intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa

Chia sẻ: Nguyễn Văn Bình | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:18

529
lượt xem
73
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận "Thực trạng và giải pháp công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa" này bao gồm các phần như sau: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác tiếp dân, thực trạng công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa, một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa

  1. LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển đi lên về kinh tế đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn trong đời sống xã hội  liên quan đến quyền lợi giữa dân với Nhà nước, giữa dân với dân, giữa những người trong  dòng họ với nhau dẫn đến khiếu kiện. Chính vì vậy, tiếp công dân là công tác rất quan trọng  bởi vì thông qua các buổi tiếp dân, cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được tâm tư,  nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, từ đó có biện pháp giải quyết hợp  tình hợp lý, tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần nâng cao trách nhiệm của chính  quyền các cấp. Đây cũng là thể hiện bản chất của nhà nước chúng ta, một Nhà nước của dân,  do dân và vì dân. Tuy nhiên, bên cạnh một số ít địa phương, đơn vị đã làm tốt công tác tiếp công dân thì vẫn  còn rất nhiều địa phương, đơn vị chưa thực hiện tốt việc tiếp công dân. Nhiều nơi còn làm  qua loa, hình thức, thực hiện chưa nghiêm quy định của pháp luật, đặc biệt có địa phương  người đứng đầu không thực hiện việc tiếp dân theo định kỳ, có nơi còn ủy quyền, khoán  trắng cho cấp dưới theo kiểu làm cho có, lấy lệ, đối phó mà thôi. Nhiều nơi người đứng đầu  địa phương, đơn vị vẫn tổ chức tiếp công dân nhưng lại giải quyết các thắc mắc, khiếu nại  không đến nơi đến chốn, tránh né những việc làm sai trái, nhiều khi còn bao che cho những sai  trái của cấp dưới . Từ đó, vừa làm mất đi ý nghĩa của việc tiếp dân vừa lại phản tác dụng,  gây khiếu kiện vượt cấp, do đó đôi khi còn là cái cớ cho những phần tử xấu, phản động lợi  dụng kích động nhân dân gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng  do ức chế từ phía người dân. Ủy ban nhân dân Đông Hòa là một trong những xã nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của  huyện Dĩ An, địa bàn còn rất nhiều phức tạp, nhiều vấn đề nóng nảy sinh ngày càng nhiều đã  tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã  hội của địa phương. Bên cạnh đó, công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã còn một số hạn  chế như: công tác tuyên truyền pháp luật nhất là Luật khiếu nại tố cáo chưa thật sự sâu rộng,  các dự án quy hoạch trên địa bàn chưa hoàn thành dẫn đến việc người dân còn thắc mắc,  khiếu nại nhiều lần, cán bộ làm công tác tiếp dân do được phân công nên chưa có kỹ năng  chuyên môn, chưa hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tiếp công dân Xuất phát từ nhận thức  trên, sau khóa học tôi đã đề tài: “Công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa, thực  trạng và giải pháp”. Nội dung đề tài này bao gồm các phần như sau: Phần 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác tiếp dân  Phần 2: Thực trạng công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa Phần 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp dân của Ủy  ban nhân dân xã Đông Hòa PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐẾ LÝ LUẬN CƠ BẢN  VỀ CÔNG TÁC TIẾP DÂN
  2. I. Công tác tiếp dân và mục đích của công tác tiếp dân  1. Khái niệm về công tác tiếp dân. ­ Tiếp dân là một nhiệm vụ quan trọng của cơ quan hành chính các cấp. Tiếp công dân là  khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người  dân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua đó phát huy quyền dân chủ của nhân dân tham  gia vào quá trình quản lý nhà nước, thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước  của dân, do dân và vì dân.  ­ Tiếp dân là việc làm thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa Nhà nước và công dân, thể hiện  bản chất nhà nước của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, là một hoạt động  thuộc về trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ xã được tiến hành trên cơ sở các quy định của  luật pháp, thông qua các hành động cụ thể nhằm lắng nghe, thu thập thông tin để giải quyết  các yêu cầu đề nghị của tổ chức và công dân.  ­ Công tác tiếp dân là để tiếp nhận khiếu nại, kiến nghị, phản ảnh cũng như tiếp thu những  đóng góp, hiến kế và giải quyết công việc cho người dân. Công tác tiếp công dân là người đại  diện cho cơ quan nhà nước tiếp nhận những thông tin mà người dân phản ảnh về các chính  sách, các hành vi liên quan đến đời sống, văn hoá, kinh tế, xã hội . Tạo điều kiện thuận lợi  cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, góp phần xây dựng Nhà  nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả 2. Mục đích của công tác tiếp dân. ­ Công tác tiếp công dân nhằm để tiếp nhận các thông tin, kiến nghị, phản ánh góp ý những  vấn đề liên quan đến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, công  tác quản lý của cơ quan, đơn vị. ­ Tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị  mình để xem xét ra quyết định, kết luận giải quyết hoặc trả lời cho công dân biết theo đúng  thời hạn quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. ­ Hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng chính sách, pháp luật, đúng cơ  quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết. II. Các quy định pháp luật về công tác tiếp dân. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy  dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích  hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Ngày 2 tháng 12 năm 1998, Quốc Hội đã thông qua  Luật khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành năm 1999. Luật khiếu nại, tố cáo 1998 thay thế  cho Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân ngày 7 tháng 5 năm 1991. Từ ngày 01/01/1999 đến nay luật khiếu nại tố cáo đã được sửa đổi bổ sung 2 lần, lần thứ  nhất là kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI, thông qua ngày 15/06/2004, và lần thứ hai vào kỳ họp  thứ 8 Quốc hội khoá XI, thông qua ngày 29/11/2005. Luật khiếu nại, tố cáo là văn bản quy  phạm pháp luật do Quốc hội ban hành, quy định cụ thể quyền khiếu nại của cá nhân, cơ  quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; quy định việc tiếp công dân, việc quản lý, giám sát  công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm trong việc giải quyết  khiếu nại, tố cáo. Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực  hiện một trong những quyền cơ bản của mình, phát huy dân chủ bảo vệ quyền và lợi ích hợp  pháp của cơ quan, cá nhân; đồng thời tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc giải quyết khiếu  nại tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước, nâng cao trách nhiệm của ngành, các cấp trong 
  3. việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đến nay, Luật khiếu nại, tố cáo đã được sửa đổi bổ sung 2 lần vào năm 2004 và 2005. Luật  khiếu nại, tố cáo năm 1998 được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện  một trong những quyền cơ bản của mình, phát huy dân chủ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp  của cơ quan, cá nhân; đồng thời tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc giải quyết khiếu nại tố  cáo của cơ quan hành chính nhà nước, nâng cao trách nhiệm của ngành, các cấp trong việc  giải quyết khiếu nại, tố cáo.  Căn cứ vào Luật khiếu nại, tố cáo được sửa đổi bổ sung 2004, 2005 Chính phủ đã ban hành  Nghị định 136 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố  cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. Chính phủ đã ban  hành thêm Nghị định 89 về quy chế tổ chức tiếp công dân nhằm cụ thể hóa công tác tiếp công  dân. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,  phản ánh, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu  quả ngày 14 tháng 06 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án đổi mới công tác  tiếp công dân. Căn cứ vào luật khiếu nại , tố cáo năm 1998 được sửa đổi bổ sung năm 2004 – 2005, Nghị  định số 136/2006/NĐ – CP ban hành ngày 14/11/2006, hướng dẫn thi hành một số điều luật  khiếu nại, tố cáo, Nghị định 89 về quy chế tổ chức tiếp công dân có quy định về công tác tiếp  dân với một số nội dung như sau: 1. Thẩm quyền tiếp dân của Ủy ban nhân xã theo quy định của pháp luật. ­ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giải quyết đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền  quy định tại Điều 19 của Luật Khiếu nại ­ Tố cáo đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và  Điều 10 của Nghị định số 136/2006/NĐ­CP của Chính phủ. ­ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giải quyết đơn tố cáo về hành vi vi phạm  pháp luật của người do mình quản lý trực tiếp. ­ Thủ trưởng cơ quan nhà nước có trách nhiệm định kỳ tiếp công dân theo quy định tại Điều  76 của Luật Khiếu nại, tố cáo; lịch tiếp công dân phải được thông báo công khai cho công dân  biết.  ­ Ngoài việc tiếp công dân theo định kỳ, Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải tiếp công dân khi  có yêu cầu khẩn thiết. ­ Đối với những khiếu nại thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng, cụ thể, có cơ sở giải quyết  thì khi tiếp công dân, Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải trả lời ngay cho công dân biết; nếu  vụ việc phức tạp cần nghiên cứu, xem xét thì phải nói rõ thời hạn giải quyết, người cần liên  hệ tiếp để biết kết quả giải quyết. ­ Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải được ghi vào sổ tiếp công dân  và được lưu giữ tại nơi tiếp công dân. ­ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tiếp công dân tại trụ sở Uỷ  ban ít nhất 2 buổi trong tuần, không kể các trường hợp phải tiếp theo yêu cầu khẩn thiết. 2. Lịch tiếp dân. Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết lịch tiếp công dân, nội quy tiếp công dân. Lịch tiếp công  dân phải được ghi cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải  ghi rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố  cáo. 
