
- 1 -
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
MÔN HỌC:
Lý thuyết Công ty,
thiết kế, và thay đổi
CHƯƠNG III: Quản lý trong
Môi trường thay đổi Toàn cầu
Giảng viên : TS. Hồ Ngọc Phương
Nhóm thực hiện : Nhóm 3
Lớp : MBA-4-2

- 2 -
MÔI TRƯỜNG CÔNG TY LÀ GÌ?
Môi trường: Là tập hợp các nguồn lực xung quanh của một công ty mà nó
có những ảnh hưởng tìm ẩn đến những phương thức hoạt động của doanh
nghiệp cũng như khả năng tiếp cận các nguồn lực khan hiếm.
Tài sản của Công ty: Là những loại hàng hóa và dịch vụ đặc thù mà công ty
có thể sản xuất ra để phục vụ cho khách hàng và các bên liên quan.
Môi trường cụ thể
Các y ếu tố từ những nhóm người có liên quan bên ngoài và ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng đảm bảo nguồn lực của một công ty.
Các nhóm người có liên quan bên ngoài bao gồm: khách hàng, nhà
phân phối, đoàn thể, các đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp và chính
phủ
Công ty phải tham gia vào các giao dịch với tất cả những người có liên quan
bên ngoài nhằm đạt được các nguồn lực để tồn tại.
Môi trường chung
Hình 3
-
1: Môi t
r
ng ca công ty
Y
ếu tố văn hóa v
à
Nhân học
Các y
ếu tố
nước ngoài
Các y
ếu tố
chính trị
Khách hàng
Nhà phân ph
ối
Chính ph
ủ
Đoàn th
ể
Công ty
Các nhà
Cung cấp
Đ
ối thủ
Cạnh tranh
Các yếu tố
môi trư
ờng
Các y ếu tố
kinh t
ế
Các yếu tố
công ngh
ệ
Môi trường cụ thể Môi trường chung

- 3 -
Các yếu tố hình thành môi trường cụ thể và ảnh hưởng đến khả năng của tất
cả các công ty trong môi trường riêng biệt để có được các nguồn lực.
Các yếu tố kinh tế : Các yếu tố chẳng hạn như lãi suất, tình hình kinh tế, và
tỉ lệ thất nghiệp, xác định mức độ của nhu cầu đối với sản phẩm và giá cả
đầu vào.
Các yếu tố công nghệ : Sự phát triển của kỹ thuật, dây chuyền sản xuất mới
và thiết bị xử lý thông tin mới, ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh hoạt động của
công ty.
Các yếu tố chính trị và môi trường: Chính sách của chính phủ ảnh hưởng
đến công ty và những người có liên quan.
Những yếu tố về nhân học, văn hóa và xã hội: Tuổi tác, giáo dục, lối sống,
chuẩn mực xã hội, giá trị, và phong tục tập quán của một quốc gia.
Những yếu tố trên sẽ định hình nên những khách hàng, những nhà
quản lý và nhân viên của công ty.
Các yếu tố không minh bạch trong môi trường của công ty
Tất cả các yếu tố tạo ra tính không minh bạch cho các công ty.
Tính không minh bạch gây rất nhiều khó khăn cho các nhà quản lý trong
việc kiểm soát các nguồn lực để bảo vệ và mở rộng phạm vi hoạt động của
họ.
Hình 3-2: Ba yếu tố gây ra sự không minh bạch.
Tính phức tạp của môi trường : sức mạnh, số lượng, và sự liên kết giữa
các yếu tố chung và riêng mà một công ty phải quản lý.
Liên kết lẫn nhau : Làm tăng tính phức tạp của môi trường công ty.
M
c đ ca s không minh bch

- 4 -
Tính năng động của môi trường: mức độ mà các yếu t ố trong môi trường
chung và cụ thể thay đổi theo thời gian.
Môi trường ổn định : Các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn lực có thể dự
đoán trước.
