intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận THỰC TRẠNG THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2011

Chia sẻ: Ngô Thị Thu Mai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

1.097
lượt xem
133
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận thực trạng thu chi ngân sách nhà nước việt nam trong giai đoạn 2009-2011', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận THỰC TRẠNG THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2011

  1. THỰC TRẠNG THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2011 LỜI MỞ ĐÂU Trong lịch sử loài người, nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện các chức năng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình nhà nước cần phải có nguồn lực tài chính đó là cơ sở vật chất cho nhà nước tồn tại và hoạt động. Và do đó, ngân sách nhà nước ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà nước cũng như sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa. Ngân sách nhà nước đã trở thành một công cụ quan trọng nhất được nhà nước sử dụng để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, huy động nguồn tài chính, điều tiết vĩ mô nền kinh tế cũng như điều tiết thu nhập nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Những việc đó được thực hiện thông qua hoạt động thu, chi của ngân sách nhà nước. Thu để định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh… Chi để nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, nâng cao đời sống nhân dân… Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách nhà nước còn eo hẹp, thì việc thu, chi ngân sách thế nào cho hiệu quả, tiết kiệm, tránh được tình trạng thất thoát, hạn chế thâm hụt ngân sách luôn là bài toán khó đặt ra cho nước ta. Với mục đích đi tìm hiểu về tình hình thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách nhà nước ta hiện nay, em đã chọn đề tài: Thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước Việt nam trong giai đoạn 2009-2011 làm đề tài cho bài đề án môn học. Ngoài lời mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, bài đề án kết cấu gồm hai phần: Phần một: Những vấn đề cơ bản về thu, chi ngân sách nhà nước Phần hai: Thực trạng thi, chi ngân sách nhà nước Việt nam trong giai đọng 2009- 2011
  2. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I.1.Ngân sách nhà nước I.1.1. Khái niệm Trong hệ thống tài chính thống nhất, NSNN là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo. NSNN cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Cho đến nay, thuật ngữ NSNN được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Trên thực tế, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước không giống nhau tùy theo quan điểm của người định nghĩa thuộc trường phái kinh tế khác nhau hoặc tùy theo mục đích nghiên cứu khác nhau. Thuật ngữ Ngân sách nhà nước “Budget” bắt nguồn từ tiếng anh có nghĩa là cái ví, cái xắc . Tuy nhiên trong cuộc sống kinh tế thuật ngữ này đã thoát ly ý nghĩa ban đầu và mang nội dung hoàn toàn mới. Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, ngân sách nhà nước là một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của chính phủ được thiết lập hàng năm. Theo cuốn từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô “cũ” thì ngân sách là: 1.Bảng liệt kê các khoản thu chi bằng tiền trong giai đoạn nhất định của nhà nước. 2.Mọi kế hoạch thu chi bằng tiền bất kỳ một cơ quan, cá nhân nào trong một giai đoạn nhất định. Cuốn tư liệu Xanh của Pháp được ấn hành nhằm hướng dẫn một số luật định tài chính và thuế, trong đó ngân sách được hiểu là: 1,Chứng từ dự kiến cho phép các khoản thu chi hàng năm của nhà nước.
