Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa
lượt xem 73
download
Tiểu luận "Thực trạng và giải pháp công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa" này bao gồm các phần như sau: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác tiếp dân, thực trạng công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa, một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa
- LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển đi lên về kinh tế đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn trong đời sống xã hội liên quan đến quyền lợi giữa dân với Nhà nước, giữa dân với dân, giữa những người trong dòng họ với nhau dẫn đến khiếu kiện. Chính vì vậy, tiếp công dân là công tác rất quan trọng bởi vì thông qua các buổi tiếp dân, cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, từ đó có biện pháp giải quyết hợp tình hợp lý, tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần nâng cao trách nhiệm của chính quyền các cấp. Đây cũng là thể hiện bản chất của nhà nước chúng ta, một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, bên cạnh một số ít địa phương, đơn vị đã làm tốt công tác tiếp công dân thì vẫn còn rất nhiều địa phương, đơn vị chưa thực hiện tốt việc tiếp công dân. Nhiều nơi còn làm qua loa, hình thức, thực hiện chưa nghiêm quy định của pháp luật, đặc biệt có địa phương người đứng đầu không thực hiện việc tiếp dân theo định kỳ, có nơi còn ủy quyền, khoán trắng cho cấp dưới theo kiểu làm cho có, lấy lệ, đối phó mà thôi. Nhiều nơi người đứng đầu địa phương, đơn vị vẫn tổ chức tiếp công dân nhưng lại giải quyết các thắc mắc, khiếu nại không đến nơi đến chốn, tránh né những việc làm sai trái, nhiều khi còn bao che cho những sai trái của cấp dưới . Từ đó, vừa làm mất đi ý nghĩa của việc tiếp dân vừa lại phản tác dụng, gây khiếu kiện vượt cấp, do đó đôi khi còn là cái cớ cho những phần tử xấu, phản động lợi dụng kích động nhân dân gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng do ức chế từ phía người dân. Ủy ban nhân dân Đông Hòa là một trong những xã nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của huyện Dĩ An, địa bàn còn rất nhiều phức tạp, nhiều vấn đề nóng nảy sinh ngày càng nhiều đã tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Bên cạnh đó, công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã còn một số hạn chế như: công tác tuyên truyền pháp luật nhất là Luật khiếu nại tố cáo chưa thật sự sâu rộng, các dự án quy hoạch trên địa bàn chưa hoàn thành dẫn đến việc người dân còn thắc mắc, khiếu nại nhiều lần, cán bộ làm công tác tiếp dân do được phân công nên chưa có kỹ năng chuyên môn, chưa hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tiếp công dân Xuất phát từ nhận thức trên, sau khóa học tôi đã đề tài: “Công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa, thực trạng và giải pháp”. Nội dung đề tài này bao gồm các phần như sau: Phần 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác tiếp dân Phần 2: Thực trạng công tác tiếp dân tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa Phần 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐẾ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC TIẾP DÂN
- I. Công tác tiếp dân và mục đích của công tác tiếp dân 1. Khái niệm về công tác tiếp dân. Tiếp dân là một nhiệm vụ quan trọng của cơ quan hành chính các cấp. Tiếp công dân là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua đó phát huy quyền dân chủ của nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước, thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tiếp dân là việc làm thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa Nhà nước và công dân, thể hiện bản chất nhà nước của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, là một hoạt động thuộc về trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ xã được tiến hành trên cơ sở các quy định của luật pháp, thông qua các hành động cụ thể nhằm lắng nghe, thu thập thông tin để giải quyết các yêu cầu đề nghị của tổ chức và công dân. Công tác tiếp dân là để tiếp nhận khiếu nại, kiến nghị, phản ảnh cũng như tiếp thu những đóng góp, hiến kế và giải quyết công việc cho người dân. Công tác tiếp công dân là người đại diện cho cơ quan nhà nước tiếp nhận những thông tin mà người dân phản ảnh về các chính sách, các hành vi liên quan đến đời sống, văn hoá, kinh tế, xã hội . Tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả 2. Mục đích của công tác tiếp dân. Công tác tiếp công dân nhằm để tiếp nhận các thông tin, kiến nghị, phản ánh góp ý những vấn đề liên quan đến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, công tác quản lý của cơ quan, đơn vị. Tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình để xem xét ra quyết định, kết luận giải quyết hoặc trả lời cho công dân biết theo đúng thời hạn quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng chính sách, pháp luật, đúng cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết. II. Các quy định pháp luật về công tác tiếp dân. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Ngày 2 tháng 12 năm 1998, Quốc Hội đã thông qua Luật khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành năm 1999. Luật khiếu nại, tố cáo 1998 thay thế cho Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân ngày 7 tháng 5 năm 1991. Từ ngày 01/01/1999 đến nay luật khiếu nại tố cáo đã được sửa đổi bổ sung 2 lần, lần thứ nhất là kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI, thông qua ngày 15/06/2004, và lần thứ hai vào kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XI, thông qua ngày 29/11/2005. Luật khiếu nại, tố cáo là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành, quy định cụ thể quyền khiếu nại của cá nhân, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; quy định việc tiếp công dân, việc quản lý, giám sát công tác giải quyết khiếu nại tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện một trong những quyền cơ bản của mình, phát huy dân chủ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, cá nhân; đồng thời tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước, nâng cao trách nhiệm của ngành, các cấp trong
- việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đến nay, Luật khiếu nại, tố cáo đã được sửa đổi bổ sung 2 lần vào năm 2004 và 2005. Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện một trong những quyền cơ bản của mình, phát huy dân chủ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, cá nhân; đồng thời tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước, nâng cao trách nhiệm của ngành, các cấp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Căn cứ vào Luật khiếu nại, tố cáo được sửa đổi bổ sung 2004, 2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định 136 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. Chính phủ đã ban hành thêm Nghị định 89 về quy chế tổ chức tiếp công dân nhằm cụ thể hóa công tác tiếp công dân. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả ngày 14 tháng 06 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án đổi mới công tác tiếp công dân. Căn cứ vào luật khiếu nại , tố cáo năm 1998 được sửa đổi bổ sung năm 2004 – 2005, Nghị định số 136/2006/NĐ – CP ban hành ngày 14/11/2006, hướng dẫn thi hành một số điều luật khiếu nại, tố cáo, Nghị định 89 về quy chế tổ chức tiếp công dân có quy định về công tác tiếp dân với một số nội dung như sau: 1. Thẩm quyền tiếp dân của Ủy ban nhân xã theo quy định của pháp luật. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giải quyết đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền quy định tại Điều 19 của Luật Khiếu nại Tố cáo đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và Điều 10 của Nghị định số 136/2006/NĐCP của Chính phủ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giải quyết đơn tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật của người do mình quản lý trực tiếp. Thủ trưởng cơ quan nhà nước có trách nhiệm định kỳ tiếp công dân theo quy định tại Điều 76 của Luật Khiếu nại, tố cáo; lịch tiếp công dân phải được thông báo công khai cho công dân biết. Ngoài việc tiếp công dân theo định kỳ, Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải tiếp công dân khi có yêu cầu khẩn thiết. Đối với những khiếu nại thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng, cụ thể, có cơ sở giải quyết thì khi tiếp công dân, Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải trả lời ngay cho công dân biết; nếu vụ việc phức tạp cần nghiên cứu, xem xét thì phải nói rõ thời hạn giải quyết, người cần liên hệ tiếp để biết kết quả giải quyết. Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải được ghi vào sổ tiếp công dân và được lưu giữ tại nơi tiếp công dân. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tiếp công dân tại trụ sở Uỷ ban ít nhất 2 buổi trong tuần, không kể các trường hợp phải tiếp theo yêu cầu khẩn thiết. 2. Lịch tiếp dân. Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết lịch tiếp công dân, nội quy tiếp công dân. Lịch tiếp công dân phải được ghi cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải ghi rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo.