Môi trường không ổn định ( năng động ): Rất khó để dự đoán các
yếu tố sẽ thay đổi và gây ảnh hưởng như thế nào đến các nguồn lực.
Tính phong phú của môi trường : Đó là các nguồn lực sẵn có để hỗ trợ cho
các lĩnh vực hoạt động trong công ty.
Môi trường có thể nghèo nàn do :
• Công ty đặt tại ở một nước nghèo hoặc trong khu vực nghèo
của một quốc gia.
• Mức độ cạnh tranh cao, và các công ty phải tranh giành để có
được nguồn lực có sẵn.
LÝ THUYẾT PHỤ THUỘC VÀO NGUỒN LỰC
Các công ty phụ thuộc vào môi trường về nguồn lực mà họ cần để tồn tại và
phát triển. Việc cung cấp nguồn lực phụ thuộc vào độ phức tạp, năng động và sự
phong phú của môi trường sẽ trở nên nghèo hơn bởi vì những khách hàng quan
trọng bị mất đi hoặc những đối thủ mới gia nhập vào thị trường, các nguồn lực
dường như ngày càng khan hiếm và có giá trị hơn, và không chắc chắn là s ẽ tăng
lên. Các công ty nỗ lực quản lý việc giao dịch của họ với môi trường để chắc chắn
việc sử dụng các nguồn lực mà họ phụ thuộc. Họ muốn việc sử dụng nguồn lực của
mình có thể dự đoán trước bởi vì khả năng dự đoán trước sẽ đơn giản hóa việc quản
lý lĩnh vực và thúc đẩy sự sống còn của họ.
Theo lý thuyết phụ thuộc vào nguồn lực, mục tiêu của một công ty nhằm để
giảm tối đa sự phụ thuộc của mình vào các công ty khác trong việc cung ứng các
nguồn lực khan hiếm và tìm ra những phương pháp gây ảnh hưởng lên các công ty
đó để tạo ra các nguồn lực sẵn có. Do đó, hai vần đề về sự phụ thuộc vào nguồn lực
mà một công ty cần phải giải quyết. Một là gây ảnh hưởng lên các công ty khác để
giành được nguồn lực, hai là phải đáp ứng cung và cầu của các công ty khác trong
môi trường đó.
M ức độ phụ thuộc của một công ty vào một công ty khác là sự tổng hợp của hai
yếu tố. M ột là nguồn lực quan trọng như thế nào đối với sự tồn tại của công ty. Đầu
vào khan hiếm và có giá trị (ví dụ như các bộ phận thành phần và nguyên liệu thô)
và các nguồn lực (như khách hàng và các cửa hàng phân phối) rất quan trọng đối
với sự tồn tại của một công ty. Hai là nguồn lực được kiểm soát bởi các công ty
khác. Ví dụ, những nhà sản xuất nắp chai và đồ hộp cần nhôm để sản xuất vỏ đồ
hộp nhưng trong nhiều năm, việc cung cấp nhôm được kiểm soát bởi Alcoa, trong
đó có một độc quyền ảo.
Ngành công nghiệp máy tính cá nhân minh họa hoạt động của cả hai yếu tố.
Các nhà sản xuất máy tính cá nhân như Compaq, gateway và dell thì phụ thuộc vào
các công ty như Intel trong việc cung cấp chip bộ nhớ và mạch tích hợp. M ột số

- 5 -
công ty, như Apple và IBM thì không bán hàng trực tuyến (Dell và Gateway dẫn
đầu trong bán hàng trực tuyến), phụ thuộc vào chuỗi cửa hàng máy tính, những cửa
hàng bán lẻ có chứa sản phẩm của họ và hệ thống trường học cũng như các doanh
nghiệp mua sản phẩm của họ với số lượng lớn. Khi có một vài nhà cung cấp cùng
một loại linh kiện như mạch tích hợp hoặc một vài công ty phân phối và bán cùng
một loại sản phẩm thì các công ty trở nên rất phụ thuộc vào những công ty đã tồn
tại. Ví dụ, Intel sản xuất ra rất nhiều các vi mạch tiên tiến nhất, do đó có rất nhiều
quyền lực đối với các nhà sản xuất máy tính, những người cần các con chip nhanh
nhất để cạnh tranh thành công trên thị trường. Một công ty phụ thuộc vào một công
ty khác càng nhiều thì quyền lực về sau càng lớn và nó càng có thể đe dọa hoặc khai
thác các công ty phụ thuộc nếu nó muốn làm như vậy.
