intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Sinh học cơ thể và phát triển cá thể: Khái niệm, giới thiệu quá trình sinh sản và phát triển ở nhóm côn trùng Cánh nửa (Hemiptera): Cà cuống (Lethocerus)

Chia sẻ: Dang Thi Tuyen | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

89
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài "Tiểu luận Sinh học cơ thể và phát triển cá thể: Khái niệm, giới thiệu quá trình sinh sản và phát triển ở nhóm côn trùng Cánh nửa (Hemiptera): Cà cuống (Lethocerus)" có nội dung trình bày về khái niệm sinh sản và phát triển của cà cuống; giới thiệu quá trình sinh sản ở cà cuống (Lethocerus); giới thiệu quá trình phát triển ở cà cuống (Lethocerus);... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Sinh học cơ thể và phát triển cá thể: Khái niệm, giới thiệu quá trình sinh sản và phát triển ở nhóm côn trùng Cánh nửa (Hemiptera): Cà cuống (Lethocerus)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA SINH HỌC BÀI TIỂU LUẬN MÔN: SINH HỌC CƠ THỂ VÀ PHÁT TRIỂN CÁ THỂ Chuyên đề: Khái niệm, giới thiệu quá trình sinh sản và phát triển  ở nhóm côn trùng Cánh nửa (Hemiptera): Cà cuống (Lethocerus).
  2. HÀ NỘI – 2022
  3. NỘI DUNG CHÍNH PHẦN I. MỞ ĐẦU PHẦN II. NỘI DUNG 2.1. Khái niệm sinh sản và phát triển 2.1.1. Khái niệm phát triển 2.1.2. Khái niệm sinh sản 2.2. Giới thiệu quá trình sinh sản ở cà cuống (Lethocerus) 2.2.1. Sự khác biệt giới tính 2.2.2. Tập tính sinh sản 2.3. Giới thiệu quá trình phát triển ở cà cuống (Lethocerus) 2.3.1. Phát triển phôi 2.3.2. Phát triển hậu phôi PHẦN III. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. PHẦN I. MỞ ĐẦU Côn trùng hay còn gọi là sâu bọ, là nhóm động vật đa dạng nhất hành tinh, gồm  hơn một triệu loài đã được mô tả và gồm hơn một nửa số sinh vật sống. S ố lượng các  loài côn trùng được cho là từ 2,5 triệu đến 10 triệu nhưng có lẽ  là khoảng 5 triệu loài  [14].  Cà cuống là loài côn trùng nước thuộc họ Chân bơi (Belostomatidae), liên họ  Bã   trầu  (Nepoidae),   trong   phân  bộ   Râu  kín  (Cryptocerata)   của   bộ   côn  trùng  Cánh  nửa   (Hemiptera). Chúng có vùng phân bố  khá rộng trên thế  giới nhưng tập trung đa dạng   nhất vẫn là ở châu Mỹ, châu Âu chỉ có một loài, châu Phi và châu Úc hai loài, châu Á ba  loài (Hình 1)[16]. Hình 1. Sự phân bố của cà cuống (Perez­Goodwyn, 2006) [16] Ở Việt Nam, Nguyễn Công Tiễu (1928) lần đầu tiên mô tả một số đặc điểm hình thái,  giải phẫu, vai trò của cà cuống và định tên cho chúng là Belostoma indica Vitalis [17].  Năm 2000, Phạm Quỳnh Mai, Lê Xuân Huệ và Phạm Đình Sắc đã nghiên cứu một số  đặc điểm sinh học phát triển của loài cà cuống. Các công trình nghiên cứu về cà cuống  4
  5. giai đoạn đó đều cho rằng ở Việt Nam chỉ có một loài cà cuống là  Lethocerus indicus  (Lepeletier et Serville, 1825). Từ  năm 2000 – 2008, Vũ Quang Mạnh đã tiến hành thu   mẫu và nghiên cứu đặc điểm hình thái phân loại của các quần thể  cà cuống thu bắt   trên toàn lãnh thổ  Việt Nam. Từ những nghiên cứu của mình, Vũ Quang Mạnh (2006)  cho rằng quần thể cà cuống ở Việt Nam không chỉ có một loài sinh học mà có thể gồm   hai hoặc ba loài khác nhau. Trong Hội nghị  toàn quốc lần thứ  