này, chúng ta cần  phải lưu ý tới quan điểm của thuyết kỹ  trị  khi thuyết này cho rằng, sự  phát   triển của kỹ  thuật sẽ quyết định toàn bộ  sự  phát triển của các lĩnh vực khác 
  10. của đời sống xã hội. Trong thực tế, điều đó đã không diễn ra đúng như  vậy;  bởi lẽ, trong xã hội vẫn còn tồn tại sự  đối kháng về  lợi ích giữa người giàu   với người nghèo, giữa các nước phát triển với các nước kém phát triển. Mâu thuẫn lớn nhất hiện nay của xã hội tư bản, kể cả các nước tư bản   phát triển cao nhờ công nghệ thông tin như nước Mỹ, vẫn là mâu thuẫn giữa  tính chất xã hội hoá cao độ  của lực lượng sản xuất với chế  độ  sở  hữu tư  nhân về  tư liệu sản xuất. Mặc dù, chủ  nghĩa tư  bản đã có những điều chỉnh   nhất định trong phân phối và đa dạng hoá các hình thức sở hữu do sự bắt buộc  của sản xuất, song bản chất của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vẫn không   hề thay đổi. Dù cho một bộ  phận dân cư  có sự  chuyển dời về  địa vị  xã hội,   hoặc được cải thiện về  mặt đời sống… thì nhìn tổng thể, quyền lực vẫn   thuộc về  những nhà tư  bản lớn, những nhóm người có khả  năng thao túng  kinh tế quốc gia, thậm chí cả nền kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế hiện đại, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã phát  triển vượt bậc và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên bình diện quốc tế  vẫn còn tồn tại khá phổ  biến. Mặc dù lực lượng sản xuất đã có bước phát  triển nhảy vọt về  chất, song quan hệ sản xuất vẫn chưa có những thay đổi   tương ứng, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất cả ở tầm quốc   gia lẫn quốc tế. Tuy một số cường quốc tư bản hàng đầu đã có những điều  chỉnh trong chính sách phát triển, nhưng đó vẫn chỉ là những cải biến để thích  ứng và mang tính cục bộ. Nhìn tổng thể, chế độ  sở  hữu tư  nhân tư  bản chủ  nghĩa đối với tư liệu sản xuất ở những quốc gia này vẫn tiếp tục được duy trì  và đây chính là nguồn gốc của những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội tư bản.   Hơn nữa, ngày nay, sự  thống trị của sở hữu tư nhân tư  bản chủ  nghĩa không   còn bó hẹp trong các nước tư  bản chủ  nghĩa, mà đã bao trùm trên phạm vi  toàn cầu, thông qua các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia. Người nắm giữ  các công ty này đều là những tập đoàn tư  bản lớn của các nước tư  bản phát  triển. Họ  có đủ  tiềm lực để  nắm bắt, chiếm lĩnh những thành tựu mới nhất  của khoa học và công nghệ, đặc biệt là những thành tựu của công nghệ thông  tin. Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, trong thời đại thông tin, kinh   tế  tri thức ngày nay, ai nắm giữ  được thông tin người đó sẽ  chiến thắng và   giữ quyền thống trị. Các nước tư bản phát triển đang làm được điều đó và do  vậy, mâu thuẫn giữa con người với con người trong thời đại thông tin ngày   nay chưa thể  bị  triệt tiêu. Bởi vậy, hoàn toàn không nên  ảo tưởng rằng, sự  phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại có thể làm thay đổi được bản   chất của chủ  nghĩa tư  bản. Chính  ở  đây, những nghiên cứu sâu hơn về  tác  động của công nghệ  hiện đại, trong đó có công nghệ  thông tin, trong tương   quan với các biến đổi xã hội khác là một đòi hỏi cấp thiết. 2. Những  cơ  hội  và  thách  thức  đặt  ra  cho  lao  động  Việt  Nam  trong  bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức Nói đến bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển   kinh tế  tri thức hiện nay đó chính là việc đề  cập đến cuộc cách mạng công 