  3. 2,Toàn bộ tài liệu kế toán mô tả, trình bày các khoản chi phí của nhà nước trong một năm. 3,Toàn bộ các khoản trình bày tiền mà một Bộ được cấp trong một năm. Theo Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2002, ngân sách nhà nước được định nghĩa định nghĩa: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Thu chi ngân sách nhà nước hoàn toàn không giống như bất kỳ một hình thức thu chi nào khác. Ở đây thu chi của nhà nước luôn được thực hiện bằng luật pháp do luật định ‘’về thu có các luật thuế và các văn bản khác về chi có các tiêu chuẩn luật định’’. Trên cơ sở đó nhằm đạt mục tiêu cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước. Mặt khác Ngân sách nhà nước còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà nước một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Những khoản thu nộp và cấp phát qua quỹ Ngân sách nhà nước là các quan hệ được xác định trước, được định lượng và nhà nước sử dụng chúng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. I.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước Trong hệ thống tài chính quốc gia cũng như trong khu vực tài chính nhà nước nói riêng, Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo nguồn tài chính cho sự tồn tại cũng như hoạt động của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tàI chính quốc gia, gồm các quan hệ sau: -Quan hệ tài chính nhà nước với dân sự -Quan hệ tài chính nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
  4. -Quan hệ tài chính nhà nước với các tổ chức xã hội Các quan hệ trên mang bốn đặc điểm sau: Thứ nhất: Tạo lập và sử dụng Ngân sách nhà nước gắn liền quyền lực với việc thực hiện các chức năng của NN, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa Ngân sách nhà nước với các khoản tài chính khác. Các khoản thu Ngân sách nhà nước đều mang tính chất pháp lý, còn chi Ngân sách nhà nước mang tính cấp phát “không hoàn trả trực tiếp”. Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội nhà nước đã sử dụng để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một phần thu nhập của mình cho nhà nước với tư cách là một chủ thể. Các hoạt động thu chi Ngân sách nhà nước đều tiến hành theo cơ sở nhất định đó là các luật thuế, chế độ thu chi… do nhà nước ban hành, đồng thời các hoạt động luôn chịu sự kiểm tra của các cơ quan nhà nước. Thực vậy khi nhà nước ban hành một loại thuế mới hay sửa đổi phải được Quốc hội thông qua”. Thứ hai: Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với nhà nước chứa đựng lợi ích chung và công, hoạt động thu chi Ngân sách nhà nước là thể hiện các mặt kinh tế-xã hội của nhà nước, dù dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa nhà nước và xã hội thể hiện qua các khoản cấp phát từ Ngân sách nhà nước cho các mục đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội, dó đó, thể hiện ở phạm vi rộng lớn. Thứ ba: Cũng như các quỹ tiền tệ khác Ngân sách nhà nước cũng có đặc điểm riêng của một quỹ tiền tệ, nó tập chung lớn nhất của nhà nước là nguồn tài chính nên Ngân sách nhà nước là giá trị thặng dư của xã hội do đó nó mang đặc đIểm khác biệt. Thứ tư: Hoạt động thu cho của Ngân sách nhà nước được thể hiện theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rút ngắn khoản thời gian giữa người giàu và nghèo để công bằng xã hội.
  5. Ví dụ: Xây dựng đường xá, an ninh quốc phòng… người chịu thuế sẽ được hưởng lợi từ hàng hóa này nhưng hoàn trả một cách trực tiếp. Bên cạnh đó nhà nước còn trợ cấp cho gia đình chính sách, thương binh…từ nguồn thu được. I.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Vai trò của Ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, Ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế) Nhà nước sử dụng ngân sách để điều chỉnh các hoạt động kinh tế, sử dụng hiệu quả các khoản thu, chi ngân sách nhà nước. Thông qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ, Nhà nước sẽ tạo một cơ cấu kinh tế mới, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, kích thích sự phát triển sản xuất kinh daonh và chống độc quyền. Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội): Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển của các hoạt động xã hội, văn hóa có ý nghĩa quyết định . Việc thực hiện các nhiệm vụ này về cơ bản thuộc về nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng những dịch vụ kể trên được phân chia giữa những người tiêu dùng, những nguồn tài trợ để thực hiện các nhiệm vụ đó lại được cấp phát từ ngân sách nhà nước. Như vậy, trong việc thự hiện các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, hàng năm, chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Chúng ta có thể thấy điều đó thông qua các loại trợ giúp trực tiếp được dành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi trợ cấp giá cho