IV về  Sinh thái và Tài  nguyên sinh vật (2011), Vũ Quang Mạnh đã đưa ra kết luận  ở Việt Nam có hai loài cà  cuống   là  Lethocerus   indicus  (Lepeletier   et   Serville,   1825)   và  Kirkaldyia   deyrolli   (Vuillefroy, 1864). Tuy nhiên loài  Kirkaldyia deyrolli  (Vuillefroy, 1864) chỉ  được phát  hiện ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh còn loài Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville,  1825)   thì   phân   bố   trên   khắp   lãnh   thổ   Việt  Nam[11]. Cà cuống cũng là loài duy nhất thuộc  bộ   cánh   nửa   Hemiptera   được   đưa   vào   sách  đỏ  Việt Nam [10]. Về  hình thái chung, cà cuống trưởng thành  có cơ  thể  dẹt, hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu   đất, dài trung bình từ  7­8 cm, có con lên đến 10­ 12 cm. Khi còn non cà cuống giống như con gián,   mình dài khoảng 7­8cm, rộng 3cm, màu nâu xám,  có nhiều vạch đen, đầu nhỏ  với hai mắt tròn và  to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài  bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng  nhạt   có   lông   mịn,   ở   phía   trên   có   một   bộ   cánh  mỏng nửa mềm nửa cứng (Hình 2). Ở những con  đực, dưới ngực sẽ có hai túi nhỏ và dài được gọi là bọng cà cuống. Trong phần bọng   có chứa tinh dầu, một chất lỏng trong cho thoảng ra một mùi đặc biệt gần giống như  mùi quế. Đây chính là vũ khí để  tấn công con mồi cũng như  xua đuổi địch thủ  và dụ  con cái đến giao phối [4].  5
  6. Là một loại côn trùng hoàn toàn có lợi, cà cuống không chỉ được chế biến để làm  thức ăn, gia vị trong những món ăn mà còn được dùng như  một loại thuốc chữa bệnh,  rất tốt cho sức khoẻ. Trên cơ  thể  cà cuống có thể  chia ra nhiều bộ  phận và mỗi bộ  phần đều có công dụng riêng. Phần thịt, tinh dầu và phần trứng của cà cuống được  dùng làm thuốc [18]. Ngoài ra nhiều thực nghiệm y khoa còn cho thấy rằng, tinh dầu từ  cà cuống có tác dụng như  một chất kích thích thần kinh, nếu dùng  ở  liều thấp nó có  thể gây hưng phấn, đồng thời tăng cường khả năng sinh dục ở mức độ nhẹ [4].  Cà cuống là loài ăn thịt, hút dịch và máu của nhiều loài động vật thủy sinh, sâu  bọ, ốc, nhái và cá nhỏ…Điều này khiến chúng giữ  một vai trò quan trọng trong chuỗi   thức ăn ở các thủy vực, là thiên địch của một số loài, giúp con người tiêu diệt một số  loài thân mềm mang bệnh kí sinh trùng (ví dụ như rùa tai đỏ), ốc bươu vàng… Ngày nay, việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật   trong nông nghiệp đã làm ô nhiễm môi trường sống tự nhiên của cà cuống. Môi trường  sống tự  nhiên của chúng cũng ngày càng bị  thu hẹp do các hoạt động san lấp ao hồ,   đồng ruộng để  phục vụ  hoạt động sản xuất, các ngành công nghiệp, xây dựng…dẫn  tới số lượng cá thể  cà cuống trong tự nhiên ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Vì vậy  việc nghiên cứu tìm hiểu về quá trình sinh sản và phát triển của cà cuống có ý nghĩa vô   cùng quan trọng, giúp gây nuôi, bảo vệ, phục hồi và phát triển loài này trong tự nhiên. PHẦN II. NỘI DUNG 2.1. Khái niệm sinh sản và phát triển 2.1.1. Khái niệm phát triển Phát triển được hiểu chung là một dãy những biến đổi cấp tiến đưa sự  việc   ngày càng trở nên phức tạp hơn, hoàn thiện hơn, ở mức độ  phát triển cao hơn. Chẳng   hạn như sự phát triển của đời sống cá thể sinh vật nhằm thích ứng ngày càng cao hơn  với môi trường sống.  Trong cuốn “Sinh học phát triển cá thể  động vật”, tác giả  Mai Văn Hưng đã  định nghĩa sự phát triển cá thể sinh vật chính là một quá trình bao gồm một dãy các cấp   biến đổi liên tiếp và phức tạp về  cấu trúc, chức năng có trật tự  trong không gian đã   6