  11. nghiệp lần thứ  tư. Đối với Việt Nam, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  tư  có những  ảnh hưởng to lớn, mang lại nhiều cơ  hội nhưng cũng đặt ra   không ít thách thức trong vấn đề liên quan đến lao động Việt Nam. 2.1. Cơ hội Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra rất nhiều cơ hội làm việc mới, hứa  hẹn  khả năng gia  tăng  năng  suất và nâng cao thu  thập cho người  lao  động.  Cụ thể: Thứ  nhất,  Việt  Nam  hiện vẫn là  quốc  gia  có  lợi  thế  về  số  lượng  lao  động  trẻ  và  lao   động  giá  rẻ.  Cách  mạng  4.0  có  thể  dẫn  đến   xu  hướng  chuyển dịch các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động từ  các nước phát triển sang các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam (  K ergroach, 2017).  Nếu  như  xu  hướng  chuyển  dịch  này  là  rõ ràng  thì  Việt  Nam thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam sẽ không ở mức quá cao. Tuy nhiên  lợi thế về lao động giá rẻ sẽ mất dần đi khi chúng ta dân số dần bị già hoá.  Do vậy về mặt dài hạn, tăng trưởng cần dựa vào sự gia tăng của chất lượng  lao động. Thứ  hai,  nhiều  nhà  phân  tích  cho  rằng  những cơ  hội  việc  làm  mới  sẽ  được tạo ra trong cách mạng 4.0. Đặc biệt nhu cầu đối với những lao động  có khả năng kết hợp giữa máy móc  với  những  kiến  thức về  kỹ thuật  điện  tử,  điều  khiển  và  thông  tin  hay  chính  là kiến  thức  STEM  (Tomas Volek;  Martina  Novotnas, 2017).  Cuộc  cách  mạng  này  sẽ  tạo  ra những  thay  đổi  trong cơ cấu lao động giữa các ngành mà ở đó chúng ta có thể kỳ vọng nhu  cầu sử dụng lao động trong các ngành công nghiệp sản xuất truyền thống sẽ  giảm đi trong khi  nhu  cầu  lao  động trong ngành dịch  vụ  có  sự  tăng lên.  Sự  tăng lên của cầu lao động trong những ngành dịch hứa hẹn sẽ góp phần tăng  thu nhập cho người lao động. Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra áp lực và đồng thời là cơ hội  để  lao  động phải  Việt  Nam  không  ngừng  nâng  cao  trình  độ,  kỹ  năng  cũng  như tạo áp lực đổi mới lên hệ thống giáo dục đào tạo để có thể đáp ứng nhu  cầu về nhân lực trong thời kỳ mới. Những  cơ  hội  việc  làm  mới  được  tạo  ra  đòi  hỏi  người  lao  động  phải  có  trình  độ  và  kỹ  năng tương ứng như các  kỹ  năng  giải  quyết  vấn  đề,  teamwork,  giao  tiếp,  công  nghệ  thông tin…là  những kỹ năng mà đại bộ phận lao động Việt Nam đang thiếu và  yếu. Để  đáp ứng được những yêu cầu công việc mới đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân  người lao động và đặc biệt sự đổi mới và phát triển của hệ thống giáo dục  đào tạo. Thứ  tư,  năng  suất  lao  động  trong  cách  mạng  4.0  có  xu  hướng  được  cải  thiện  do việc  giảm  nhu  cầu  sử  dụng  lao  động  là  con  người  mà  thay  bằng máy móc và robots. Với công  nghệ  phát  triển,  các  nhà  máy  sản  xuất  có  thể  tránh  được  những  lỗi  phát  sinh  bởi máy  móc  do  có  khả  năng  phân  tích  và  dự  đoán  trước các  lỗi  kỹ thuật. Hiệu  quả sản  xuất có thể sẽ được  cải  thiện nhanh hơn do  các  dịch vụ kho vận được nâng cấp, giảm tiêu  hao  năng lượng và sử dụng nguyên liệu…, từ đó tiết kiệm chi phí sản xuất cho 