Để quản lý sự phụ thuộc nguồn lực và kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực
khan hiếm, tổ chức phát triển các chiến lược khác nhau. Giống như các quốc gia cố
gắng tạo dựng một chính sách quốc t ế để tăng khả năng ảnh hưởng đến vấn đề thế
giới, vì vậy các công ty cố gắng tìm cách giảm sự phụ thuộc của mình vào môi
trường. M icrosoft là một ví dụ tốt về việc quản lý môi trường để kiểm soát sự phụ
thuộc vào nguồn lực . (xem ...3.2)
CHIẾN LƯỢC LIÊN KẾT GIỮA C ÁC CÔNG TY ĐỂ QUẢN LÝ SỰ PHỤ
THUỘC VÀO NGUỒN LỰC
Như ví dụ về Microsoft cho thấy, dòng chảy của nguồn lực giữa các công ty là
không minh bạch và còn mơ hồ. Để giảm sự không minh bạch, một công ty cần đưa
ra các chiến lược liên kết để quản lý các nguồn lực phụ thuộc lẫn nhau trong môi
trường chung và môi trường cụ thể của nó. Việc quản lý các nguồn lực phụ thuộc
lẫn nhau này cho phép một công ty bảo vệ và mở rộng phạm vi của nó. Trong một
môi trường cụ thể, một công ty cần quản lý mối quan hệ của nó với các nguồn lực
như các nhà cung cấp, đoàn thể và các nhóm lợi ích người tiêu dùng. Nếu họ giới
hạn việc tiếp xúc với các nguồn lực thì sẽ làm gia tăng sự không minh bạch.
Trong môi trường cụ thể, hai dạng cơ bản của sự phụ thuộc lẫn nhau gây nên sự
không minh bạch là cộng sinh và cạnh tranh. Sự phụ thuộc là cộng sinh khi các đầu
ra của một công ty là đầu vào của một công ty khác, do đó phụ thuộc cộng sinh
thông thường tồn tại giữa một công ty với các nhà cung cấp và các nhà phân phối
của nó. Intel và những nhà sản xuất máy tính như Compaq và Dell có một mối quan
hệ phụ thuộc cộng sinh. Phụ thuộc cạnh tranh tồn tại giữa các công ty cạnh tranh
các nguyên đầu vào và đầu ra khan hiếm. Compaq và Dell thì cạnh tranh về khách
hàng sử dụng máy tính của họ và đầu vào như các vi mạch mới nhất của Intel.
Công ty có thể sử dụng các cơ chế liên kết khác nhau để kiểm soát sự phụ thuộc
cạnh tranh và cộng sinh. Tuy nhiên, việc sử dụng các cơ chế này yêu cầu những
hành động và quyết định của các công ty liên kết phải phối hợp với nhau. Điều này
cần thiết cho sự phối hợp để làm giảm sự tự do – hoạt động của mỗi công ty và có
thể là trong lợi ích tốt nhất của nó. Giả sử rằng Comp aq, để bảo vệ nguồn cung cấp
chip trong tương lai, ký một hợp đồng với Intel đồng ý chỉ sử dụng chip của Intel.
Nhưng sau đó có một nhà sản xuất chip mới với một con chip ít tốn kém hơn. Hợp
đồng với Intel buộc Comp aq phải trả cho chip của Intel với giá cao hơn thậm chí
làm như vậy không nằm trong lợi ích tốt nhất cho Compaq.