  7. được mã hóa trong bộ gen để từ một hợp tử có hình thái khác hẳn cơ thể trưởng thành   biến đổi thành cơ thể hoàn chỉnh, đặc trưng cho loài [3]. Qúa trình này xảy ra liên tiếp  từ  bộ  phận này tới bộ  phận khác, theo từng giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn phát   triển khác nhau của cá thể có thể diễn ra ở các môi trường khác nhau với sự sử dụng   các nguồn thức ăn khác nhau nhưng nó phải luôn thích ứng với môi trường sống. Sự phát triển của động vật là sự  biến đổi theo thời gian về hình thái và sinh lý  của các tế  bào, mô, cơ  quan và cơ  thể  từ  hợp tử  thành cơ  thể  trưởng thành (là giai   đoạn cơ  thể  phát dục, có khả  năng sinh sản) [2]. Ví dụ   ở  người, hợp tử  qua 8 ngày   phát triển thành phôi vị làm tổ trong dạ con người mẹ với các lớp tế bào khác nhau, sau  đó phát triển thành phôi thần kinh với mầm các cơ  quan và qua 9 tháng 10 ngày hình  thành em bé với tất cả các cơ  quan, đến tuổi dậy thì (13 ­ 14 tuổi) hình thành cơ  thể  trưởng thành có khả năng sinh sản. Dựa vào đặc điểm sinh trưởng và phát triển  ở động vật người ta chia thành các  kiểu phát triển là phát triển không qua biến thái và phát triển qua biến thái. Sự  sinh  trưởng và phát triển không qua biến thái có  ở  một số  động vật không xương sống và  đa số động vật có xương sống (cá, chim, bò sát, động vật có vú và con người). Trong   kiểu phát triển này con non có các đặc điểm hình thái, cấu tạo và sinh lí tương tự con  trưởng thành. Phát triển qua biến thái là kiểu phát triển mà con non (ấu trùng) có các   đặc điểm hình thái, cấu tạo và sinh lí khác nhau giữa các giai đoạn và khác với con   trưởng thành. Tùy theo mức độ  biến thái mà phân ra: biến thái hoàn toàn (ấu trùng có  hình dạng, cấu tạo và sinh lí rất khác với con trưởng thành, trải qua giai đoạn trung  gian, ấu trùng biến đổi thành con trưởng thành) và biến thái không hoàn toàn (ấu trùng  phát triển chưa hoàn thiện, gần giống với con trưởng thành, trải qua nhiều lần lột xác   ấu trùng biến đổi thành con trưởng thành). 2.1.2. Khái niệm sinh sản Sinh sản là một trong những tính chất phức tạp và đặc trưng nhất cho sự sống.   Trong sinh giới, có rất nhiều loài sinh vật mà sự  sinh sản đồng nghĩa với sự  sinh  trưởng. Ví dụ  như   ở  các loài côn trùng như  bướm, ruồi, thiêu thân, các dạng trưởng   7