  12. doanh nghiệp trong khi doanh thu có xu hướng tăng do đáp ứng được tốt hơn  nhu cầu của người tiêu dùng.  Người  lao  động  lúc  này  được  sử  dụng  một  cách  hiệu  quả  hơn  và  chỉ  cho  những công  việc  mà  thực  sự  đòi  hỏi  sự  có  mặt  của  con  người.  Năng  suất  của  người  lao  động tăng lên tạo cơ hội để  Việt Nam tạo ra  những đột phá trong cải thiện tiền  lương và thu nhập cho  người lao động. Như  vậy  nếu  Việt  Nam  có  thể  tận  dụng  được  những  lợi  thế  này  do  cách  mạng công  nghiệp  4.0  mang  lại  thì  đó  sẽ  là  cú  huých  rất  lớn  giúp  người  lao  động  có  được những công việc làm tốt hơn, giúp cải thiện năng  suất và thu nhập của họ 2.2. Thách thức Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại rất nhiều thách thức đối với các  quốc gia nói chung và đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt  Nam nói riêng. Một là, thiếu hụt lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp. Như đã phân tích ở trên, Việt Nam vẫn là nước có lợi thế về số lượng  lao động, nhưng chất lượng lao động thấp đang là vấn đề báo động đối với  nước ta. Do vậy, thách thức lớn nhất đặt ra cho chúng ta là thiếu hụt nguồn  nhân lực có trình độ. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các công ty  sẽ gia gia tăng nhu cầu sử dụng lao động có trình độ và thay thế dần giữa sử  dụng giữa lao động và vốn. Điều đó có nghĩa là việc sử dụng lao động vẫn  là cần thiết nhưng vai trò của người lao động sẽ thay đổi. Các doanh nghiệp  sẽ có nhu cầu nhiều hơn với những lao động có khả năng tích hợp các kiến  thức về công nghệ, tự động hoá, thông tin và những kỹ năng mềm quan trọng  như teamwork, giao tiếp, giải quyết vấn đề, kỹ năng về công nghệ thông tin  trong khi lại cắt giảm nhu cầu đối với các lao động giản đơn. Hai là, thách thức trong chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao  động và thu nhập cho người lao động. Hiện có khoảng 40% lao động Việt Nam đang làm việc trong lĩnh vực  nông  nghiệp với  năng  suất  lao  động  cực  thấp.  Trong cuộc  cách  mạng  4.0,  một số ngành nghề sử dụng lao động giản đơn sẽ không còn  nhưng những  ngành nghề mới đòi hỏi lao động có trình độ sẽ ra đời. Trong nông nghiệp,  việc tăng cường  ứng dụng  công  nghệ  trong  nông  nghiệp sẽ  góp phần  tăng  suất, sản lượng, giảm số giờ lao động của lao động nông nghiệp. Nhưng để  có thể thực sự tạo ra sự cải thiện đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp, một  mặt  nó  đòi hỏi  người  nông  dân  phải  có  những  kỹ  năng  tay  nghề  mới,  mặt  khác  lao  động  nông nghiệp, nông thôn cần có sự chuẩn bị về trình độ  và kỹ năng để có thể chuyển dịch thành công từ lĩnh vực nông nghiệp sang  công  nghiệp và  dịch  vụ.  Đối  với  các  ngành  sản  xuất, lao  động  giản  đơn  trong ngành dệt may, giày da và trong ngành điện tử có khả năng rất lớn sẽ  bị thay thế khi máy móc, công nghệ và tự động hoá diễn ra trên quy mô rộng  (ILO,2018). Do đó, để có thể đáp ứng được với yêu cầu của công việc trong  tình hình mới đòi hỏi nguồn nhân lực phải được trang bị kiến thức, kỹ năng 
  13. cần thiết. Tuy nhiên, như đã chỉ  ra ở trên, lao động của chúng ta đa phần là  lao  động  phổ  thông, chưa  qua  đào  tạo,  các  kỹ  năng  cứng  mà  mềm  cũng  thiếu  và  yếu,  vậy  nên  bài  toán  chuyển  dịch  cơ  cấu  lao  động, tăng  năng  suất và thu nhập trở thành một bài toán không đơn giản. Ba là, thách thức trong việc gia tăng bất bình đẳng giữa các tầng lớp lao  động. Bất  bình  đẳng nổi  lên  giữa các  tầng  lớp  lao  động do  cơ  cấu  lao động  thay đổi và những bộ phận lao động kém thích nghi với công nghệ mới sẽ bị  đào thải. Bất bất bình đẳng vì thế tăng lên giữa các ngành kinh tế, giữa các  vùng miền, giữa thành thị và nông thôn  ( Zoltán  Rajnai;  István Kocsis,  2017).  