  4. 3. Người có trách nhiệm tiếp dân Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân và tổ chức việc tiếp  công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo;  bố trí cán bộ có phẩm chất tốt, có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách  nhiệm làm công tác tiếp công dân.  Các cơ quan thanh tra nhà nước, các cơ quan công an, quốc phòng, thương mại, kế hoạch và  đầu tư, xây dựng, tài chính, lao động thương binh và xã hội, nội vụ, giao thông vận tải, y tế,  giáo dục và đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên và môi trường ở cấp  trung ương và cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức tiếp công dân thường xuyên. Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, nhà nước trong luật khiếu nại, tố cáo còn được  thể hiện bố trí cán bộ có phẩm chất tốt, có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý  thức trách nhiệm làm công tác tiếp dân. Cán bộ tiếp công dân là người thay mặt cho cơ quan,  tổ chức để tiếp xúc với nhân dân, nội dung vấn đề phản ảnh ở nơi tiếp công dân rất đa dạng,  liên quan đến chính sách pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, trách nhiệm thủ  trưởng của các cơ quan , đơn vị là phải bố trí những cán bộ có đủ khả năng và tiêu chuẩn để  đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ . phẩm chất tốt của người cán bộ tiếp dân thể hiện ở chỗ không  chỉ là tiêu chuẩn cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của cán bộ công chức mà còn đòi hỏi  người cán bộ tiếp công dân phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với sự  nghiệp cách mạng của Đảng, pháp luật nhà nước. Cán bộ tiếp dân không chỉ giải thích hướng  dẫn mà đôi khi còn đòi hỏi bản lĩnh chính trị để đấu tranh các tư tưởng ngoại lai, sai trái, đi  ngược với mục tiêu của Đảng .Các cơ quan khác của nhà nước căn cứ vào quy định của luật  khiếu nại, tố cáo, các luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tố cáo liên quan đến ngành,  lĩnh vực của mình quản lý để bố trí thời gian tiếp công dân. Người tiếp công dân phải có sổ để ghi chép, theo dõi việc tiếp công dân; yêu cầu công dân  đến khiếu nại, tố cáo xuất trình giấy tờ tùy thân, trình bày trung thực sự việc, cung cấp tài  liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp có nhiều người đến khiếu  nại, tố cáo về cùng một nội dung thì yêu cầu họ cử đại diện trực tiếp trình bày nội dung sự  việc. 4. Nơi tổ chức tiếp dân. Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, đưa đơn khiếu nại, tố cáo được tiến hành tại nơi  tiếp công dân. Cơ quan nhà nước phải bố trí nơi tiếp công dân thuận tiện, bảo đảm các điều kiện để công  dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo được  dễ dàng, thuận lợi. Việc tổ chức tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại trụ sở tiếp công dân ở Hà  Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo Quy chế tổ chức tiếp công dân ban hành kèm  theo Nghị định số 89/CP ngày 07 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí địa điểm chung để Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân  dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại diện tổ chức chính trị tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo;  cử một công chức có chức vụ Phó Văn phòng hoặc cấp tương đương phụ trách nơi tiếp công  dân để tổ chức thực hiện chế độ tiếp dân thường xuyên.  Thủ trưởng các cơ quan nhà nước phải tổ chức và quản lý nơi tiếp công dân của cơ quan  mình, ban hành nội quy tiếp công dân; bố trí nơi tiếp công dân địa điểm thuận lợi; đảm bảo  các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản 
  5. ánh. Tại nơi tiếp công dân còn quy định phải niêm yết lịch tiếp công dân, nội quy tiếp công dân,  lịch tiếp công dân phải ghi cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân, nội quy tiếp công  dân phải ghi rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại,  tố cáo.  Tiến hành tại nơi tiếp công dân có ý nghĩa quan trọng, nhằm đưa công tác tiếp dân vào nề  nếp góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu cực của cán bộ trong quá trình giải quyết khiếu nại,  tố cáo; khắc phục tình trạng đến nhà riêng để khiếu nại, ảnh hưởng đến công tác, sinh hoạt  bình thường của cán bộ. 5. Thời gian tiếp công dân. ­ Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết ngày, giờ tiếp, nội quy tiếp công dân; đồng thời phải  niêm yết quy trình, hướng dẫn công dân khiếu nại, tố cáo theo thủ tục của pháp luật hoặc  theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để mọi người biết và thực hiện. ­ Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải được ghi vào sổ tiếp công dân  và được lưu trữ tại nơi tiếp công dân. ­ Theo Điều 76 của Luật khiếu nại, tố cáo 1998, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ  trưởng cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân theo quy định sau  đây: + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, mỗi tuần ít nhất một ngày. + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, mỗi tháng ít nhất hai ngày.  + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, mỗi tháng ít nhất một ngày. + Thủ trưởng các cơ quan khác của Nhà nước, mỗi tháng ít nhất một ngày.  ­ Thanh tra nhà nước các cấp, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tổ chức tiếp  công dân thường xuyên theo quy định của pháp luật.  6. Trách nhiệm của người tiếp dân. ­ Theo Điều 77 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 thì người tiếp công dân có trách nhiệm: + Tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo; + Hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; + Giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo khi người tố cáo yêu cầu. ­ Người tiếp công dân phải có sổ để ghi chép, theo dõi việc tiếp công dân; yêu cầu công dân  đến khiếu nại, tố cáo xuất trình giấy tờ tùy thân, trình bày trung thực sự việc, cung cấp tài  liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp có nhiều người đến khiếu  nại, tố cáo về cùng một nội dung thì yêu cầu họ cử đại diện trực tiếp trình bày nội dung sự  việc. ­ Việc xử lý khiếu nại, tố cáo tại nơi tiếp công dân được tiến hành như sau: + Đối với đơn khiếu nại thì xử lý theo quy định tại Điều 6 Nghị định 136/2006/NĐ­CP; trong  trường hợp công dân đến khiếu nại trực tiếp mà vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải  quyết của cơ quan mình thì người tiếp công dân hướng dẫn họ viết thành đơn hoặc ghi lại  nội dung khiếu nại và yêu cầu công dân ký tên hoặc điểm chỉ; nếu vụ việc khiếu nại không  thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì hướng dẫn công dân khiếu nại đến đúng  cơ quan có thẩm quyền giải quyết. + Đối với tố cáo thì người tiếp công dân phải tiếp nhận, phân loại và xử lý theo quy định tại  các Điều 38, 39 và Điều 40 Nghị định 136/2006/NĐ­CP. 7. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại tố cáo tại nơi tiếp công dân.