  6. các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về chống xóa mù chữ,… Bên cạnh các khoản chi ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế cũng được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trược thu và gián thu một mặt vừa tăng cường các khoản thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác vừa nhằm điều tiế thu nhập của tầng lớp có thu nhập cao, điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập hợp lý của tầng lớp lao động. Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường) Trong điều kiện kinh tế thị trường, gái cả phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó, để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hóa trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện thông qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu của ngân sách nhà nước. Bằng nguồn vốn cấp phát của chi tiêu ngân sách nhà nước hàng năm, các quỹ dự trữ nhà nước vầ hàng hóa và tài chính được hình thành. Chính phủ có thể sử dụng ngân sách nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Ngoài ra, việc Chính phủ phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng góp phần to lớn vào việc làm giảm tốc độ lạm phát trong nên kinh tế. I.2. Những vấn đề về thu, chi ngân sách nhà nước I.2.1. Thu ngân sách nhà nước I.2.1.1. Khái niệm thu ngân sách nhà nước Xét về mặt nội dung kinh tế, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phần tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung Nhà nước. Luật ngân sách nhà nước ban hành năm 2002 quy định: Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế,
  7. phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. I.2.1.2. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước Đặc điểm nổi bật của thu Ngân sách nhà nước là phần lớn các khoản thu được xây dựng dựa trên nền tảng nghĩa vụ công dân. Các khoản thu Ngân sách nhà nước không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thu ngân sách nhà nước gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Thu ngân sách nhà nước là khoản thu khó kiểm soát và đánh giá hiệu quả: phần lớn chi tiêu của nhà nước tạo ra hàng hóa, dịch vụ công là những sản phẩm được tiêu dùng công nên không có người thụ hưởng cụ thế để kiểm qoát quá trình chi tiêu( không lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả). I.2.1.3. Phân loại ngân sách nhà nước Tùy theo nhu cầu của việc phân tích đánh giá, phục vụ sản cho công tác quản lý cũng như cho việc điều chỉnh các chính sách động viên, người ta có thể phân loại nội dung thu ngân sách nhà nước theo nhiều tiêu thức khác nhau: Xét theo nguồn hình thành các khoản thu: Nhóm nguồn thu từ hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nước: là các nguồn tài chính có khả năng tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước mang lại. Nhóm nguồn thu ngoài nước: bao gồm các khoản thu về vay nợ và viện trợ của nước ngoài. Đặc điểm của nguồn thu này là gắn chặt với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao cảu đất nước. Nguồn thu này thường không ổn định và có tính chất bù đắp một phần trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước.
  8. Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân đối ngân sách nhà nước: Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: gồm các khoản thu chủ yếu sau: thuế, phí và lệ phí; thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước; thu lợi tức cổ phần của nhà nước; các khoản thu khác theo luật định. Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước: Bao gồm các khoản vay trong và ngoài nước cho chi tiêu ngân sách nhà nước khi các khoản chi ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối của ngân sách nhà nước. I.2.1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước Với sự phân loại trên, thu Ngân sách nhà nước phụ thuộc vào các yếu tố sau: Mức độ phát triển của nền kinh tế: được đánh giá bằng tốc độ tăng trưởng và giá trị tổng sản phẩm quốc nội giữa các thời kỳ. Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, ổn định có số thu tương đối ổn định. Thu nhập bình quân đầu người: chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế và phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Mức độ phát triển nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ luôn là nhân tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của mọi khâu tài chính, cho nên nhân tố này cũng là nhân tố quyết định khách quan đến mức động viên của ngân sách nhà nước và cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với dân số. Nếu thoát li chỉ tiêu này khi ấn định mức động viên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng , đầu tư của khu vực dân cư. Tài nguyên thiên nhiên: một phần lớn nguồn thu của các quốc gia đang phát triển hiện nay là thu từ bán tài nguyên. Bởi vậy, quốc gia có nhiều tài nguyên thiên nhiên thì cùng với đó, thu ngân sách cũng sẽ tăng.