- 3. Người có trách nhiệm tiếp dân Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân và tổ chức việc tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo; bố trí cán bộ có phẩm chất tốt, có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm công tác tiếp công dân. Các cơ quan thanh tra nhà nước, các cơ quan công an, quốc phòng, thương mại, kế hoạch và đầu tư, xây dựng, tài chính, lao động thương binh và xã hội, nội vụ, giao thông vận tải, y tế, giáo dục và đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên và môi trường ở cấp trung ương và cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức tiếp công dân thường xuyên. Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, nhà nước trong luật khiếu nại, tố cáo còn được thể hiện bố trí cán bộ có phẩm chất tốt, có kiến thức và am hiểu chính sách, pháp luật, có ý thức trách nhiệm làm công tác tiếp dân. Cán bộ tiếp công dân là người thay mặt cho cơ quan, tổ chức để tiếp xúc với nhân dân, nội dung vấn đề phản ảnh ở nơi tiếp công dân rất đa dạng, liên quan đến chính sách pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, trách nhiệm thủ trưởng của các cơ quan , đơn vị là phải bố trí những cán bộ có đủ khả năng và tiêu chuẩn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ . phẩm chất tốt của người cán bộ tiếp dân thể hiện ở chỗ không chỉ là tiêu chuẩn cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của cán bộ công chức mà còn đòi hỏi người cán bộ tiếp công dân phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, pháp luật nhà nước. Cán bộ tiếp dân không chỉ giải thích hướng dẫn mà đôi khi còn đòi hỏi bản lĩnh chính trị để đấu tranh các tư tưởng ngoại lai, sai trái, đi ngược với mục tiêu của Đảng .Các cơ quan khác của nhà nước căn cứ vào quy định của luật khiếu nại, tố cáo, các luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tố cáo liên quan đến ngành, lĩnh vực của mình quản lý để bố trí thời gian tiếp công dân. Người tiếp công dân phải có sổ để ghi chép, theo dõi việc tiếp công dân; yêu cầu công dân đến khiếu nại, tố cáo xuất trình giấy tờ tùy thân, trình bày trung thực sự việc, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp có nhiều người đến khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung thì yêu cầu họ cử đại diện trực tiếp trình bày nội dung sự việc. 4. Nơi tổ chức tiếp dân. Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, đưa đơn khiếu nại, tố cáo được tiến hành tại nơi tiếp công dân. Cơ quan nhà nước phải bố trí nơi tiếp công dân thuận tiện, bảo đảm các điều kiện để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo được dễ dàng, thuận lợi. Việc tổ chức tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại trụ sở tiếp công dân ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo Quy chế tổ chức tiếp công dân ban hành kèm theo Nghị định số 89/CP ngày 07 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí địa điểm chung để Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại diện tổ chức chính trị tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo; cử một công chức có chức vụ Phó Văn phòng hoặc cấp tương đương phụ trách nơi tiếp công dân để tổ chức thực hiện chế độ tiếp dân thường xuyên. Thủ trưởng các cơ quan nhà nước phải tổ chức và quản lý nơi tiếp công dân của cơ quan mình, ban hành nội quy tiếp công dân; bố trí nơi tiếp công dân địa điểm thuận lợi; đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
- ánh. Tại nơi tiếp công dân còn quy định phải niêm yết lịch tiếp công dân, nội quy tiếp công dân, lịch tiếp công dân phải ghi cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân, nội quy tiếp công dân phải ghi rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo. Tiến hành tại nơi tiếp công dân có ý nghĩa quan trọng, nhằm đưa công tác tiếp dân vào nề nếp góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu cực của cán bộ trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo; khắc phục tình trạng đến nhà riêng để khiếu nại, ảnh hưởng đến công tác, sinh hoạt bình thường của cán bộ. 5. Thời gian tiếp công dân. Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết ngày, giờ tiếp, nội quy tiếp công dân; đồng thời phải niêm yết quy trình, hướng dẫn công dân khiếu nại, tố cáo theo thủ tục của pháp luật hoặc theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để mọi người biết và thực hiện. Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải được ghi vào sổ tiếp công dân và được lưu trữ tại nơi tiếp công dân. Theo Điều 76 của Luật khiếu nại, tố cáo 1998, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân theo quy định sau đây: + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, mỗi tuần ít nhất một ngày. + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, mỗi tháng ít nhất hai ngày. + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, mỗi tháng ít nhất một ngày. + Thủ trưởng các cơ quan khác của Nhà nước, mỗi tháng ít nhất một ngày. Thanh tra nhà nước các cấp, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tổ chức tiếp công dân thường xuyên theo quy định của pháp luật. 6. Trách nhiệm của người tiếp dân. Theo Điều 77 Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 thì người tiếp công dân có trách nhiệm: + Tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo; + Hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; + Giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo khi người tố cáo yêu cầu. Người tiếp công dân phải có sổ để ghi chép, theo dõi việc tiếp công dân; yêu cầu công dân đến khiếu nại, tố cáo xuất trình giấy tờ tùy thân, trình bày trung thực sự việc, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp có nhiều người đến khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung thì yêu cầu họ cử đại diện trực tiếp trình bày nội dung sự việc. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo tại nơi tiếp công dân được tiến hành như sau: + Đối với đơn khiếu nại thì xử lý theo quy định tại Điều 6 Nghị định 136/2006/NĐCP; trong trường hợp công dân đến khiếu nại trực tiếp mà vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì người tiếp công dân hướng dẫn họ viết thành đơn hoặc ghi lại nội dung khiếu nại và yêu cầu công dân ký tên hoặc điểm chỉ; nếu vụ việc khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì hướng dẫn công dân khiếu nại đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết. + Đối với tố cáo thì người tiếp công dân phải tiếp nhận, phân loại và xử lý theo quy định tại các Điều 38, 39 và Điều 40 Nghị định 136/2006/NĐCP. 7. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại tố cáo tại nơi tiếp công dân.
- Theo Điều 14Nghị định 89:Khi đến nơi tiếp công dân, công dân có quyền + Được hướng dẫn, giải thích, trả lời về những nội dung mình trình bày. + Được quyền khiếu nại, tố cáo với thủ trưởng trực tiếp của người tiếp công dân nếu họ có những việc làm sai trái, gây cản trở, phiền hà, sách nhiễu trong khi làm nhiệm vụ. + Đối với trường hợp tố cáo, được yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ người tố cáo. Theo Điều 14Nghị định 89: Khi đến nơi tiếp công dân, công dân có nghĩa vụ + Phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân như chứng minh thư nhân dân; giấy mời, nếu công dân không trực tiếp đến thì có thể uỷ quyền cho một trong số thân nhân là cha, mẹ, vợ, chồng, con hoặc anh, chị, em ruột, những người này phải có giấy uỷ quyền, có chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền. + Phải nghiêm chỉnh tuân thủ nội qui nơi tiếp công dân và sự hướng dẫn của cán bộ tiếp công dân. + Trình bày trung thực sự việc, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo của mình khi có yêu cầu. + Ký xác nhận những nội dung đã trình bày. + Trường hợp có nhiều người đến nơi tiếp công dân để khiếu nại, tố cáo cùng một nội dung phải cử đại diện để trình bày với cán bộ tiếp công dân. 8. Những hành vi nghiêm cấm tại nơi tiếp công dân. Theo Điều 79 của Luật khiếu nại, tố cáo: + Nghiêm cấm việc cản trở, gây phiền hà, sách nhiễu đối với công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. + Nghiêm cấm việc gây rối trật tự ở nơi tiếp công dân, vu cáo, xúc phạm uy tín, danh dự của cơ quan nhà nước, người