  6. ­ Theo Điều 14­Nghị định 89:Khi đến nơi tiếp công dân, công dân có quyền  + Được hướng dẫn, giải thích, trả lời về những nội dung mình trình bày. + Được quyền khiếu nại, tố cáo với thủ trưởng trực tiếp của người tiếp công dân nếu họ có  những việc làm sai trái, gây cản trở, phiền hà, sách nhiễu trong khi làm nhiệm vụ. + Đối với trường hợp tố cáo, được yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ người tố cáo. ­ Theo Điều 14­Nghị định 89: Khi đến nơi tiếp công dân, công dân có nghĩa vụ + Phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân như chứng minh thư nhân dân; giấy mời, nếu công dân  không trực tiếp đến thì có thể uỷ quyền cho một trong số thân nhân là cha, mẹ, vợ, chồng,  con hoặc anh, chị, em ruột, những người này phải có giấy uỷ quyền, có chứng nhận của cơ  quan có thẩm quyền. + Phải nghiêm chỉnh tuân thủ nội qui nơi tiếp công dân và sự hướng dẫn của cán bộ tiếp công  dân. + Trình bày trung thực sự việc, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo của  mình khi có yêu cầu. + Ký xác nhận những nội dung đã trình bày. + Trường hợp có nhiều người đến nơi tiếp công dân để khiếu nại, tố cáo cùng một nội dung  phải cử đại diện để trình bày với cán bộ tiếp công dân. 8. Những hành vi nghiêm cấm tại nơi tiếp công dân. ­ Theo Điều 79 của Luật khiếu nại, tố cáo: + Nghiêm cấm việc cản trở, gây phiền hà, sách nhiễu đối với công dân đến khiếu nại, tố cáo,  kiến nghị, phản ánh. + Nghiêm cấm việc gây rối trật tự ở nơi tiếp công dân, vu cáo, xúc phạm uy tín, danh dự của  cơ quan nhà nước, người thi hành nhiệm vụ, công vụ. ­ Công dân không được lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối trật tự ở nơi tiếp công  dân, vụ cáo, xúc phạm cơ quan Nhà nước, người thi hành công vụ và phải chịu trách nhiệm  trước pháp luật về những nội dung khiếu nại, tố cáo của mình. ­ Nghị định 136/2006/NĐ­CP còn quy định rõ đối với những người đến khiếu nại, tố cáo có  hành vi gây rối, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự công cộng, ảnh hưởng đến hoạt động  bình thường của cơ quan nhà nước, của cá nhân có trách nhiệm hoặc có hành vi khác vi phạm  pháp luật khiếu nại, tố cáo thì Thủ trưởng cơ quan nhà nước, người phụ trách trụ sở tiếp  công dân yêu cầu cơ quan Công an phụ trách địa bàn có biện pháp xử lý theo quy định của  pháp luật. Thủ trưởng cơ quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Thủ trưởng cơ quan  Công an trong việc bảo đảm trật tự, an toàn nơi tiếp công dân. Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an tại các địa phương có trách nhiệm bảo vệ an toàn trụ sở  tiếp công dân của các cơ quan trên địa bàn mình quản lý; trong trường hợp cần thiết thì áp  dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với những người lợi dụng việc khiếu nại,  tố cáo có hành vi vi phạm pháp luật tại nơi tiếp công dân. Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan  nhà nước trong việc bảo vệ trật tự, an toàn cho trụ sở tiếp công dân, xử lý người có hành vi  vi phạm pháp luật ở nơi tiếp công dân.  III. Ý nghĩa của công tác tiếp dân Tiếp công dân là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,  phản ánh của người dân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua đó phát huy quyền dân 
  7. chủ của nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước, thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà  nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.  Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân:  người tiếp công dân với tư cách là đại diện cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết  các khiếu nại, tố cáo của người dân, do đó cần phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân.  Đồng thời, như vậy mới bảo đảm từ phía Nhà nước trong việc thực hiện đầy đủ các thủ tục  tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, từ đó có cơ sở để xác định trách nhiệm của người tiếp công dân  theo đúng quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Thông qua việc tiếp dân sẽ tập hợp những vấn đề bức xúc, vướng mắc của nhân dân kịp thời  tìm giải pháp thích hợp giúp người dân tháo gỡ những mâu thuẫn, vướng mắc, hạn chế phát  sinh thành khiếu kiện. Bên cạnh đó, nếu tiếp công dân theo định kỳ không những giải quyết được những thắc mắc,  khiếu kiện của người dân, từ đó người đứng đầu nắm bắt được mà kịp thời sửa chữa tránh  sai sót lớn không đáng có xảy ra. Đồng thời, qua đó tìm hiểu được những nguyên nhân của  vướng mắc mà có biện pháp, khắc phục tháo gỡ, nhất là nắm bắt được những việc làm sai  trái, tham mưu không đúng quy định và sách nhiễu, tham nhũng của cán bộ dưới quyền. Bên  cạnh đó, qua việc tiếp công dân người đứng đầu địa phương, đơn vị, nhất là người đứng đầu  chính quyền các cấp có cơ hội gần dân, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân mà nắm bắt được  những tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân mà có cách nhìn nhận tổng thể, khách  quan trong việc giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế­xã hội, an ninh­quốc phòng . và quan  trọng hơn nữa là từ đó mà hoạch định được những kế hoạch, chiến lược điều hành, quản lý  xã hội một cách đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đơn vị mình. PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIẾP DÂN TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN XàĐÔNG HÒA I. Một vài nét khái quát về Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. 1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. a. Về điều kiện tự nhiên Đông Hòa là xã nằm phía nam của Huyện Dĩ An, là xã nằm trong vùng trọng điểm của huyện  Dĩ An, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiện 1.024,8 ha, có 5.780 hộ với 20.121 nhân khẩu,  cơ cấu hành chính của xã chia thành 7 ấp với 107 tổ nhân dân tự quản. Có 2 đường Quốc lộ  1K và quốc lộ 1A đi qua, là địa phương tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh trên địa bàn có Đại  học Quốc gia, có nhiều lợi thế về phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ, mở ra  nhiều cơ hội giải quyết việc làm, cải thiện nâng cao đời sống của nhân dân. b. Về kinh tế ­ văn hóa – xã hội – quốc phòng an ninh ­ Có nhiều điều kiện thuận lợi cơ bản để địa phương tiếp tục đẩy nhanh việc phát triển kinh  tế ­ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những khó khăn như : tốc độ công nghiệp hóa ­  đô thị hóa tăng nhanh, trong khi trình độ lãnh đạo, quản lý và kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng  kịp thời yêu cầu phát triển. Tình trạng lao động nhập cư ngày càng tăng (chiếm trên 45% dân  số), do vậy tình hình an ninh chính trị ­ trật tự xã hội diễn biến rất phức tạp, đòi hỏi địa  phương phải có tầm nhìn chiến lược và những giải pháp linh hoạt để lãnh đạo, quản lý hành  chính Nhà nước. ­ Thực hiện nghị quyết của Đảng bộ và Hội đồng nhân dân, toàn Đảng bộ và nhân dân trong 