  9. Tỷ suất sinh lời của nền kinh tế: Tỷ suất lợi nhuận phản ánh hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp. Nếu khả năng huy động vào ngân sách càng cao. Dựa vào tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu sẽ tránh việc huy động của ngân sách gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thời kỳ kinh tế suy thoái, Nhà nước có thể giảm thuế suất để khuyến khích đầu tư, tiêu dùng, phát triển kinh tế. Ở những nước chưa phát triển có tỷ suất lợi nhuận thấp cũng không nên huy động nhiều để bồi dưỡng nguồn thu.Thâm hụt ngân sách được giải quyết bằng vay nợ. Quan hệ đối ngoại của nhà nước: vấn đề liên quan đến việc nhận viện trợ từ nước ngoài. Hiệu quả của bộ máy thu ngân Ngân sách nhà nước: hiện tượng gian lận, hiệu quả thu kém là một trong những nguyên nhân chính của việc thất thu ngân sách nhà nước. Nếu công tác này được xem xét và cải thiện thì thu ngân sách nhà nước cũng sẽ tăng. I.2.2. Chi ngân sách nhà nước I.2.2.1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước Chi ngân sách nhà nước là một bộ phận trong cơ cấu Ngân sách nhà nước. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì chi Ngân sách nhà nước là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân phối và sử dụng quỹ Ngân sách nhà nước. Mục đích của chi Ngân sách nhà nước là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là nội dung của chấp hành ngân sách nhà nước nên thuộc trách nhiệm và quyền hạn của hệ thống cơ quan chấp hành và hành chính các cấp. Căn cứ để thực hiện chi ngân sách nhà nước là dự toán ngân sách hàng năm, quy định của luật pháp về định mức, tiêu chuẩn chi ngân sách. Nếu hoạt động thu ngân sách nhà nước là nhằm thu hút các nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân sách nhà nước là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã được tập trung vào quỹ tiền tệ đó. Do hoạt động thu ngân sách nhà nước vừa là tiền tệ, vừa là cơ sở thực hiện
  10. hoạt động cho ngân sách nhà nước nên phạm vi và quy mô của hoạt động chi ngân sách nhà nước phụ thuộc một phần vào kết quả hoạt động thu ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước 2002 đưa ra khái niệm chi ngân sách nhà nước nhưngở dạng liệt kê, tại Khoản 2 Điều 2. Theo đó, chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, ta có thể hiểu chi ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách đã được chủ thể quyền lực quyết định nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là một nội dụng quan trọng cơ cấu nên đạo luật thường niên ngân sách nhà nước. I.2.2.2. Đặc điểm chi ngân sách nhà nước Dựa trên những khái niệm về chi ngân sách nhà nước đã được đưa ra, ta có thẻ thấy, chi ngân sách nhà nước mang những đặc điểm sau: Chi ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, hoạt động này chỉ có thể thực hiện trên cơ sở quy định pháp luật và dự toán ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định. bản dự toán ngân sách này do Quốc hội thông qua. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định tổng số chi Ngân sách nhà nước bao gồm chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương, tổng số chi và mức chi từng lĩnh vực… Chi ngân sách nhà nước là một nội dung quan trọng quyết định đến hiệu quả quản lý Nhà nước và bộ máy nhà nước vì vậy nó phải được thông qua theo nguyên tắc tập thể, tập trung trí tuệ tập thể và một quy trình luật định nghiêm ngặt. Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể quyền lực gồm hai nhóm:
  11. Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát , thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước. Đó là các cơ quan đại diện cho nhà nước thực thi quyền hạn có liên quan tới việc xuất quỹ Ngân sách nhà nước cho các mục tiêu đã được phê duyệt. Nhóm chủ thể này gồm Bộ tài chính, Sở tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng tài chính quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố, Sở kế hoạch và đàu tư và Kho bạc nhà nước. Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Đây là nhóm chủ thể được hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước để trang trải các chi phí trong quá trình thực hiện hoạt động của mình. Nhóm chủ thể này rất đa dạng nhưng có thể phân thành ba loại chủ yếu: Các cơ quan nhà nước, kể cả cơ quan hành chính thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; Các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu; Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Mục tiêu cơ bản của chi ngân sách nhà nước là đáp ứng nhu cầu về tài chính cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình. Chi ngân sách nhà nước luôn gắn kết với bộ máy nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động chi ngân sách đảm bảo hoạt động của mình trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng. Ngoài ra, thông qua việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với hoạt động chi ngân sách, Nhà nước còn hướng dẫn những mục tiêu khác, trong đó, bao gồm mục tiêu quản lý hiệu quả việc sử dụng công quỹ và tăng cường kỷ luật ngân sách, đồng thời tạo cơ sở quản lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách nói chung và pháp luật về chi ngân sách nói riêng, góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước. I.2.2.3. Phân loại chi ngân sách nhà nước Tùy theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, người ta có thể phân chi các khoản chi ngân sách nhà nước theo các tiêu thức khác nhau. Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia ra các nội dung:
  12. Chi thường xuyên: là những khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhằm duy trì đời sống quốc gia. Về nguyên tắc, các khoản chi này thường được tài trợ bằng các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước. Chi thường xuyên gồm có: Chi về chủ quyền quốc gia, Chi phí liên quan đến sự điều hành và duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ được giao phó, Chi phí do sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động knh doanh, văn hóa, xã hội để cải thiện đời sống nhân dân. Chi cho đầu tư phát triển: là tất cả các khoản chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các nhà nước hiện đại, để đạt sự phát triển, chính phủ hoạch định chiến lược đúng đắn, phù hợp vốn đầu tư của nhà nước cho nên các nhóm chi đó có thể chi cho từng đơn vị cá nhân hay DN Nhà nước để xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng….Để đạt được điều đó NSNN cần phải đối chiếu sao cho phù hợp với mọi hình thức như: Hóa đơn, chứng từ , và các hạng mục đầu tư để từ đó đầu tư cho các công trình, xí nghiệp, hoặc là các cá thể. Chi cho đầu tư phát triển bao gồm: Chi mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ; Chi xây dựng mới và tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị; Chi cho việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn vào các công ty, góp vốn vào các đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh; Các chi phí chuyển nhượng đầu tư; Những chi phí đầu tư liên quan đến sự tài trợ của nhà nước. Chi trả nợ và viện trợ: là các khoản chi của nhà nước nhằm thanh toán các khoản nợ trong và ngoài nước của mình và các khoản viện trợ cho các nước bạn I.2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng tới chi ngân sách nhà nước Với đặc điểm của chi NSNN thì chi ngân sách phụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố sau:
  13. Nhiệm vụ về phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ: Một trong những đặc điểm của chi ngân sách nhà nước là để phục vụ các hoạt động kinh tế, xã hội chung, mục tiêu là tăng trưởng và phát triển của toàn xã hội. Do vậy các khoản chi ngân sách nhà nước sẽ tăng lên khi đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế cần sự trợ giúp của chính phủ để kích thích sự tăng trưởng và ổn định nền kinh tế. Khả năng tích tụ và tích lũy của nền kinh tế: với một quốc gia, nếu khả năng này của nền kinh tế tốt thì không những hạn chế được mức chi của ngân sách, ,mà còn cho thấy sự hoạt động tốt của nền kinh tế, một đồng bỏ ra có hiệu quả cho tăng trưởng và phát triển, không lãng phí. Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, hạn hán, động đất, dịch bệnh: Chi ngân sách nhà nước luôn đảm bảo vì lợi ích chung và đảm bảo sự công bằng cho một bộ phận những người có hoàn cảnh đặc biệt. Khi quốc gia gặp thiên tai, thì việc tăng chi tiêu để trợ cấp cho những gia đình gặp khó khăn, khắc phục hậu quả, giữ ổn định kinh tế là điều tất yếu phải làm của chi ngân sách nhà nước. Và do đó, mức chi ngân sách cũng sẽ tăng. Hiệu quả chi của bộ máy chi Ngân sách nhà nước: Cũng giống như thu ngân sách nhà nước, bộ máy chi ngân sách nhà nước đạt hiệu quả tốt sẽ tránh được tình trạng lãng phí, tham ô trong quá trình chi tiêu thì sẽ tiết kiệm được cho quốc gia một khoản chi lớn, số chi vô ích sẽ giảm đi đáng kể. II. THỰC TRẠNG THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY II.1.Tình hình thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước năm 2009 Năm 2009 là năm có nhiều khó khăn, thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước, làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút, ảnh hưởng đến việc làm và đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã đề ra
  14. những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Cùng với sự nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân; các chính sách và giải pháp kích thích kinh tế đề ra đã được thực hiện khẩn trương, đồng bộ và phát huy hiệu quả, giúp thực hiện thành công mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế. Từ quý II/2009, tình hình kinh tế đã có chuyển biến tích cực, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, nâng mức tăng trưởng GDP cả năm đạt 5,32%, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Cùng với sự khởi sắc của tình hình sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu, nhiệm vụ thu, chi Ngân sách nhà nước năm 2009 đạt kết quả khả quan. II.1.1. Tình hình thu ngân sách nhà nước 2009 Thu Ngân sách nhà nước năm 2009 ước đạt 442.340 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán; mức động viên thuế và phí đạt 23%GDP. Cụ thể: Thu nội địa: Ước thực hiện đạt 269.656 tỷ đồng, vượt 15,7% so với dự toán, riêng thu tiền sử dụng đất đạt 36.274 tỷ đồng. Không kể thu tiền sử dụng đất, thu nội địa đạt 233.382 tỷ đồng, vượt 10,1% so với dự toán. Thu ngân sách từ dầu thô: Ước đạt 60.500 tỷ đồng, bằng 95% so với dự toán, trên cơ sở sản lượng dầu thanh toán đạt 15,4 triệu tấn, giá bán bình quân đạt 58 USD/thùng (dự toán sản lượng là 15,86 triệu tấn, giá bán là 70 USD/thùng). Thu cân đối Ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu: Tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 143.664 tỷ đồng, tăng 18,5% so với dự toán; sau khi trừ số chi hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ là 38.000 tỷ đồng, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 105.664 tỷ đồng, vượt 19,8% so với dự toán. Thu viện trợ không hoàn lại: Ước thực hiện đạt 6.520 tỷ đồng.