  8. thành tồn tại vài ngày chỉ  để  thực hiện việc thụ  tinh và đẻ  trứng. Một số  loài nhện  đực, con đực sau khi thụ  tinh cho con cái thì trở  thành nguồn thức ăn của con cái, mà   thực chất để  nuôi dưỡng thế  hệ  sau. Sinh sản bao gồm ba yếu tố  là tăng trưởng, di  truyền và phát triển [3]. Sự tăng trưởng là điều kiện cốt yếu của sinh sản, nếu không   có tăng trưởng sự  sống dần đi đến kết thúc. Chính nhờ  có sinh sản mà các yếu tố  di   truyền của bố mẹ có cơ hội tái tổ hợp và truyền lại các đặc tính của mình cho thế hệ  sau. Phát triển là một loạt những biến đổi kế  tiếp của cơ  thể, nhờ  có quá trình phát   triển mà cơ  thể  có thể  sinh sản ra nhiều tế bào sinh dục có tổ  chức cao, nhằm đảm  bảo hiệu quả sinh sản. Ngoài ra sinh sản có thể hiểu là quá trình sinh học mà các sinh vật đơn lẻ mới ­  "con đẻ" ­ được tạo ra từ  "cha mẹ" của chúng. Có hai hình thức sinh sản: vô tính và   hữu tính. Trong sinh sản vô tính, một sinh vật mới được tạo ra sẽ  mang những đặc  điểm giống hệt cá thể ban đầu mà không cần sự đóng góp vật liệu di truyền của một   cá thể khác. Sinh sản hữu tính là một quá trình sinh học tạo ra các sinh vật mới bằng  cách kết hợp vật liệu di truyền từ hai cá thể  khác nhau của loài.  Ở  hầu hết các loài   động vật quá trình này bao gồm ba giai đoạn nối tiếp nhau: giai đoạn hình thành tinh   trùng và trứng, giai đoạn thụ  tinh (giao tử  đực kết hợp với giao tử  cái tạo thành hợp   tử), giai đoạn phát triển phôi hình thành cơ thể mới. 2.2. Giới thiệu quá trình sinh sản ở cà cuống (Lethocerus) 2.2.1. Sự khác biệt giới tính Để nghiên cứu về quá trình sinh sản ở cà cuống, việc đầu tiên cần làm là phân  biệt được sự  khác biệt về  giới tính giữa cà cuống đực trưởng thành và cà cuống cái   trưởng thành. Sự  khác biệt này được thể  hiện qua những sai khác về  hình thái phân   loại cũng như hình thái cấu tạo của cơ quan sinh dục.  Các chỉ tiêu so sánh hình thái phân loại cà cuống được thực hiện theo theo Perez­  Goodwyn (2006) gồm: Hình dạng chung, màu sắc, kích thước; hình thái phần đầu phần   phụ đầu; hình thái phần ngực và phần phụ ngực; hình thái phần bụng và cơ  quan giao   phối đực cái [16]. Vũ Quang Mạnh, Lê Thị Bích Lam (2012) đã mô tả chi tiết đặc điểm  8
  9. hình thái phân loại của cà cuống trưởng thành và kết luận cà cuống đực và cà cuống   cái không sai khác nhiều về  hình thái phân loại theo tỷ  lệ  cấu trúc các phần hay màu  sắc của cơ thể nhưng về kích thước, cá thể đực thường nhỏ hơn cá thể cái [12]. Ngoài   ra để  phân biệt cà cuống đực và cái ta có thể  dựa vào hình thái đốt bụng cuối, tấm   bụng và tấm lưng. Phần đỉnh của tấm bụng cuối của cá thể  đực có hình dạng thuôn   nhọn, với chóp đỉnh hơi lồi; cá thể  cái có tấm bụng bè rộng hơn và hơi lõm  ở  phần   đỉnh. Bên cạnh sự  sai khác về  hình thái phân loại, hình thái và cấu tạo cơ  quan sinh   dục là một đặc điểm quan trọng giúp phân biệt các cá thể cà cuống đực và cái (Hình 3),  (Hình 4).   A. Con đực B. Con cái Hình 3. Hình thái cơ quan sinh dục của cà cuống L. indicus trưởng thành [15] Hình 4. Hình thái cấu tạo cơ quan sinh dục cà cuống đực trưởng thành (hình trái)   9