  8. huyện đã phấn đấu đạt kết quả các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế, văn hoá ­ xã hội và quốc  phòng an ninh đáng khích lệ như sau :  + Về kinh tế: có nhiều mặt chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đúng định hướng là  công nghiệp ­ tiểu thủ công nghiệp ­ thương mại dịch vụ và nông nghiệp, trong 6 tháng đầu  năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp tăng, thương mại dịch vụ tăng 31,9%. Thu ngân sách  được 4.045.343.435 đồng, đạt 41,43 % so với huyện giao và 25,97 % so với HĐND xã thông  qua. (Thu ngân sách năm 2009 trên 7,5 tỷ đồng). + Trên lĩnh vực văn hoá ­ xã hội có sự phát triển và đạt kết quả khá tốt. Công tác xã hội hoá  trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, thể dục thể thao . được nhân dân tích cực hưởng ứng và nhiệt  tình tham gia. Hàng năm tỷ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi đến trường đều đạt từ 95 ­ 100%;  năm học 2009 ­ 2010 có 95 lớp với 3.622 học sinh, 202 giáo viên và công nhân viên của các  trường đóng trên địa bàn xã. Vận động trẻ trong độ tuổi ra lớp 331/331 em, đạt 100%; tỷ lệ  học sinh lưu ban, bỏ học ở bậc tiểu học và trung học cơ sở ngày càng giảm. Cùng với giáo  dục, về y tế việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, công tác phòng chống  dịch bệnh ngày càng được nâng cao. Các chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo, lao động việc  làm được thực hiện khá tốt, hiện nay toàn xã chỉ có 61 hộ nghèo/214 nhân khẩu (theo tiêu chí  của tỉnh giai đoạn 2009 ­ 2010 là 600.000đ/người/tháng) chiếm 1,14 % so với tổng số hộ dân  toàn xã. + Về quốc phòng an ninh: duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ an toàn các  mục tiêu quan trọng trên địa bàn. Kịp thời tổ chức triển khai nghị quyết, kế hoạch thực hiện  nhiệm vụ quân sự quốc phòng địa phương hàng năm. Phát động phong trào quần chúng bảo  vệ an ninh Tổ quốc, rất nhiều gương điển hình về bắt trộm, cướp; mạng lưới tổ tự quản  được củng cố và phát huy nâng dần chất lượng hoạt động góp phần cùng công an tại địa bàn  tấn công truy quét các loại tội phạm và bài trừ các tệ nạn xã hội. Hoàn thành công tác gọi  công dân nhập ngũ hàng năm. Luôn chú trọng công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, huấn  luyện lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ đạt yêu cầu trên giao. 2. Cơ cấu tổ chức hoạt động của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. Với số dân trên 20.000 người, tính đến tháng 07/2010, toàn xã hiện có 45 cán bộ, trong đó công  chức là 11 người, cán bộ chuyên trách là 11 và không chuyên trách là 23 người, ngoài ra còn có  5 nhân viên hợp đồng. Cán bộ công chức của xã ngày càng được trẻ hóa, trình độ ngày càng  được nâng cao +Trình độ học vấn: cấp III: 42 đ/c, cấp II: 3đ/c +Trình độ chuyên môn: hiện có 6 đ/c có trình độ đại học, còn lại là sơ cấp và trung cấp, Hầu hết cán bộ xã luôn nhiệt tình, tận tụy trong công việc, luôn có ý thức học tập nâng cao  trình độ bản than để đáp ứng nhu cầu công việc. Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa là một trong 7 xã, thị trấn thuộc huyện Dĩ An. Chấp hành sự  chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước cấp trên, sự lãnh đạo của Đảng ủy, sự giám sát của  Hội đồng nhân dân xã; phối hợp chặc chẽ giữa Ủy ban nhân dân xã với Ủy ban Mặt trận Tổ  Quốc và các đoàn thể nhân dân cùng cấp trong quá trình triển khai thực hiện mọi nhiệm vụ Bộ máy hoạt động của xã gồm có: một đồng chí Bí thư Đảng ủy, một đồng chí Phó Bí thư  thường trực Đảng ủy, một đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân (phó Bí thư Đảng ủy), hai  đồng chí phó chủ tịch ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân xã làm việc theo nguyên tắc tập trung  dân chủ, phát huy vai trò tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân và tinh thần chủ động, sáng tạo  của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Thành viên Ủy ban nhân dân. Mỗi việc chỉ được giao một người 
  9. phụ trách và chịu trách nhiệm chính. Mỗi thành viên Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm cá  nhân về lĩnh vực được phân công.  3. Khái quát về phòng tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. Được sự quan tâm của Đảng ủy, HĐND, UBND xã, đầu năm 2008, Ủy ban nhân dân xã đã  xây dựng mới phòng tiếp dân xã Đông Hòa.Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa bố trí phòng tiếp  công dân thuận tiện, vị trí thuận lợi để người dân dễ dàng đến trình bày những bức xúc, thắc  mắc của mình. Phòng tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã có trang bị bàn ghế đầy đủ để khi người dân đến sẽ  đảm bảo chỗ ngồi thuận tiện. Bên cạnh đó, phòng tiếp dân còn trang bị nước uống cho người  dân, luôn đảm bảo các điều kiện để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản  ảnh. Trước phòng tiếp công dân có niêm yết cụ thể lịch tiếp dân của Bí thư, phó bí thư, và chủ tịch  ủy ban nhân dân xã. Lịch tiếp dân được niêm yết công khai tại UBND xã vào các ngày thứ hai,  thứ tư và thứ sáu, do Bí thư Đảng ủy xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch UBND trực  tiếp tiếp dân cùng cán bộ chuyên trách, các ngày còn lại bố trí cán bộ chuyên trách đảm nhiệm Cán bộ tiếp dân luôn nhiệt tình với công việc, nhanh chóng và kịp thời giải quyết những đơn  thư khiếu nại, tố cáo của người dân. II. Thực trạng công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa năm 2008, năm 2009  và trong 6 tháng đầu năm 2010. 1. Quy trình tiếp dân. ­ Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa đã xây dựng quy chế về trình tự tiếp công dân, tiếp nhận và  giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng nội quy tiếp công dân phù hợp với  chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền quản lý. ­ Việc tiếp dân của xã do các đồng chí lãnh đạo Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân  cùng cán bộ tiếp dân phụ trách. ­ Văn phòng Ủy ban nhân dân xã bố trí phòng tiếp công dân để các đồng chí lãnh đạo Đảng,  Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiếp công dân theo quy định. Mọi ý kiến phản ánh, khiếu  nại, tố cáo của nhân dân đều được xem xét tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp công dân. Mọi thắc  mắc đều được các cấp lãnh đạo giải quyết kịp thời hoặc hướng dẫn công dân thực hiện  nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mọi ý kiến phản ánh, khiếu nại, thuộc thẩm quyền thì được  cán bộ tiếp dân hướng dẫn người viết thành đơn và điểm chỉ, những khiếu nại, tố cáo không  thuộc thẩm quyền giải quyết thì được hướng dẫn đến cơ quan chức năng có thẩm quyền  giải quyết.  ­ Chủ tịch UBND, Bí thư Đảng ủy, HĐND xã có trách nhiệm tiếp công dân mỗi tuần 02 ngày  (thứ 3, thứ 5) và khi có yêu cầu khẩn thiết phải tiếp và giải quyết ngay những khiếu nại, tố  cáo của công dân. ­ Quy trình tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa cụ thể như sau: + Bước 1: UBND xã tổ chức và quản lý điểm tiếp công dân riêng. Nơi tiếp công dân được  đặt tại văn phòng HĐND – UBND xã nhằm tạo điều kiện để công dân đến trình bày khiếu  nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh dễ dàng thuận lợi. Sau khi cá nhân, bộ phận chuyên môn xác  minh đầy đủ chứng cứ, tài liệu thì Chủ tịch UBND xã sẽ chủ trì mọi cuộc họp giải quyết  tranh chấp. + Bước 2: Đối với những khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng cụ thể có  cơ sở giải quyết, khi tiếp công dân của Đảng ủy – HĐND – UBND xã sẽ trả lời ngay cho 