thi hành nhiệm vụ, công vụ. Công dân không được lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối trật tự ở nơi tiếp công dân, vụ cáo, xúc phạm cơ quan Nhà nước, người thi hành công vụ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung khiếu nại, tố cáo của mình. Nghị định 136/2006/NĐCP còn quy định rõ đối với những người đến khiếu nại, tố cáo có hành vi gây rối, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự công cộng, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, của cá nhân có trách nhiệm hoặc có hành vi khác vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo thì Thủ trưởng cơ quan nhà nước, người phụ trách trụ sở tiếp công dân yêu cầu cơ quan Công an phụ trách địa bàn có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Thủ trưởng cơ quan Công an trong việc bảo đảm trật tự, an toàn nơi tiếp công dân. Ủy ban nhân dân cấp xã, Công an tại các địa phương có trách nhiệm bảo vệ an toàn trụ sở tiếp công dân của các cơ quan trên địa bàn mình quản lý; trong trường hợp cần thiết thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với những người lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo có hành vi vi phạm pháp luật tại nơi tiếp công dân. Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ trật tự, an toàn cho trụ sở tiếp công dân, xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật ở nơi tiếp công dân. III. Ý nghĩa của công tác tiếp dân Tiếp công dân là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua đó phát huy quyền dân
- chủ của nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước, thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân: người tiếp công dân với tư cách là đại diện cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của người dân, do đó cần phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân. Đồng thời, như vậy mới bảo đảm từ phía Nhà nước trong việc thực hiện đầy đủ các thủ tục tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, từ đó có cơ sở để xác định trách nhiệm của người tiếp công dân theo đúng quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Thông qua việc tiếp dân sẽ tập hợp những vấn đề bức xúc, vướng mắc của nhân dân kịp thời tìm giải pháp thích hợp giúp người dân tháo gỡ những mâu thuẫn, vướng mắc, hạn chế phát sinh thành khiếu kiện. Bên cạnh đó, nếu tiếp công dân theo định kỳ không những giải quyết được những thắc mắc, khiếu kiện của người dân, từ đó người đứng đầu nắm bắt được mà kịp thời sửa chữa tránh sai sót lớn không đáng có xảy ra. Đồng thời, qua đó tìm hiểu được những nguyên nhân của vướng mắc mà có biện pháp, khắc phục tháo gỡ, nhất là nắm bắt được những việc làm sai trái, tham mưu không đúng quy định và sách nhiễu, tham nhũng của cán bộ dưới quyền. Bên cạnh đó, qua việc tiếp công dân người đứng đầu địa phương, đơn vị, nhất là người đứng đầu chính quyền các cấp có cơ hội gần dân, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân mà nắm bắt được những tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân mà có cách nhìn nhận tổng thể, khách quan trong việc giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tếxã hội, an ninhquốc phòng . và quan trọng hơn nữa là từ đó mà hoạch định được những kế hoạch, chiến lược điều hành, quản lý xã hội một cách đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đơn vị mình. PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIẾP DÂN TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐÔNG HÒA I. Một vài nét khái quát về Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. 