Những  nhóm  lao  động  nghèo  sẽ  là  những người  bị  ảnh  hưởng  rất  nhiều  trong  bối  cảnh  của  công  nghệ  số.  Cách  mạng  4.0  cũng  có thể  khiến  bất  bình  đẳng  về  giới  tăng  lên  do  phụ  nữ  vẫn  thường  được  xem  là  kém  thích  ứng  với  sự  thay  đổi  của  công  nghệ  hơn  là  nam  giới.  Với  tỷ  lệ  48%  lao  động  là  nữ  như hiện nay cho thấy nếu không có những chính sách chuẩn bị  và  hỗ  trợ  cho  lao  động  nữ  trong bối cảnh công nghệ  thì bộ phận lao động  này có khả năng bị tổn thương rất lớn. Bốn là, thách thức đặt ra đối với hệ thống giáo dục đào tạo. Chất  lượng nguồn nhân lực  là  yếu  tố  then  chốt  để  đảm bảo  sự  thành  công của  Việt Nam  trong  bối  cảnh  của  cách  mạng  4.0.  Để  nâng  cao  chất  lượng  nguồn  nhân  lực,  khâu đột phá là đổi mới và nâng cao giáo dục và đào  tạo. Nhưng vấn đề đặt ra cho Việt Nam là nền giáo dục đào tạo của chúng  ta  còn  ở  trình  độ  thấp  và  chậm được đổi  mới.  Mặc  dù công  cuộc  đổi  mới  giáo dục nước nhà đã được tiến hành từ khá lâu nhưng chưa đạt được những  thành  tựu  khả  quan.  Hiện  vẫn  còn  rất  nhiều  khoảng  trống  và  bất  cập  trong  hệ thống  giáo  dục  và  đào  tạo  của  Việt  Nam.  Bằng  chứng là  mặc  dù  nhu  cầu  với  lao  động, đặc  biệt  là  lao  động  trình  độ  cao  là  rất  cao  nhưng  các  doanh  nghiệp  lại  không  thể  tìm được những người lao động tốt và đáp  ứng được nhu cầu của công việc. Trong khi đó có một thực tế là tỷ lệ thất  nghiệp, đặc biệt là thất nghiệp của đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn  kỹ thuật cao lại ở mức cao (đã phân tích ở trên). Điều này cho thấy khoảng  cách  giữa  đào  tạo,  đặc  biệt  là  đào  tạo  đại  học  với  nhu  cầu  xã  hội  là  rất  lớn.    hông chỉ chất lượng đào tạo thấp, hiện còn tồn tại sự bất hợp lý trong  cơ cấu đào tạo chung, cơ cấu đào tạo theo  ngành cũng như sự  thiếu  hụt  lao  động ở  một  số  ngành mà  thị trường lao động đang có nhu cầu. Đặc biệt, một trong những đặc thù của cách mạng 4.0 là kết nối và chia  sẻ dữ liệu. Do vậy việc giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy kỹ sư phải có khả  năng tích hợp được nhiều kiến thức bằng phương pháp STEM. Nhưng trong  số  350  trường  đại  học  ở  Việt  Nam,  chỉ  có  12  trường  có  nhóm  giảng  viên    được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp STEM. Trong bố cảnh  mới đòi hỏi người lao động không chỉ có được năng lực phối hợp, tổ  chức  tốt các công việc và còn phải có được những kỹ năng phối hợp với nhau và 
  14. có được  tư  duy đổi  mới  sáng  tạo  mới  có  thể  thích  ứng  tốt  với  những  yêu  cầu của công việc. Điều này đòi hỏi phải có những quan điểm về giáo dục  và  đào tạo  mới:  đó  là  liên tục,  mở  và  mang  tính khai phóng.  Cách  tiếp cận  của chúng ta đối với quan điểm giáo dục này còn hạn chế. Năm là,  Việt Nam chưa có sự chuẩn bị  đáng kể nào trước thời đại của  công nghệ số. Tại Hội nghị Industry 4.0 Summit and Expo 2018 tổ chức tại Hà Nội vào   ngày 13 tháng 7 năm 2018, Thủ  tướng Ng uyễn Xuân  Phúc  khẳng  định  Việt  Nam  đã  sẵn sàng  đón  nhận  những  thách  thức  của  cuộc  cách  mạng  4.0  và    tận dụng những cơ hội mà nó mang lại. Theo số liệu từ cuộc điều tra khảo  sát do Vietnam ICT Summit thực hiện thì có 35,2% các doanh nghiệp Việt đã  sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó chủ yếu là các doanh    nghiệp, IT và trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, theo đánh  giá  của  các  tổ  chức  quốc  tế  Việt  Nam  lại  chưa  có  sự  chuẩn  bị  sẵn  sàng  cho  cuộc cách  mạng này. Theo báo  cáo  mới  nhất  của  diễn  đàn  kinh  tế  thế  giới  đánh giá  sự  sẵn  sàng  của  các quốc  gia  trước  tương  lai  của  nền  sản  xuất  thế  giới  thì  Việt  Nam nằm trong các quốc gia “Nascent countries”, tức là thuộc nhóm các quốc  gia  sơ  khai,  đứng  ở  thứ  hạng  cuối  cùng và  chưa  có  chuẩn bị  tốt  cho  cuộc  cách  mạng  này.  Theo  đó,  trong  số  100  quốc  gia  được đánh  giá,  Việt  Nam  đứng thứ 48 về chỉ số cơ cấu sản xuất và đứng thứ 53 về chỉ số các nhân tố  dẫn dắt sản xuất có khoảng cách rất xa với Malaysia (lần luợt xếp thứ 20 và  22 về hai chỉ số này) và Thái Lan (xếp thứ 12 và 35). Đánh giá sự sẵn sàng của một số quốc gia đối với tương lai của nền sản xuất thế giới Chỉ số cấu trúc Chỉ số các yếu tố sản xuất dẫn dắt sản xuất Tên quốc gia Điểm Xếp  Điểm Xếp  hạng hạng Trung Quốc 8,25 5 6,14 2 Malaysia 6,81 2 6,51 5 2 Singapore 7,28 0 1 7,96 1 2 Ấn Độ 5,99 1 3 5,24 4 Phillipines 6,12 0 2 4,51 4 6 Thái Lan 7,13 8 1 5,45 6 3 HongKong 4,52 2 5 7,45 5 8 Qatar 3,89 7 5,96 2 Việt Nam 4,96 2 4 4,93 9 5 8 3
  15. Nguồn: (WEF, 2018) Đáng  chú  ý  là  trong  các  tiêu  chí  để  đánh  giá  các  nhân  tố  dẫn  dắt  sản  xuất, các yếu tố liên quan đến đổi mới sáng tạo và công nghệ sáng tạo chiếm  một  tỷ  trọng  lớn  cho  thấy năng  lực  đổi  mới  sáng  tạo  của  Việt  Nam  còn  ở  mức thấp (WEF, 2018). Điều này là một trở ngại không nhỏ cho chúng ta khi  bước vào cuộc cách mạng 4.0. Tuy vậy, cũng có thể thấy rằng tuy Việt Nam  nằm trong các nhóm nước được xếp hạng ở vị trí cuối cùng về  mức độ sẵn  sàng  nhưng vị  trí  của  chúng ta  đang  khá  gần  với  nhóm nước tiềm năng. Do  vậy, trong thời gian tới nếu Việt Nam có những chiến lược đúng đắn, chúng  ta  có  nhiều cơ  hội  cải  thiện  năng  lực  đổi  mới  và  sẵn  sàng  hơn  trước  kỷ  nguyên số.  3. Đổi mới phân công và sử  dụng lao động trong bối cảnh cách mạng  khoa học công nghệ và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển   kinh tế trí thức hiện nay, vấn đề phân công lao động và sử  dụng lao động ở  Việt Nam có sự thay đổi theo xu thế chung của khu vực và thế giới.  Việt Nam hiện là quốc gia sở hữu lực lượng lao động dồi dào với gần  55 triệu lao động. Đại bộ phận lao động của chúng ta là lao động trẻ.  Lực lượng lao động Việt Nam qua các năm phân theo nhóm tuổi Cơ cấu(%) Tổng số Năm (nghìn người) 15 ­ 24 25 ­ 49 50+ 15 ­ 24 25 ­ 49 50+ 2000 38.545,4 8.289,1 25.474,1 4.782,2 21,5 66,1 12,4 2002 40.716,0 8.776,8 26.783,9 5.155,3 21,6 65,7 12,7 2004 43.008,9 9.060,6 27.236,0 6.712,3 21,1 63,3 15,6 2006 46.238,7 9.727,4 29.447,7 7.063,6 21,0 63,7 15,3 2008 48.209,6 8.734,3 29.973,4 9.501,9 18,1 62,2 19,7 2010 50.392,9 9.245,4 30.939,2 10.208,3 18,3 61,4 20,3 2012 52.348,0 7.887,8 32.014,5 12.445,7 15,1 61,1 23,8 2014 53.748,0 7.585,2 32.081,0 14.081,8 14,1 59,7 26,2 2016 54.445,3 7.510,6 32.418,3 14.516,4 13,8 59,5 26,7