  10. công dân biết; việc nào phức tạp cần phải nghiên cứu, xem xét thì nói rõ với người khiếu nại,  tố cáo biết về thời gian, cơ quan hoặc người cần liên hệ trực tiếp để được giải quyết. + Bước 3: Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. [IMG]file:///C:/Users/BKC/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image001.gif[/IMG]  2. Thực trạng công tác tiếp dân của Ùy ban nhân dân xã Đông Hòa ­ Tình hình và quản lý chỉ đạo: Công tác tiếp dân luôn được Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã quan tâm, xác  định đây là nhiệm vụ thường xuyên của địa phương, là cơ sở để nắm rõ tâm tư nguyện vọng  của nhân dân, vừa tiếp nhận những ý kiến đóng góp về tất cả các lĩnh vực hoạt động nhằm  xây dựng chính quyền cơ sở, đồng thời tiếp nhận các đơn thư khiếu nại tố cáo và kịp thời  giải quyết, không để kéo dài và tạo thành điểm nóng.  ˉ Công tác tiếp dân trong năm 2008: ­ Trong năm 2008 Uỷ ban nhân dân xã Đông Hòa đã tiếp nhận 43 lượt công dân đến đóng góp  ý kiến, phản ánh và trình bày tâm tư nguyện vọng. Qua tiếp xúc với nhân dân, những vụ việc  chủ yếu là những mâu thuẫn xuất phát từ tranh chấp đất đai, việc áp giá đền bù cấp tái định  cư trong các dự án quy hoạch trên địa bàn, hôn nhân gia đình, về ô nhiễm môi trường . Trong  quá trình tiếp công dân, cán bộ tiếp dân luôn ghi đầy đủ vào sổ, những đơn thư khiếu nại  thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân xã thì tiếp nhận và chuyển đến bộ phận  có trách nhiệm để giải quyết. Những đơn thư khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải  quyết của Ủy ban nhân dân xã thì hướng dẫn, giải thích nhân dân gửi đúng đến cơ quan chức  năng có thẩm quyền để giải quyết.  ­ Qua công tác tiếp dân đã tiếp nhận 53 lượt công dân.  Trong đó tiếp dân về việc:  + Tranh chấp đất đai: 22 vụ  + Tranh chấp lối đi: 02 vụ  + Xin ly hôn: 11 vụ + Về môi trường: 06 vụ + Nợ tiền: 05 vụ + Về các lĩnh vực khác: 07 vụ ­ Kết quả giải quyết:  + Hoà giải thành công: 26 vụ, đạt tỷ lệ: 49,1% + Hoà giải không thành: 17 vụ, đạt tỷ lệ: 32,1% + Chuyển huyện: 10 vụ, đạt tỷ lệ: 18,8%
  11. [IMG]file:///C:/Users/BKC/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image003.gif[/IMG] ­ Do các thành viên của tổ hòa giải có kinh nghiệm, đặc biệt là cán bộ tiếp dân luôn nhiệt tình  trong công việc, nên giải quyết thành công nhiều vụ, nhất là lĩnh vực hôn nhân gia đình, tranh  chấp lối đi Đối với những vụ việc không thuộc thẩm quyền, hoặc những vụ việc hòa giải  lần thứ hai không thành công thì được chuyển lên cấp trên thụ lý giải quyết.  ˉ Công tác tiếp dân trong năm 2009: Trong năm 2009, phòng tiếp dân đã tiếp 59 lượt công dân đến thắc mắc, khiếu nại. Trong đó tiếp dân về việc: ­ Tranh chấp đất đai: 09 vụ ­ Xin ly hôn: 12 vụ ­ Tranh chấp lối đi: 03 vụ  ­ Nợ tiền: 08 vụ ­ Đòi bồi thường giải toả: 10 vụ ­ Các lĩnh vực khác: 17 vụ  * Kết quả giải quyết:  ­ Hoà giải thành: 26 vụ, đạt tỷ lệ: 44% ­ Hoà giải không thành: 27 vụ, đạt tỷ lệ: 46% ­ Chuyển huyện: 05 vụ, đạt tỷ lệ: 0,08% ­ Tồn đọng: 01 vụ, đạt tỷ lệ :0,02% Có 5 vụ do vượt quá thẩm quyền nên UBND xã đã chuyển lên huyện giải quyết, 01 trường  hợp tồn đọng do chưa đủ hồ sơ giải quyết. ˉCông tác tiếp dân trong 6 tháng đầu năm 2010: ­ Phòng tiếp dân của xã đã tiếp nhận tổng cộng 18 đơn thư khiếu nại (01 đơn năm 2009  chuyển sang). ­ Trong đó tiếp dân về việc:  + Tranh chấp đất đai: 06 vụ  + Xin ly hôn: 05 vụ  + Nợ tiền: 02 vụ 
  12. + Tranh chấp khác: 05 vụ  ­ Kết quả giải quyết:  + Hoà giải thành: 05 vụ, đạt tỷ lệ: 27,8% + Hoà giải không thành: 07 vụ, đạt tỷ lệ: 40 % + Chuyển huyện: 03 vụ, đạt tỷ lệ: 16, 6% + Đang giải quyết: 03 vụ, đạt tỷ lệ: 16,6% ­ Đối với những vụ việc có đủ cơ sở và thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND xã thì được  xem xét giải quyết tại UBND xã. Những vụ việc vượt quá thẩm quyền giải quyết của UBND  xã thì được chuyểnn lên huyện.  Công tác tiếp dân năm 2008 có chiều hướng gia tăng so với cùng kỳ năm 2007 là 08 lượt (năm  2007 là 37 lượt), những vụ việc xảy ra chủ yếu là tranh chấp về lĩnh vực đất đai (tranh chấp  chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp ranh đất, ), hôn nhân gia đình, nợ tiền Nguyên  nhân do các dự án quy hoạch được thực hiện, đất đai ngày càng thu hẹp, bên cạnh đó, công ty  xí nghiệp hình thành nhiều, các khu đất còn trống được người dân sử dụng xây dựng nhà trọ,  kiốt cho thuê, đời sống của một số hộ dân được nâng lên, mâu thuẫn ngày càng phát sinh, do  đó công tác tiếp dân gặp nhiều khó khăn.  Công tác tiếp dân trong năm 2009 gia tăng hơn năm 2008, những vụ việc xảy ra vẫn chủ yếu  là tranh chấp về lĩnh vực đất đai (tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp  ranh đất, tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp lối đi ), đòi tiền bồi thường, hôn nhân gia  đình, nợ tiền Nguyên nhân chủ yếu của tranh chấp về lĩnh vực đất đai là do giá đất ngày càng  tăng, các dự án quy hoạch chưa thực hiện xong việc áp giá đền bù và cấp tái định cư nên  người dân còn khiếu kiện nhiều lần. Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm 2010 công tác tiếp dân có giảm so với cùng kỳ năm trước.  Do được giải đáp thỏa đáng nên những đơn thư khiếu nại về đền bù đất đai nhìn chung trong  6 tháng đầu năm hầu như chưa xảy ra, tranh chấp trong lĩnh vực đất đai chủ yếu là tranh chấp  lối đi, ranh đất  3. Nhận xét về thực trạng công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa Nhìn chung, trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội phát triển, các dự án quy hoạch  được thực hiện, cơ sở hạ tầng được hình thành, lượng dân nhập cư ngày càng cao đã kéo theo  những vấn đề bức xúc: tranh chấp quyền sử dụng đất, ô nhiễm môi trường, ly hôn, đặc biệt  là công tác áp giá giải tỏa đền bù. Do đó, công tác tiếp dân có chiều hướng gia tăng về số  lượng đơn thư và nội dung ngày càng đa dạng nhưng tập trung chủ yếu về lĩnh vực đất đai và  hôn nhân gia đình.  Trên địa bàn hiện có 3 dự án quy hoạch lớn, với giá cả đất đai ngày càng tăng cao, mặc khác  lối sống đạo đức của một bộ người dân ngày càng giảm, tình làng nghĩa xóm không được duy  trì, vốn kiến thức về pháp luật của người dân không nhiều, vì vậy mâu thuẫn trong nhân dân  ngày càng gia tăng nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai. Bên cạnh đó, lượng dân nhập cư ngày càng nhiều, chủ yếu là lực lượng lao động trẻ năng  động, có điều kiện về kinh tế, văn hóa xã hội phát triển, trường hợp kết hôn ngày càng nhiều,  tuy nhiên tình trạng ly hôn cũng ngày càng gia tăng. Qua tình hình nêu trên đã rút ra được một số ưu khuyết điểm sau: ­ Ưu điểm:  + Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân luôn đặc biệt quan tâm đến công tác tiếp 