  10. và cơ quan sinh dục của cà cuống cái trưởng thành (hình phải) (a) Lethocerus indicus; (b) Kirkaldyia deyrolli (Vũ Quang Mạnh, 2011) Bộ  phận sinh dục đực bao gồm một túi gốc (phallobase), một đôi gai bên (paramere),  cơ quan giao phối đực có dạng ống thuôn dài, phần đỉnh hơi cong xuống. Bộ phận sinh   dục cái gồm máng sinh dục cái (gonapophysis) có cấu trúc kép, là đôi  ống nhỏ, thuôn  dài và mảnh mai, cong gập vào trong, bao lấy tấm van mở hình tam giác cân. (Hình 4)  [11] 2.2.2. Tập tính sinh sản Tập tính là một khái niệm phức tạp, có thể  hiểu là chuỗi những phản ứng của  động vật trả lời kích thích từ môi trường bên trong hoặc bên ngoài cơ thể. Có hai loại  tập tính là tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh. Tập tính sinh sản là tập tính bẩm sinh   mang tính bản năng, gồm chuỗi các phản xạ  phức tạp do kích thích của môi trường  bên ngoài (nhiệt độ) hoặc bên trong (hoocmon) gây nên hiện tượng chín sinh dục, tranh  giành con cái, làm tình, mang thai, sinh đẻ, nuôi con...Tập tính sinh sản đặc trưng cho  mỗi loài, có cơ chế và được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau.  Cà cuống là loài sinh sản hữu tính, ở tuổi trưởng thành các cá thể cà cuống đực  tiết tinh dầu thu hút con cái, chúng tìm đến nhau, giao phối và thực hiện quá trình sinh   sản.   Thông thường cà cuống sinh sản từ tháng 6 đến tháng 9, đặc biệt là cuối tháng 7   đầu tháng 8, sau các trận mưa rào, nhiệt độ  nước từ  26 – 300C, nhiệt độ  không khí  khoảng 30 – 340C, pH trung tính khoảng 7,5 [8], [9]. Trong tự nhiên, cà cuống thường  có xu hướng lựa chọn, đẻ  trứng  ở  một vài sinh cảnh: nước đọng (ao, hồ, đầm…),  ruộng lúa nước, nước đọng trong ruộng lúa nước. Trong đó số lượng ổ trứng tập trung   nhiều nhất ở sinh cảnh nước đọng trong ruộng lúa nước. Ở sinh cảnh nước chảy như  sông suối…không bắt gặp sự xuất hiện của ổ trứng nào [13]. Quá trình sinh sản của cà cuống sẽ diễn ra sau năm tuần kể từ khi giao phối. Cà   cuống   Lethocerus indicus  thường đẻ  trứng thành đám, bao quanh các cọng cỏ  thủy   sinh, lúa nước. Khi đẻ  trứng, con cái sẽ  hướng phần đuôi lên trên và tiết ra chất dính   dạng bong bóng giữ cho trứng bám vào cây hoặc giá thể, xếp trứng thành những hàng  10
  11. ngay ngắn. Trứng cà cuống dài trung bình 4mm, rộng 2,4 mm; hai đầu trứng có kích   thước khác nhau rõ rệt. Trong một  ổ, các quả  trứng nằm vuông góc với giá thể  đỡ  trứng, đầu nhỏ  dính vào giá thể, đầu to hướng ra phía ngoài [6], [8]. Số  lượng trứng   được đẻ  trong một  ổ  là từ  100 đến hơn 160 quả. Trứng mới đầu có màu vàng sáng,  trắng sữa, sau một thời gian khi trứng chuẩn bị nở sẽ chuyển sang màu sẫm (Hình 5). Hình 5. Trứng cà cuống. [19] Cà cuống đực có nhiệm vụ bảo vệ trứng cho đến khi nở, giữ ẩm và bảo vệ trứng khỏi  những kẻ săn mồi. Chúng thường quạt nước làm tăng lượng oxi cho trứng [15]. Trứng   nở  sau khoảng 7 – 8 ngày với tỉ  lệ  trứng nở  thành  ấu trùng rất cao từ  90% đến gần  100% [13].  2.3. Giới thiệu quá trình phát triển ở cà cuống (Lethocerus) 2.3.1. Phát triển phôi Giống như các côn trùng khác, trứng cà cuống là trứng trung hoàng: Noãn hoàng   phân bố ở trung tâm, bao bên ngoài khối noãn hoàng này là một lớp tế bào chất ngoại  vi. Nhân nằm  ở trung tâm của trứng, xung quanh có một lượng nhỏ  tế bào chất, giữa  tế bào chất trung tâm và tế bào chất ngoại vi thông nhau bằng cầu nối tế bào chất hay  nhiều thể sợi. Trứng phân cắt bề mặt: Các lần phân chia đầu tiên chỉ có phân chia nhân   mà không phân chia tế bào chất, các nhân sau khi được phân chia đi theo các cầu tế bào   11