  15. Thu Ngân sách nhà nước năm 2009 đạt kết quả tích cực là nhờ các nguyên nhân chủ yếu sau: Một là: Do tình hình kinh tế đất nước và hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp từ quý II/2009 đã có chuyển biến tích cực. Nếu như GDP quý I tăng 3,14%, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, số thu nội địa sụt giảm mạnh; thì từ quý II/2009 đà hồi phục của nền kinh tế đã rõ nét hơn (GDP quý II tăng 4,41%, quý III tăng 5,98%, quý IV tăng 6,99%). Nhờ vậy, số thu nội địa hàng tháng cũng từng bước đạt khá hơn. Riêng trong quý IV/2009, số thu bình quân mỗi tháng tăng gần 18% so với mức thu bình quân trong 9 tháng đầu năm. Bên cạnh đó, nhờ biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng thông qua giảm thuế và lệ phí trước bạ, các hoạt động mua bán ô tô, xe máy, giao dịch bất động sản trong những tháng cuối năm 2009 gia tăng (chỉ tính riêng xe ô tô, mức tiêu thụ bình quân tháng trong quý IV/2009 bằng 1,5 lần mức tiêu thụ bình quân 9 tháng đầu năm), cũng tạo điều kiện cho thu Ngân sách nhà nước tăng thêm. Hai là: Các địa phương đã chỉ đạo khai thác các nguồn thu có khả năng; tập trung đẩy nhanh việc đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án trong những tháng cuối năm 2009, khi thị trường bất động sản phục hồi, qua đó góp phần đưa số thu tiền sử dụng đất năm 2009 đạt mức cao nhất trong những năm gần đây. Đồng thời, các địa phương cũng đã tăng cường công tác quản lý thu, đôn đốc xử lý nợ đọng thuế. Ba là: Số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu những tháng cuối năm 2009 được cải thiện đáng kể do kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng mạnh (do cả yếu tố tăng sản lượng và giá). Cụ thể: Kim ngạch xuất, nhập khẩu quý IV/2009 tăng mạnh, với tổng giá trị đạt gần 37 tỷ USD, bằng 30,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm và tăng gần 23,1% so với tổng kim ngạch nhập khẩu bình quân 3 quý đầu năm. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại đã được thực hiện quyết liệt, góp phần tăng thu cho Ngân sách nhà nước. II.1.2. Tình hình chi ngân sách nhà nước 2009
  16. Chi Ngân sách nhà nước năm 2009 ước thực hiện 584.695 tỷ đồng, tăng 19,0% so với dự toán đầu năm. Trong tổ chức thực hiện, để hạn chế tác động không thuận của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đối với nền kinh tế, tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội (tháng 5/2009), Chính phủ đã báo cáo Quốc hội nguyên tắc điều hành Ngân sách nhà nước năm 2009 là không thực hiện cắt giảm tổng mức chi Ngân sách nhà nước, nhưng có yêu cầu sắp xếp điều chỉnh các nhiệm vụ chi, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, giảm những khoản chi chưa thực sự cấp thiết; đồng thời sử dụng gói kích thích kinh tế nhằm mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội. Trên cơ sở kết quả thực hiện thu, đánh giá kết quả thực hiện chi Ngân sách nhà nước theo từng lĩnh vực như sau: Chi đầu tư phát triển: Ước đạt 179.961 tỷ đồng, tăng 59,5% so dự toán do được bổ sung nguồn từ gói kích thích kinh tế, nguồn dự phòng Ngân sách nhà nước, nguồn được sử dụng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn. Trong quá trình thực hiện, quy trình kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư đã được sửa đổi từ thẩm tra trước sang kiểm tra sau để tạo điều kiện cho các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn... Bên cạnh đó, qua chính sách kích cầu đầu tư, nhất là giải pháp hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng ngân hàng, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng đảm bảo được vốn trong quá trình thực hiện các dự án, do đó việc triển khai các dự án nhìn chung có tiến bộ hơn so với các năm trước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những yếu kém như phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư bổ sung ở một số Bộ, cơ quan trung ương và địa phương còn chậm hoặc chưa đúng đối tượng; vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư thấp, năng lực chủ đầu tư và nhà thầu yếu... Chi trả nợ và viện trợ: kết quả thực hiện 64.800 tỷ đồng, tăng 6.000 tỷ đồng so với dự toán, đảm bảo trả các khoản nợ tăng thêm do tăng huy động vay trong nước để thực