  13. công dân, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thông qua công tác tiếp dân để có  cơ hội nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, từ đó  có biện pháp giải quyết hợp tình hợp lý, tạo được niềm tin trong nhân dân. + Đảng ủy, Ủy ban nhân dân luôn thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, luôn có kế hoạch  phân công, bố trí lãnh đạo tiếp công dân thường xuyên theo quy định của pháp luật, bố trí nơi  tiếp công dân tại địa điểm thuận tiện, bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết, bố trí cán  bộ tiếp công dân thường xuyên, có phẩm chất tốt, có ý thức trách nhiệm cao.  + Cán bộ công chức luôn có thái độ ôn hòa, nhã nhặn, thân thiện với quần chúng nhân dân,  nhiệt tình trong công việc. Cán bộ làm nhiệm vụ tiếp công dân có tinh thần trách nhiệm, thái  độ hoà nhã, cởi mở và lắng nghe công dân trình bày tâm tư nguyện vọng, có phương pháp xử  lý giải quyết các vấn đề của công dân có lý, có tình, đúng thẩm quyền tạo được niềm tin ở  công dân, đảm bảo tình hình an ninh trật tự tại các địa điểm tiếp công dân. + Việc nhận đơn, xử lý, phân loại đơn có nhiều tiến bộ; cơ bản số đơn đã nhận được xử lý  kịp thời; đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết được chuyển hoặc hướng dẫn đến cơ quan  có thẩm quyền giải quyết.  + Chất lượng giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết được nâng  lên; việc giải quyết nhìn chung đảm bảo về trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền và hình  thức văn bản. + Công tác tuyên truyền thực hiện Luật của Nhà nước trong đó có Luật Khiếu nại, tố cáo  được các ban, ngành đoàn thể duy trì thường xuyên và thực hiện có hiệu quả. + Trong việc nhận đơn, xử lý, phân loại đơn có nhiều tiến bộ, cơ bản những đơn đã nhận  đều được xử lý kịp thời; những đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết được chuyển hoặc  hướng dẫn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. ­ Những khó khăn hạn chế: bên cạnh những mặt đã làm được, công tác tiếp công dân, gắn  với giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân còn những mặt khó khăn và hạn chế như sau: + Văn bản Luật thường xuyên được thay đổi bổ sung, sau đó còn chờ văn bản hướng dẫn của  các cấp, mặt khác cán bộ chưa quan tâm nắm bắt kịp thời để phục vụ cho công tác chuyên  môn, nên đôi lúc còn lúng túng trong việc giải thích với người dân, gây mất lòng tin trong nhân  dân. + Đôi lúc công tác vận động, tuyên truyền giáo dục pháp luật nhất là luật khiếu nại, tố cáo  chưa thật sự rộng rãi, công tác vận động quần chúng chưa đạt hiệu quả cao. + Cán bộ tiếp dân do được phân công, chưa có kỹ năng chuyên môn, chưa nhận thức đầy đủ  vị trí ý nghĩa của công tác tiếp dân, khả năng giao tiếp hạn chế, chưa có phương pháp xử lý  kịp thời những tình huống khó khăn trong công tác tiếp dân có thể xảy ra, ít nhiều có ảnh  hưởng đến công tác tiếp dân ở địa phương.  + Công tác quy hoạch áp giá đền bù còn chậm, một số hộ dân chưa đồng tình với giá tiền đền  bù, hoặc chậm bàn giao tái định cư nên dẫn đến việc người dân khiếu nại nhiều lần. Bên  cạnh đó, một số dự án quy hoạch “treo” đã lâu nhưng chưa thực hiện gây hoang mang cho  người dân, ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh đã dẫn đến việc người dân bức xúc  khiếu kiện. + Việc hướng dẫn nhân dân khiếu nại, tố cáo chưa rõ ràng dẫn tới việc nhân dân khiếu nại tố  cáo chưa đúng thủ tục pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa kịp thời còn chậm  nên dẫn tới nhân dân khiếu kiện vượt cấp. Người dân vẫn chưa chú trọng đến quy trình  khiếu nại, tố cáo, không quan tâm đến những văn bản được niêm yết công khai tại Ủy ban 
  14. nhân dân xã, nên chưa nắm rõ trình tự thủ tục, đôi lúc vẫn còn khiếu nại không đúng thẩm  quyền, không đúng quy trình theo quy định. + Do cán bộ lãnh đạo kiêm nhiệm rất nhiều công việc nên bố trí, sắp xếp thời gian tiếp công  dân không theo định kỳ và nhiều khi thay đổi ngày không thông báo và nói rõ lý do . Điều này  đã làm ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết những mâu thuẫn, khiếu nại của công dân. + Trong nhân dân, có một số phần tử xấu kích động người dân khiếu kiện về vấn đề quy  hoạch đất khu chung cư, Đại học quốc gia TP. HCM dẫn đến một số hộ dân khiếu kiện  nhiều lần ở ấp Đông B, ấp Tân Lập, ấp Tân Hòa, nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để và  thích đáng.  + Một số người dân do chưa nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình nên đôi lúc có  những đòi hỏi vô lý, những khiếu kiện của họ đã được các cấp thẩm quyền giải quyết thấu  đáo, đúng chính sách, chế độ nhưng vẫn cố tình đòi hỏi vô lý, có thái độ không đúng, gây mất  trật tự xã hội và tại nơi tiếp công dân. + Đạo đức tốt đẹp dân tộc không được phát huy, một bộ phận người dân có lối sống xa hoa,  ích kỷ, thích đạo đức dẫn đến xảy ra nhiều mâu thuẫn tranh chấp với nhau những vấn đề  nhỏ. + Do diện tích đất chật hẹp nên phòng tiếp dân của xã sử dụng chung với nhiều phòng ban ít  nhiều ảnh hưởng đến hoạt động của công tác tiếp dân. Phòng tiếp dân của xã chưa được  trang bị đầy đủ các loại văn bản của Đảng và Nhà nước. + Cán bộ lãnh đạo xã chưa kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân,  chưa quan tâm đúng mức đến việc thường xuyên đi xuống cơ sở. + Cán bộ của xã còn chưa thực hiện nghiêm Luật cán bộ công chức, làm việc cá nhân trong  giờ hành chính, đi trễ, về sớm đã ít nhiều làm ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ đối với quần  chúng nhân dân. + Chưa tổ chức thường xuyên các cuộc họp nhằm đánh giá công tác tiếp dân, chưa đánh giá  đúng thực trạng công tác tiếp dân của xã, không đưa ra được phương hướng trực tiếp để nâng  cao công tac tiếp dân. + Một số vụ việc tham nhũng quan liêu xử lý chưa làm người dân hài lòng, hình thức và mức  phạt còn nhẹ so với mức độ vi phạm của cán bộ. ­ Nguyên nhân của những ưu điểm: + Cán bộ lãnh đạo của địa phương luôn quan tâm đến ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác  tiếp dân, cán bộ tiếp dân có trách nhiệm và nhiệt tình trong công việc giải quyết các loại đơn  thư khiếu nại, tố cáo và tranh chấp của nhân dân. + Lãnh đạo của địa phương luôn xem công tác tiếp công dân là một trong những nhiệm vụ  trọng tâm, kịp thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân  dân và có hướng giải quyết nhằm thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích hợp pháp chính đáng  của nhân dân. + Địa phương luôn quan tâm đến công tác tiếp dân, có kế hoạch và thực hiện tốt việc trang bị  đầy đủ cho phòng tiếp dân, thường xuyên tạo điều kiện cải thiện phòng tiếp dân của xã. ­ Nguyên nhân của những hạn chế: + Việc tiếp công dân do cán bộ tiếp dân và lãnh đạo đơn vị trực tiêp tiếp công dân nên đôi lúc  giải đáp đơn thư khiếu nại của người dân chưa được thỏa đáng, do kỹ năng giao tiếp hạn chế  nên việc giao tiếp với người dân đôi lúc chưa làm người dân hài long. + Cán bộ tiếp dân do mới được phân công đảm nhận công tác nên chưa có chuyên môn về 