  16. Sơ bộ 59,5 2017 54.823,8 7.581,1 32.599,2 14.643,5 13,8 26,7 Nguồn: GSO Lực lượng lao động nằm trong độ  tuổi  từ  15  đến  49  hiện  chiếm  trên  73%  lực  lượng  lao  động,  trong  đó  lao  động  từ  15 đến  24  tuổi  chiếm gần  14% và lao động từ 25 đến 49 tuổi chiếm 60%. Cơ  cấu lao động Việt Nam  hiện  vẫn  đang  ở  trong  thời  kỳ  dân  số  vàng  và  chúng  ta  vẫn  được xem  là  quốc gia đang có lợi thế về số lượng lao động. Tuy nhiên chúng ta đang mất  dần đi lợi thế này khi chuẩn bị bước vào thời kỳ già hoá dân số. Lao động từ  50 tuổi trở lên đang bắt đầu tăng nhanh từ mức 12,4% vào năm 2000 lên gấp  hơn 2 lần, 26,7% vào năm 2017. Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, Việt  Nam sẽ bước vào thời kỳ già hoá dân số  trong khoảng 15 đến 20 năm nữa.  Khi không có lợi thế về số lượng lao động nữa, chúng ta phải dựa vào chất  lượng của lao động. Lực lượng lao động Việt Nam phân theo giới tính và phân theo thành thị và nông thôn Thành Nông Tổng số Nam Nữ thị thôn 2005 42.774,9 21.926,4 20.848,5 10.689,1 32.085,8 2010 49.048,5 25.305,9 23.742,6 13.531,4 35.517,1 2015 52.840,0 27.216,7 25.623,3 16.374,8 36.465,2 2016 53.302,8 27.442,8 25.860,0 16.923,6 36.379,2 Sơ bộ 2017 53.703,4 27.813,7 25.889,7 17.116,7 36.586,7 Tỷ lệ Thành Nông (%) Tổng số Nam Nữ thị thôn 2005 100 51,3 48,7 25,0 75,0 2010 100 51,6 48,4 27,6 72,4 2015 100 51,5 48,5 31,0 69,0 2016 100 51,5 48,5 31,7 68,3 Sơ bộ 2017 100 51,8 48,2 31,9 68,1 Nguồn: GSO Cơ  cấu  lao  động  về  giới  của Việt  Nam  hiện  nay  khá cân  bằng  với 
  17. khoảng 48% lao động nữ và 52% lao động là nam giới. Lao động làm việc ở  khu  vực  nông  thôn  có  giảm nhưng  vẫn  chiếm  tỷ  lệ  cao  trên  tổng  số  lao  động, từ 75% trên tổng số lao động vào năm 2005 xuống còn 68,1% vào năm  2017 Có thể thấy đại bộ phận lao động Việt Nam làm việc trong ngành nông,  lâm nghiệp và thuỷ sản. Cơ cấu chuyển dịch lao động theo ngành diễn ra rất  chậm.  Cụ  thể  là  năm  2005,  tỷ  lệ  lao  động  làm việc  trong  lĩnh  vực nông  nghiệp,  lâm nghiệp  và  thuỷ  sản;  công  nghiệp  và  xây  dựng,  dịch  vụ  lần  lượt  là  55,1%,  17,6%  và 27,1%. Tính đến năm 2017, tức là sau 12 năm; mặc  dù đã có sự chuyển dịch lao động lao động sang khu vực công nghiệp và xây  dựng và dịch vụ (lao động trong hai ngành này tăng lên tương ứng 25,7% và  34,1% trên tổng số lao động Việt Nam) nhưng lao động trong lĩnh vực nông  nghiệp vẫn ở mức cao 40,2%. Tỷ lệ (%) lao động đã qua đào tạo và chưa qua đào tạo của Việt Nam
  18. Nguồn: GSO Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của chúng ta đạt thấp và chậm được cải  thiện theo thời  gian.  Năm 2009, tỷ  lệ  lao  động đã  qua  đào  tào  chiếm 14,8%  trên tổng số lao động. Tính đến thời điểm năm 2016, ước tính cũng mới  chỉ  có  trên  20%  lao  động  đã  qua  đào tạo. Bên cạnh đó có sự  mất cân đối nhất  định trong cơ cấu đào tạo, trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo trình độ đại  học trở lên tăng nhanh hơn so với các loại hình đạo  khác  (lao  động  qua  đào  tạo có trình độ đại học trở lên tăng nhanh từ 5,5% vào năm 2009 lên 9% vào  năm 2016) trong khi số lao động được đào tào dưới hình thức dạy nghề, trung  cấp  chuyên  nghiệp  và cao  đẳng  tăng chậm  hoặc  tăng  không  đáng  kể  (lao  động được đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề  tương ứng từ 1,5%, 2,7% và  4,8%  vào  năm 2009  lên  2,7%,  3,9%  và  5%  vào  năm 2006). Sự  mất cân đối không những xảy ra  đối với cơ cấu  đào tạo mà  còn tồn tại sự  mất cân đối trong hệ thống các trường đào  tạo,  mất  cân  đối  về  ngành  nghề.  