  17. hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và ngăn chặn suy giảm kinh tế; việc thanh toán nợ được thực hiện đầy đủ, kịp thời theo đúng cam kết. Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính: kết quả thực hiện 320.501 tỷ đồng, tăng 4,8% so với dự toán (đã bao gồm cả chi cải cách tiền lương thực hiện trong năm); đảm bảo các nhu cầu chi theo dự toán đã được Quốc hội quyết định, đồng thời đã tập trung nguồn lực thực hiện các chính sách về an sinh xã hội để giảm bớt khó khăn về đời sống cho nhân dân, tập trung trước hết cho người nghèo, đồng bào dân tộc, người lao động có thu nhập thấp và các đối tượng chính sách khác, góp phần duy trì sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội. Nhìn chung các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương đã nghiêm túc thực hành tiết kiệm, chi trong phạm vi dự toán được giao, hạn chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán. Chi chuyển nguồn đảm bảo cân đối ngân sách và để tạo nguồn thực hiện điều chỉnh tiền lương năm 2010: theo Nghị quyết của Quốc hội về dự toán Ngân sách nhà nước năm 2010, đã dành 1.000 tỷ đồng từ nguồn vượt thu NSTW năm 2009 chuyển nguồn sang năm 2010 để đảm bảo cân đối Ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, theo quy định, các địa phương đã dành 50% nguồn vượt thu so với dự toán của NSĐP năm 2009 (không kể số vượt thu tiền sử dụng đất), cùng với nguồn chi cải cách tiền lương còn dư đến cuối năm 2009, chuyển nguồn sang năm 2010 để tiếp tục thực hiện cải cách tiền lương. Tổng cộng số chuyển nguồn NSNN từ năm 2009 sang năm 2010 là 17.233 tỷ đồng. II.1.3. Cân đối ngân sách nhà nước: Dự toán bội chi NSNN năm 2009 là 4,82% GDP. Bước vào năm 2009, căn cứ tình hình kinh tế thế giới và trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu lan rộng, diễn biến phức tạp, khó lường và theo chiều hướng xấu, nguồn thu NSNN gặp khó khăn, yêu cầu tăng chi là rất lớn để thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội, do vậy Chính phủ đã báo cáo và được Quốc hội chấp thuận tăng mức bội chi không quá 7%GDP.
  18. Kết quả thực hiện bội chi NSNN năm 2009 ở mức 6,9% GDP, trong phạm vi Quốc hội cho phép, được sử dụng toàn bộ cho đầu tư phát triển theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, tập trung cho các công trình, dự án kích thích kinh tế thực hiện trong năm 2009. II.2.Tình hình thực hiện thu chi năm 2010 II.2.1. Tình hình thu ngân sách nhà nước 2010 Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước là 461.500 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 559.170 tỷ đồng, vượt 21,2% so với dự toán. Cụ thể như sau: Thu nội địa từ hoạt động sản xuất - kinh doanh (không kể thu tiền sử dụng đất):Dự toán thu 271.700 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 312.709 tỷ đồng, vượt 15,1% so với dự toán, tăng 34% so với thực hiện năm 2009. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, từ ngày 01/01/2010, Chính phủ đã dừng thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế và dừng hỗ trợ lãi suất cho vay vốn lưu động ngắn hạn; thực hiện giãn thời hạn nộp thuế một quý đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sản xuất, gia công dệt may, da, giầy... Chính phủ cũng đã chỉ đạo các ngành, các cấp tăng cường công tác quản lý thu thuế ngay từ đầu năm; tích cực đôn đốc thu nợ đọng, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chế độ kê khai, nộp thuế... Nhờ vậy, mặc dù chịu nhiều tác động của các yếu tố không thuận lợi, song kết quả thu ngân sách nhà nước nói chung và nhiều khoản thu quan trọng nói riêng đạt khá so với dự toán. Trong đó: Khu vực kinh tế quốc doanh: đạt 111.922 tỷ đồng, vượt 12,3% so với dự toán, tăng 33,5% so với thực hiện năm 2009. Năm 2010, giá cả nhiều loại vật tư, nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất đã tăng hơn so với năm 2009; bên cạnh đó, thời tiết khô hạn kéo dài dẫn đến thiếu điện cho sản xuất, chi phí vận tải tăng,... làm tăng chi phí sản xuất, giảm tích luỹ của nhiều doanh