  12. chất ra ngoại vi. Tại đây, các nhân nằm trong lớp tế bào chất bề mặt trứng xếp thành   một lớp nhân bao quanh khối noãn hoàng, sau đó xung quanh của nhân đồng loạt xuất   hiện các rãnh phân cắt tạo các vách ngăn quanh nhân. Trong quá trình phát triển phôi có  hình thành màng ngoài và màng trong (Hình 6). Đến cuối giai đoạn dải phôi đã phân đốt để  cho các đốt đầu, đốt ngực và đốt   bụng với các phần phụ  tương  ứng. Riêng phần bụng chỉ  có mầm phần phụ, sau này  tiêu biến hoặc biến đổi [3]. 2.3.2. Phát triển hậu phôi Qúa trình phát triển của cà cuống gồm ba giai đoạn, bắt đầu từ  trứng đến giai  đoạn thiếu trùng, sau đó mới đến con trưởng thành. Cánh của chúng phát triển cùng  với quá trình lột xác của thiếu trùng và thể hiện đầy đủ chức năng ở con trưởng thành.   Thời gian từ  giai đoạn trứng tới khi trưởng thành khoảng 32 đến 43 ngày phụ  thuộc   vào nhiệt độ (Pongsart, 1990). Vòng đời của cà cuống là một năm hoặc lâu hơn.  12
  13. Thiếu trùng khi mới nở  ra từ trứng có màu vàng nhạt trong một vài giờ, sau đó  chuyển sang màu tối dần. Sau khi nở, thiếu trùng sẽ  bò dọc thân cây, rồi xuống dưới   nước. Nhưng phần lớn thời gian sống của chúng ở gần bề mặt nước, do vậy chúng có   thể  thở  một cách dễ  dàng . Ngay phía sau đầu của thiếu trùng có các  ống nhỏ, hoạt  động như những ống thở, mang không khí đi khắp cơ thể chúng. Nếu số lượng các con   non tập trung nhiều trong cùng một thủy vực thì có thể  xảy ra hiện tượng ăn thịt lẫn  nhau [7],[8].  Cà cuống phát triển qua biến thái không hoàn toàn: thiếu trùng mới nở  đã nhác thấy   giống con trưởng thành tuy mới chỉ có mầm cánh, chưa có đặc điểm sinh dục thứ cấp   nhưng có thể  có thêm các cơ  quan riêng. Cà cuống lột xác khoảng năm lần trong giai  đoạn thiếu trùng, sau mỗi lần lột xác các sai khác với con trưởng thành sẽ  giảm dần   cho đến khi giống con trưởng thành (Hình 7) [5], [8].Thời gian từ khi trứng cà cuống   nở tới khi trưởng thành khoảng 40 ngày.  PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Sự  phát triển phôi: Trứng trung hoàng, phân cắt bề  mặt. Trong quá trình phát  triển phôi có hình thành màng ngoài và màng trong. Đến cuối giai đoạn dải phôi đã   phân đốt để  cho các đốt đầu, đốt ngực và đốt bụng với các phần phụ  tương  ứng.  Riêng phần bụng chỉ có mầm phần phụ, sau này tiêu biến hoặc biến đổi. 13
  14. 2. Sự  phát triển hậu phôi: Cà cuống phát triển qua biến thái không hoàn toàn, lột   xác khoảng năm lần trong giai đoạn thiếu trùng, sau mỗi lần lột xác các sai khác với  con trưởng thành sẽ giảm dần cho đến khi giống con trưởng thành. 3. Qúa trình sinh sản: Cà cuống là loài sinh sản hữu tính, chúng giao phối và thụ  tinh trong. Trứng được đẻ thành từng đám, tỉ lệ trứng nở thành ấu trùng rất cao từ 90%  đến gần 100% . 14