Nguồn  nhân  lực  không  được  đào  tạo  tốt  và bố  trí  hợp lý  khiến cho lao động không thể phát huy được hết vai trò và tiềm năng của nó  phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việt Nam hiện đang ở trong cảnh  vừa thừa vừa thiếu lao động, thừa lao động có tay nghề thấp nhưng lại thiếu    lao động lành nghề. Trong một báo cáo của mình, World Bank đã chỉ ra, hiện  các doanh nghiệp gặp phải khó khăn rất lớn trong việc tuyển dụng lao động  do  lao  động  không có  đủ  những kiến  thức  và  kỹ  năng  cần  thiết  và  do  sự  thiếu hụt lao động ở một số ngành nghề (WB, 2013). Các doanh nghiệp cũng  đồng thuận về nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự yếu kém của lao động Việt  Nam là do hệ thống giáo dục và đào tạo. Hiện nay cũng như trong thời gian  tới,  doanh nghiệp có nhu cầu cao đối với người lao động có những kỹ năng  tổng hợp về cả tay nghề, nhận thức và hành vi, đặc biệt là các kỹ năng như  giao tiếp, teamwork, giải quyết vấn đề nhưng những kỹ năng hiện lao động  Việt Nam đang rất yếu. Vì lao động chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp và ở nông thôn nên  tỉ lệ thất nghiệp  ở Việt Nam thuộc hàng thấp nhất Đông Nam Á và thế giới 
  19. nhưng tỷ lệ thiếu việc làm  lại  khá  cao do tính  chất  mùa  vụ  của  nghề nông.  Đây cũng là  lí  do khiến tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị cao hơn so với  ở nông thôn nhưng tỷ  lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn lại cao hơn so  với thành thị (xem bảng 5). Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng tỷ lệ thất nghiệp  và  tỷ  lệ  thiếu  việc làm  đã  giảm  theo thời gian.  Trong  đó  tỷ  lệ  thất nghiệp  chung và tỷ lệ thiếu việc làm chung giảm tương ứng từ mức 2,38% và 4,65%  năm 2008 xuống còn 2,24 % và 3,18%. Thất nghiệp của Việt Nam qua các năm phân theo  thành thị và nông thôn Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thiếu việc làm Chung Thành thị Nông thôn Chung Thành thị Nông thôn Sơ bộ 2017 2,24 3,18 1,78 1,62 0,82 2,03 2016 2,30 3,23 1,84 1,66 0,73 2,12 2014 2,10 3,40 1,49 2,35 1,20 2,90 2012 1,96 3,21 1,39 2,74 1,56 3,27 2010 2,88 4,29 2,30 3,57 1,82 4,26 2008 2,38 4,65 1,53 5,10 2,34 6,10 Nguồn: GSO III. MỘT SỐ  KIẾN NGHỊ ĐỔI MỚI PHÂN CÔNG VÀ SỬ  DỤNG LAO  ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ  VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM Trên  cơ  sở  phân  tích  thực  trạng phân công và sử  dụng lao  động  ở  Việt  Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phát triển kinh tế  tri thức, những cơ hội và thách thức của cách mạng 4.0 đối với lao động, tác  giả  đề  xuất  một  số  khuyến  nghị  giúp  lao  động  nước ta  tận  dụng  được  những cơ hội và vượt qua những thách thức đặt ra như sau: 1. Đối với chính phủ Cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực sáng tạo, với sự hợp   tác chặt chẽ  giữa các cơ  sở  đào tạo và doanh nghiệp. Chiến lược cần đảm   bảo tăng cường sự  tham gia của lao động nữ. Cần có kế  hoạch để  vượt qua   các rào cản về  nhận thức, tầm nhìn nhằm huy động nguồn lực cho đào tạo  nhân lực, coi đó là sự sống còn của doanh nghiệp, tương lai của quốc gia. Cần tăng cường các yếu tố  sáng tạo trong xây dựng các chính sách về  giáo dục đào tạo và các chính sách lao động, việc làm đáp  ứng các yêu cầu   mới về kỹ năng, tạo ra môi trường đào tạo tốt hơn. Cần có các chính sách thị  trường lao động tích cực với các mục tiêu xác định rõ ràng và các chương trình  hỗ  trợ  lao động tìm việc. Thị  trường lao động và các chính sách xã hội cần  được xây dựng phù hợp với các hình thức việc làm mới.