  15. lĩnh vực tiếp dân, vốn kiến thức về các văn bản pháp luật chưa nhiều. + Công tác tuyên truyền pháp luật cho nhân dân chưa được sâu rộng và chưa có hiệu quả thiết  thực, chưa có số lượng và chất lượng. Một bộ phận nhân dân chưa thật sự quan tâm đến  đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. + Một số người dân có đơn khiếu nại, tố cáo mặc dù đã được cán bộ lãnh đạo và cán bộ tiếp  dân giải quyết đúng trình tự, thủ tục, đúng pháp luật, quyết định hoặc kết luận giải quyết đã  có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn cố tình không thực hiện, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo  gây không ít khó khăn cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. + Công tác phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức Đảng, đoàn thể cùng cấp được duy trì  thường xuyên từ khâu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến quá trình giải quyết  đơn thư khiếu nại, tố cáo. PHẦN 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC TIẾP DÂN  CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XàĐÔNG HÒA I. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã  Đông Hòa. Trước những thực trạng của Uỷ ban nhân dân xã Đông Hoà, tôi xin đưa ra giải pháp nhằm  nâng cao công tác tiếp dân của UBND xã Đông Hoà cụ thể sau:  1. Giải pháp đối với Trung ương: ­ Phải sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, tránh tình trạng chồng chéo giữa các văn bản với  nhau, tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật; tăng  cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây  dựng, tài chính, ngân sách, chính sách xã hội; thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, tạo  điều kiện thuận lợi để công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và thực hiện tốt  quyền, nghĩa vụ công dân nhằm tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, hài hoà, tạo động lực  mới trong phát triển kinh tế ­ xã hội và hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo. Cải cách các thủ  tục rờm rà, ví dụ như: có một Luật được ban hành nhưng vẫn chưa áp dụng thực hiện, phải  chờ văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành chuyên môn từ Trung ương đến địa phương, gây  ra lãng phí và mất nhiều thời gian. ­ Cần có quy định cụ thể về tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp  dân, chú trọng trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, đồng thời thường xuyên mở các lớp  học chuyên môn về kỹ năng giao tiếp, ứng xử của cán bộ công chức. Cần đưa ra những  chuẩn mực chung đối với cán bộ tiếp dân, nhất là cán bộ tiếp dân tại xã, có chế độ cho cán  bộ tiếp dân ở cấp xã. ­ Ban hành những quy định mới về áp giá đền bù, hỗ trợ tái định cư cho người dân theo mức  giá cao hơn cho người dân. Cần có biện pháp xử lý đối với những dự án quy hoạch “treo”.  Nhà nước phê duyệt một dự án nhưng thời gian thực hiện kéo dài, có dự án thậm chí kéo dài  hơn 10 năm. Gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, đời sống sinh hoạt của người dân. ­ Tiếp tục triển khai thực hiện nhiều cuộc vận động nhằm nâng cao đạo đức của người dân,  nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân, phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc. 2. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. ­ Nên phân công cán bộ tiếp dân có đủ năng lực và trình độ, nếu sau khi phân công thì phải  tạo điều kiện cho cán bộ đi học tập chuyên môn, khuyến khích cán bộ tự học để nâng cao 
  16. trình độ.  Một số trường hợp người dân một phần do bị kích động, một phần do quá bức xúc nên có  những lời nói thô lỗ, lớn tiếng, thái độ nóng nảy vì vậy người cán bộ nhất là cán bộ tiếp dân  phải rèn cho mình lập trường kiên định vững vàng, thái độ ôn hòa, để có thể giải quyết được  công việc một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, luôn nhắc nhở cán bộ rèn luyện phẩm chất đạo  đức, nhất là những cán bộ thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, cán bộ phải thường xuyên  trao dồi đạo đức, rèn luyện cho mình tính ôn hòa, nhã nhặn, thái độ tiếp dân lịch sự, niềm nỡ.  Cần nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác  tiếp dân. ­ Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đặc biệt là pháp  luật về khiếu nại, tố cáo để mọi người biết và nghiêm chỉnh chấp hành. Qua đó góp phần  chủ động phòng ngừa, hạn chế tình trạng khiếu kiện tràn lan, vượt cấp hoặc lợi dụng quyền  khiếu nại, tố cáo gây ảnh hưởng xây đến tình hình kinh tế ­ xã hội ở địa phương. Tuyên  truyền bằng nhiều hình thức như: phát tờ rơi, lồng ghép các buổi họp dân, tiếp xúc cử tri,  phối hợp lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của các tổ chức chính trị ­ xã hội, thông qua đài  truyền thanh của xã, tổ chức hội thi tìm hiểu pháp luật,  ­ Không phải người dân nào cũng có trình độ, có nhận thức ngang nhau vì vậy cán bộ tiếp dân  nên dùng những câu dễ hiểu, hướng dẫn nhân dân một cách chính xác, không nên dùng nhiều  từ chuyên môn, hướng dẫn một cách cụ thể, không để nhân dân chán nản, mất lòng tin, phải  giúp nhân dân tháo gỡ thắc mắc của mình một cách triệt để, nhanh chóng. Thực tế, khi nhân  dân đến liên hệ cán bộ ở phòng này chỉ một cách, cán bộ phòng kia chỉ một cách, làm người  dân phải đi lòng vòng, mất thời gian mà chưa giải quyết được vấn đề. Vì vậy, cán bộ cần  phải có kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, có tâm trong công việc, hướng dẫn nhân dân một  cách nhiệt tình và chính xác. Những thủ tục hành chính, các văn bản mới được niêm yết tại xã  phải được đặt ở vị trí thuận lợi hơn, nơi người dân dễ dàng nhìn thấy, dễ đọc, dễ tìm kiếm.  Thường xuyên niêm yết các văn bản mới để người dân nắm bắt thông tin kịp thời. Nên lồng  ghép tuyên truyền các văn bản mới của Nhà nước trong các buổi họp dân. ­ Cán bộ lãnh đạo phải sắp xếp công việc một cách khoa học, thực hiện tốt công tác tiếp dân  theo định kỳ, không được vắng trong các buổi tiếp dân.  ­ Với những trường hợp nhân dân khiếu kiện do bị kích động phải nhanh chóng tìm ra người  kích động và phải có biện pháp xử lý thích đáng đối với những phần tử xấu lợi dụng chính  sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để kích động, gây hoang mang, mất lòng tin trong  nhân dân. ­ Tiếp tục tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, hiểu  rõ các chế độ chính sách để nhân dân đồng tình hưởng ứng, không khiếu kiện đòi hỏi vô lý. ­ Đầu tư xây dựng một phòng tiếp dân rộng rãi hơn, thoáng mát hơn, có trang bị tủ sách, các  văn bản của Đảng và của Nhà nước để nâng cao hoạt động tiếp dân tại địa phương. ­ Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi xuống ấp, nên đi thường xuyên, không những trong  giờ làm việc mà kể cả ngoài giờ làm việc, nên sắp xếp lịch đi cơ sở cụ thể hàng tuần, xem  đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nên thường xuyên tham dự các buổi tiếp xúc cử  tri, các buổi họp dân. Có như vậy mới kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của người dân,  những vấn đề nóng phát sinh, nắm chắc tình hình, lãnh đạo chỉ đạo giải quyết kịp thời ngay  từ khu dân cư các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong nội bộ nhân dân và có biện pháp xử  lý kịp thời. 