  19. nghiệp; cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp ngoài nước ngày càng gay gắt. Tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, trong năm 2010 các Bộ, địa phương, các Tổng công ty và tập đoàn kinh tế đã rà soát, điều chỉnh phương án sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Năm 2010 có khoảng 300 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, sắp xếp lại; tính chung đến ngày 31/12/2010, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.845 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, trong đó: cổ phần hoá được 3.943 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, chiếm 67,5% tổng số đã sắp xếp. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: năm 2010 tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ về thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới và tăng thêm ước khoảng 21 tỷ USD, trong đó số vốn thực hiện ước 11 tỷ USD; góp phần đổi mới công nghệ sản xuất, tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho người lao động. Thu ngân sách nhà nước cả năm đạt 62.821 tỷ đồng, vượt 8,8% so với dự toán, tăng 24% so với thực hiện năm 2009. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: đạt 69.925 tỷ đồng, vượt 11,4% so dự toán, tăng 46,2% so với thực hiện năm 2009. Năm 2010 đã có khoảng 299,5 nghìn tỷ đồng vốn của dân cư và tư nhân đầu tư vào nền kinh tế, chiếm 36,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; có khoảng 84 nghìn doanh nghiệp dân doanh thành lập mới góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện xoá đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Thu tiền sử dụng đất: Trong năm 2010, hoạt động của thị trường bất động sản cả nước nói chung và tại một số đô thị lớn nói riêng về cơ bản diễn biến khá sôi động, đồng thời các địa phương đã quan tâm đến công tác quy hoạch, giao đất, cho thuê đất trên địa bàn sát với giá thị trường; đẩy nhanh công tác đấu giá quyền sử dụng đất... Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nhà ở của người dân, nhiều dự án đầu
  20. tư mới về bất động sản cũng đã được triển khai thực hiện. Nhờ vậy, số thu cả năm đạt 41.691 tỷ đồng, vượt 81,3% so với dự toán. Thu từ dầu thô: Dự toán thu là 66.300 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng thanh toán là 14,41 triệu tấn, giá bán 68 USD/thùng. Kết quả thực hiện đạt 69.170 tỷ đồng, chiếm 12,4% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt 4,3% so dự toán, tăng 14,3% so với thực hiện năm 2009, trên cơ sở sản lượng thanh toán đạt xấp xỉ 13,8 triệu tấn và giá dầu thanh toán cả năm đạt khoảng 79,7 USD/thùng, tăng 11,7 USD/thùng so với giá tính dự toán. Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu: Dự toán thu 95.500 tỷ đồng, trong đó thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 131.500 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu là 36.000 tỷ đồng, tương ứng với kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng trên 6% và kim ngạch nhập khẩu dự kiến tăng 9%. Năm 2010, nhiều cơ chế về quản lý xuất nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, trước hết là đối với các mặt hàng trong nước sản xuất được hoặc không khuyến khích nhập khẩu để hạn chế nhập siêu, như: bãi bỏ quy định phân loại, áp dụng mức thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo máy chính để khuyến khích doanh nghiệp sử dụng các thiết bị, máy móc trong nước đã sản xuất được; ban hành khung thuế nhập khẩu ưu đãi mặt hàng xăng dầu tương ứng với giá xăng dầu trên thị trường thế giới để các doanh nghiệp chủ động trong tổ chức sản xuất - kinh doanh; rà soát, điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu, trên cơ sở đó ban hành danh mục các mặt hàng này để làm cơ sở giám sát và thực hiện các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và các hàng rào kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp Việt Nam; tiếp tục thực hiện tạm hoàn 90% thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá thực xuất khẩu trong thời gian chưa được phía nước ngoài thanh toán qua ngân hàng... Bên cạnh đó, đã tổ chức theo dõi sát tình hình diễn biến thị trường để điều chỉnh kịp thời thuế nhập khẩu đối với các nhóm mặt hàng cần kiểm soát (thủy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0