  20. Cần có những quy định luật pháp rõ ràng và tạo sân chơi bình đẳng cho  mọi doanh nghiệp và có các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào  R&D, đổi mới công nghệ để tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp  lần thứ 4. Nghiên cứu chính sách đào tạo lao động cho khu vực nông nghiệp, nông  thôn,  đẩy   nhanh  tiến  trình  công  nghiệp  hoá  nông  nghiệp  nông  thôn  để  chuyển  dịch  cơ  cấu lao động thành công và cải thiện thu nhập cho lao động  nông nghiệp, nông thôn. Khuyến  khích  đổi  mới  sáng  tạo  thông  qua  xây dựng các  trung tâm  đổi  mới  sáng tạo  trực thuộc các  trường đại  học  gắn  chặt  chặt  với  môi trường  kinh doanh, hỗ trợ các ý tưởng khởi nghiệp và nghiên cứu triển khai. Cần có  chính  sách  huy động nguồn  vốn từ  nhà đầu  tư  thiên thần và  mạo hiểm để  đầu tư vào các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo. Cần hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội bảo đảm cho mọi người dân có   thu nhập tối thiểu, có khả năng phòng ngừa, khắc phục và giảm thiểu rủi ro;   hoàn thiện các dịch vụ công để  cung cấp các dịch vụ  xã hội cơ  bản về y tế,   giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin cho người dân. 2. Đối với hệ thống đào tạo và dạy nghề Cuộc cách mạng công nghiệp mới mới đặt ra yêu cầu phải kết hợp các  kiến thức về  công nghệ  thông tin (IT) với các kiến thức về  công nghệ  điều  hành (OT) trong các chương trình đào tạo và các khóa học nghề. Do vậy, cần   tập trung vào đào tạo nghề và có những chính sách thu hút sinh viên theo học  các ngành khoa học ­ công nghệ ­ kỹ thuật.  Nâng  cao  chất  lượng  nguồn  nhân  lực  thông  qua đổi  mới  giáo dục và  nâng cao chất lượng đào tạo là khâu then chốt. Để làm tốt nội dung này cần  tập trung vào một số điểm sau: ­ Cần cơ  cấu  lại  hệ  thống đào tạo để  đảm bảo  cân đối  giữa các hình  thức  đào  tạo (như đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp, đào tạo nghề), các  ngành nghề đào tạo, chú trọng vào đào tạo những ngành nghề mà xã hội, các  doanh nghiệp đang có nhu cầu. Giáo dục nghề  nghiệp cần tăng cường năng  lực của hệ thống, mở  rộng thu hút người học, tăng cường đào tạo năng lực  thực hành, tập trung vào những kỹ  năng cơ  bản cốt lõi (sáng tạo, phân tích  phê phán, trình bày, công nghệ thông tin, ngoại ngữ….), kỹ năng kỹ thuật và  kỹ năng hành vi xã hội để làm việc trong môi trường công nghệ hiện đại. ­ Đổi  mới  nội  dung  và  chương  trình  đào  tạo  trong  đó  chú  trọng  cập  nhật  những chương trình đào tạo về STEM, công nghệ thông tin, khoa học  dữ  liệu,  an  ninh, an toàn  thông  tin...Việt  Nam  là  quốc  gia  có  thế  mạnh  về  lĩnh  vực  khoa  học  tự  nhiên và công nghệ thông tin nên đào tạo về STEM là  một hướng đi tốt để chúng ta tận dụng những lợi thế của mình. ­ Tiếp  cận  và  thay  đổi  quan  điểm  giáo  dục  từ  truyền  thống  sang  hệ  thống  giáo  dục mở và mang tính khai phóng. Đào tạo cần linh hoạt, có tính  liên ngành, trú trọng trang bị cho sinh viên không chỉ kiến thức mà còn trang  bị năng lực nhận thức, tư  duy  và  các  kỹ  năng  cần  thiết  như  kỹ  năng  giao 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2