  17. ­ Tác phong làm việc của cán bộ công chức vẫn chưa đạt yêu cầu như: còn đi làm trễ, về  sớm, cách ăn mặc không hợp với cơ quan, một số cán bộ có lối sống xa hoa, lãng phí, đã ít  nhiều làm cho nhân dân bức xúc, không đồng tình. Vì vậy cần phải thực hiện nghiêm Luật  Cán bộ công chức, quy chế làm việc của Ủy ban nhân dân, nội quy cơ quan. Bên cạnh đó, cần  phải thường xuyên kiểm tra công việc của cán bộ công chức, tiếp thu ý kiến của nhân dân  đóng góp cho cán bộ công chức để kịp thời chấn chỉnh lại tác phong của cán bộ công chức.  Luôn nhắc nhở cán bộ công chức phải có tâm với nhân dân, phải thường xuyên tiếp thu ý  kiến của quần chúng nhân dân để kịp thời khắc phục sửa đổi. Luôn giúp đỡ nhân dân nhiệt  tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân đến liên hệ. ­ Phải họp đánh giá tình hình công tác tiếp dân, đánh giá rút kinh nghiệm, có báo cáo chuyên  đề về giải quyết khiếu nại, tố cáo, đề từ đó có cơ sở đề ra phương hướng trọng tâm để thực  hiện tốt công tác tiếp dân của địa phương, nhằm làm cho nhân dân tin tưởng vào đường lối,  chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. ­ Phải xử lý thật nghiêm minh đối với những cán bộ tham nhũng quan liêu, có như vậy mới  không làm mất lòng tin ở nhân dân. II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông  Hòa. Trên cơ sở thực trạng và giải pháp vừa nêu trên, tôi xin đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng  cao công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa như sau: ­ Thứ nhất, các cấp chính quyền cần phải sớm có văn bản cụ thể đối với những dự án quy  hoạch “treo”, không để tình trạng quy hoạch “treo” kéo dài, có văn bản đối với việc áp giá  đền bù không làm cho người dân bị thiệt hại sau khi quy hoạch, có chính sách tái định cư hợp  lý, phải làm sao cho người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi quy hoạch. Trước khi phê  duyệt dự án quy hoạch nên có cuộc khảo sát ý kiến người dân, xem xét khả năng tài chính  thực tế của đơn vị đầu tư quy hoạch, nếu dự án quy hoạch lâu không thực hiện được phải có  văn bản xóa bỏ dự án để nhân dân tiếp tục sản xuất và sinh sống. ­ Thứ hai, đa số các vụ tiêu cực là do quần chúng nhân dân phát hiện, vì vậy cần đẩy mạnh  công tác kiểm tra nhiệm vụ của cán bộ công chức nhất là trong lĩnh vực tiếp công dân. Phải  có biện pháp xử lý nghiêm đối với cán bộ công chức có thái độ hách dịch, không có trách  nhiệm trong công việc, vi phạm Luật và quy định của pháp luật, đặc biệt là Luật cán bộ công  chức. ­ Thứ ba, thủ tục hành chính cần phải được đơn giản hơn nữa, có thể ứng dụng công nghệ  thông tin vào trong công tác tiếp dân để người dân có thể vào mạng internet để xem thông tin  về đơn thư của mình đã được giải quyết đến đâu, người dân không phải trực tiếp đi đến Ủy  ban nhiều lần. ­ Thứ tư, cán bộ tiếp dân phải được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tiếp dân phải  là người am hiểu pháp luật, có kỹ năng giao tiếp, có bản lĩnh chính trị. Cần mở lớp đào tạo  chuyên về kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho cán bộ công chức, các buổi học tập về tâm lý để cán  bộ tiếp dân thực hiện tốt công việc của mình, góp phần giải quyết bức xúc của người dân  thỏa đáng, kịp thời, giữ vững được niềm tin của nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng vững  mạnh.  PHẦN KẾT LUẬN
  18. Tiếp công dân là công tác rất quan trọng, do đó trong quá trình tiếp công dân, ngoài việc thực  hiện đúng các quy định của pháp luật về tiếp công dân, thực hiện đúng các quy trình nghiệp  vụ tiếp công dân, cán bộ tiếp dân còn phải lưu ý đến một số vấn đề liên quan đến tâm lý  người đi kiếu nại, tố cáo; liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân . Tiếp công  dân là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của  người dân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua đó phát huy quyền dân chủ của nhân dân  tham gia vào quá trình quản lý nhà nước, thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước ta là Nhà  nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy cần phải xem người dân như khách quý, phải đón tiếp  chân thành và niềm nở.  Thông qua công tác tiếp dân, sẽ hiểu được tâm tư, nguyện vọng và những vấn đề bức xúc  của công dân mà các cơ quan chức năng giải quyết chưa thỏa đáng; hướng dẫn công dân thực  hiện đúng quyền khiếu nại, tố cáo của mình, đồng thời kiến nghị các cơ quan hữu quan giải  quyết đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật. Công tác tiếp công dân là công tác hết sức phức tạp, do đó cần có sự lãnh, chỉ đạo chặt chẽ,  sát sao của Đảng, chính quyền các cấp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị  tham gia thì sẽ đạt hiệu quả cao. Công tác tiếp dân sẽ phát huy hiệu quả khi lãnh đạo sâu sát,  có tâm, có tầm, có trách nhiệm,dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước  dân. Và trên hết việc tiếp dân phải dựa trên cơ sở những chủ trương, quy định mang tính  xuyên suốt và cơ bản của nhà nước cấp trung ương và địa phương, không làm cho dân lo, dân  sợ và cũng tránh xuê xoa, tuỳ tiện trong giải quyết các vướng mắc, tồn đọng, làm ảnh hưởng  đến việc triển khai các chủ trương, chính sách chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1­ Hiến pháp năm 1992 2­ Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi bổ sung năm 2004 – 2005)  3­ Nghị định 136/2006/NĐ – CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ về hướng dẫn chi tiết việc  thực hiện luật khiếu nại, tố cáo.  4­ Nghị định 89/1997/NĐ – CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ về ban hành Quy chế tổ chức  tiếp công dân. 5­ Quyết định 858/ QĐ­TTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề  án đổi mới công tác tiếp công dân. 6­ Quyết định số 42 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về ban hành Quy chế tổ chức tiếp  công dân. 7­ Quy chế hoạt động của UBND xã Đông Hòa.  8­ Quy chế hoạt động của phòng tiếp dân của UBND xã Đông Hòa. 9­ Báo cáo của UBND xã Đông Hòa năm 2008, 2009, 6 tháng đầu năm 2010.  10­ Giáo trình trung cấp lý luận chính trị. 11­ Tài liệu mạng. 12­ Một số sách báo, tài liệu tham khảo khác có liên quan. Nguồn: http://www.kilobooks.com/threads/211318­Công­tác­tiếp­dân­tại­UBND­xã­Đông­Hòa­ Thực­trạng­và­giải­pháp?s=31b6889a9e5dccf90323453b06bc0223#ixzz24cVpkEzo  Thư Viện Điện Tử www.KILOBOOKS.com 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
23=>2