  15. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu Tiếng Việt 1. Thái Trần Bái, Hoàng Đức Nhuận, Nguyễn Văn Khang (1971),  Động vật học không   xương sống, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Nguyễn Như Hiền, Vũ Xuân Dũng (2007), Sinh học cơ thể, NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Mai Văn Hưng (2009),  Sinh học phát triển cá thể  động vật, NXB Đại học Sư  phạm, Hà Nội. 4. Đỗ  Tất Lợi (1995), Những cây thuốc và vị  thuốc Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ  thuật, Hà Nội. 5. Phạm Quỳnh Mai, Lê Xuân Huệ, Phạm Đình Sắc (2000). Một số  đặc điểm sinh   sản và phát triển của cà cuống Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville, 1775).  Tạp   chí Sinh học, 4, 62­66. 6. Vũ Quang Mạnh (1998), Con cà cuống, loài côn trùng độc đáo, Khoa học đại chúng  phục vụ nông nghiệp và nông thôn, 60­66, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Vũ QuangMạnh (1999),  Nghiên cứu sinh thái, tập tính và gây nuôi cà cuống, Báo  cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp nhà nước, Mã số 6.17.98.,1­29, Hà Nội. 8. Vũ Quang Mạnh (Cb), Lê Xuân Huệ  (1999), Tập tính động vật và  ứng dụng trong   gây nuôi cà cuống và bọ cạp, 1­180, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.  9. Vũ Quang Mạnh (2000a), Đặc điểm hình thái và cấu tạo của cà cuống Lethocerus   indicus (Lepeletier et Serville, 1775)  ở Việt Nam , Những vấn đề Nghiên cứu cơ bản  trong Sinh học, 414­418, NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. 10.   Vũ Quang Mạnh (2007), Con cà cuống  Lethocerus indicus  (Lepeletier et Serville,  1775), Sách đỏ Việt Nam, tập 1 phần Động vật, 453­454, NXB KH và KT, Hà Nội. 15
  16. 11. Vũ  Quang Mạnh (2011).  Ghi nhận  loài cà  cuống  Kirkaldyia deyrolli  (Vuillefroy,  1864) (Lethocerinae, Belostomatidae) cho khu hệ Việt Nam,  Hội nghị khoa học toàn   quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 4, 206­213. 12. Vũ Quang Mạnh, Lê Thị  Bích Lam (2012). Đặc điểm hình thái, giới tính loài cà  cuống  Lethocerus   indicus  (Lepeletier   et   Serville,   1775)   và   môi   trường   sống   của  chúng ở Việt Nam. Tạp chí Sinh học, 34, 166­172. 13. Sonexay rasphone (2017). Nghiên cứu định loại, môi trường sống và tập tính sinh  sản của loài cà cuống (Lethocerus sp.) ở tỉnh Savannakhet, Cộng hòa Dân chủ Nhân  dân Lào, Luận văn thạc sĩ khoa học Sinh học.  II. Tài liệu nước ngoài 14. David   Grimaldi,   Michael   S.   Engel   (2005).   Evolution   of   the   Insects,  Cambridge  University Press. UK, pp. 1­755. 15. Hasko Friedrich Nesemann & Gopal Sharma (2013). “Observations on the life history  of   giant   water   bugs   Lethocerus   Mayr,   1853   (Heteroptera:   Nepomorpha:  Belostomatidae) in the Gangetic plains of India and Nepal”.  Journal of Threatened   Taxa. 5(10): 4474­4482. 16.  Perez­Goodwyn P. J., 2006. Taxonomic revision of the subfamily Lethocerinae Lauck  & Menke (Heteroptera: Belostomatidae). Stuttgarter Beiträge zur Naturkunde, Serie A  (Biologie), 695: 1­ 71+74 Abb. 17. Tieu,   N.   C.   (1928).   Notes   sur   les   insectes   comestibles   au   Tokin.   Bull.   Econ.   de  l’Indochine, 31, 735­744. 18. Smith   R.   J.,   1997.   In:   Choe   J.   &   B.   Crespi   (Eds)   Social   Behavior   in   insects   and  Arachnids, Cambridge University Press. UK, pp. 116­149. III. Internet 16
  17. 19.  https://danviet.vn/la­ma­hay­kiem­2­trieungay­tu­nuoi­con­chet­den­dit­van­con­cay­  7777824267.htm 20.  http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/biologie/cacuong.htm  17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2