1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. a. Về điều kiện tự nhiên Đông Hòa là xã nằm phía nam của Huyện Dĩ An, là xã nằm trong vùng trọng điểm của huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương có diện tích tự nhiện 1.024,8 ha, có 5.780 hộ với 20.121 nhân khẩu, cơ cấu hành chính của xã chia thành 7 ấp với 107 tổ nhân dân tự quản. Có 2 đường Quốc lộ 1K và quốc lộ 1A đi qua, là địa phương tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh trên địa bàn có Đại học Quốc gia, có nhiều lợi thế về phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ, mở ra nhiều cơ hội giải quyết việc làm, cải thiện nâng cao đời sống của nhân dân. b. Về kinh tế văn hóa – xã hội – quốc phòng an ninh Có nhiều điều kiện thuận lợi cơ bản để địa phương tiếp tục đẩy nhanh việc phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những khó khăn như : tốc độ công nghiệp hóa đô thị hóa tăng nhanh, trong khi trình độ lãnh đạo, quản lý và kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển. Tình trạng lao động nhập cư ngày càng tăng (chiếm trên 45% dân số), do vậy tình hình an ninh chính trị trật tự xã hội diễn biến rất phức tạp, đòi hỏi địa phương phải có tầm nhìn chiến lược và những giải pháp linh hoạt để lãnh đạo, quản lý hành chính Nhà nước. Thực hiện nghị quyết của Đảng bộ và Hội đồng nhân dân, toàn Đảng bộ và nhân dân trong
- huyện đã phấn đấu đạt kết quả các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế, văn hoá xã hội và quốc phòng an ninh đáng khích lệ như sau : + Về kinh tế: có nhiều mặt chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đúng định hướng là công nghiệp tiểu thủ công nghiệp thương mại dịch vụ và nông nghiệp, trong 6 tháng đầu năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp tăng, thương mại dịch vụ tăng 31,9%. Thu ngân sách được 4.045.343.435 đồng, đạt 41,43 % so với huyện giao và 25,97 % so với HĐND xã thông qua. (Thu ngân sách năm 2009 trên 7,5 tỷ đồng). + Trên lĩnh vực văn hoá xã hội có sự phát triển và đạt kết quả khá tốt. Công tác xã hội hoá trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, thể dục thể thao . được nhân dân tích cực hưởng ứng và nhiệt tình tham gia. Hàng năm tỷ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi đến trường đều đạt từ 95 100%; năm học 2009 2010 có 95 lớp với 3.622 học sinh, 202 giáo viên và công nhân viên của các trường đóng trên địa bàn xã. Vận động trẻ trong độ tuổi ra lớp 331/331 em, đạt 100%; tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học ở bậc tiểu học và trung học cơ sở ngày càng giảm. Cùng với giáo dục, về y tế việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, công tác phòng chống dịch bệnh ngày càng được nâng cao. Các chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo, lao động việc làm được thực hiện khá tốt, hiện nay toàn xã chỉ có 61 hộ nghèo/214 nhân khẩu (theo tiêu chí của tỉnh giai đoạn 2009 2010 là 600.000đ/người/tháng) chiếm 1,14 % so với tổng số hộ dân toàn xã. + Về quốc phòng an ninh: duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ an toàn các mục tiêu quan trọng trên địa bàn. Kịp thời tổ chức triển khai nghị quyết, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng địa phương hàng năm. Phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, rất nhiều gương điển hình về bắt trộm, cướp; mạng lưới tổ tự quản được củng cố và phát huy nâng dần chất lượng hoạt động góp phần cùng công an tại địa bàn tấn công truy quét các loại tội phạm và bài trừ các tệ nạn xã hội. Hoàn thành công tác gọi công dân nhập ngũ hàng năm. Luôn chú trọng công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, huấn luyện lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ đạt yêu cầu trên giao. 2. Cơ cấu tổ chức hoạt động của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. Với số dân trên 20.000 người, tính đến tháng 07/2010, toàn xã hiện có 45 cán bộ, trong đó công chức là 11 người, cán bộ chuyên trách là 11 và không chuyên trách là 23 người, ngoài ra còn có 5 nhân viên hợp đồng. Cán bộ công chức của xã ngày càng được trẻ hóa, trình độ ngày càng được nâng cao +Trình độ học vấn: cấp III: 42 đ/c, cấp II: 3đ/c +Trình độ chuyên môn: hiện có 6 đ/c có trình độ đại học, còn lại là sơ cấp và trung cấp, Hầu hết cán bộ xã luôn nhiệt tình, tận tụy trong công việc, luôn có ý thức học tập nâng cao trình độ bản than để đáp ứng nhu cầu công việc. Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa là một trong 7 xã, thị trấn thuộc huyện Dĩ An. Chấp hành sự chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước cấp trên, sự lãnh đạo của Đảng ủy, sự giám sát của Hội đồng nhân dân xã; phối hợp chặc chẽ giữa Ủy ban nhân dân xã với Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể nhân dân cùng cấp trong quá trình triển khai thực hiện mọi nhiệm vụ Bộ máy hoạt động của xã gồm có: một đồng chí Bí thư Đảng ủy, một đồng chí Phó Bí thư thường trực Đảng ủy, một đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân (phó Bí thư Đảng ủy), hai đồng chí phó chủ tịch ủy ban nhân dân. Ủy ban nhân dân xã làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân và tinh thần chủ động, sáng tạo của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Thành viên Ủy ban nhân dân. Mỗi việc chỉ được giao một người
- phụ trách và chịu trách nhiệm chính. Mỗi thành viên Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực được phân công. 3. Khái quát về phòng tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. Được sự quan tâm của Đảng ủy, HĐND, UBND xã, đầu năm 2008, Ủy ban nhân dân xã đã xây dựng mới phòng tiếp dân xã Đông Hòa.Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa bố trí phòng tiếp công dân thuận tiện, vị trí thuận lợi để người dân dễ dàng đến trình bày những bức xúc, thắc mắc của mình. Phòng tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã có trang bị bàn ghế đầy đủ để khi người dân đến sẽ đảm bảo chỗ ngồi thuận tiện. Bên cạnh đó, phòng tiếp dân còn trang bị nước uống cho người dân, luôn đảm bảo các điều kiện để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh. Trước phòng tiếp công dân có niêm yết cụ thể lịch tiếp dân của Bí thư, phó bí thư, và chủ tịch ủy ban nhân dân xã. Lịch tiếp dân được niêm yết công khai tại UBND xã vào các ngày thứ hai, thứ tư và thứ sáu, do Bí thư Đảng ủy xã, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch UBND trực tiếp tiếp dân cùng cán bộ chuyên trách, các ngày còn lại bố trí cán bộ chuyên trách đảm nhiệm Cán bộ tiếp dân luôn nhiệt tình với công việc, nhanh chóng và kịp thời giải quyết những đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân. II. Thực trạng công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa năm 2008, năm 2009 và trong 6 tháng đầu năm 2010. 1. Quy trình tiếp dân. Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa đã xây dựng quy chế về trình tự tiếp công dân, tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng nội quy tiếp công dân phù hợp với chức năng, nhiệm vụ thẩm quyền quản lý. Việc tiếp dân của xã do các đồng chí lãnh đạo Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cán bộ tiếp dân phụ trách. Văn phòng Ủy ban nhân dân xã bố trí phòng tiếp công dân để các đồng chí lãnh đạo Đảng, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tiếp công dân theo quy định. Mọi ý kiến phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân đều được xem xét tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp công dân. Mọi thắc mắc đều được các cấp lãnh đạo giải quyết kịp thời hoặc hướng dẫn công dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mọi ý kiến phản ánh, khiếu nại, thuộc thẩm quyền thì được cán bộ tiếp dân hướng dẫn người viết thành đơn và điểm chỉ, những khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết thì được hướng dẫn đến cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết. Chủ tịch UBND, Bí thư Đảng ủy, HĐND xã có trách nhiệm tiếp công dân mỗi tuần 02 ngày (thứ 3, thứ 5) và khi có yêu cầu khẩn thiết phải tiếp và giải quyết ngay những khiếu nại, tố cáo của công dân. Quy trình tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa cụ thể như sau: + Bước 1: UBND xã tổ chức và quản lý điểm tiếp công dân riêng. Nơi tiếp công dân được đặt tại văn phòng HĐND – UBND xã nhằm tạo điều kiện để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh dễ dàng thuận lợi. Sau khi cá nhân, bộ phận chuyên môn xác minh đầy đủ chứng cứ, tài liệu thì Chủ tịch UBND xã sẽ chủ trì mọi cuộc họp giải quyết tranh chấp. + Bước 2: Đối với những khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng cụ thể có cơ sở giải quyết, khi tiếp công dân của Đảng ủy – HĐND – UBND xã sẽ trả lời ngay cho
- công dân biết; việc nào phức tạp cần phải nghiên cứu, xem xét thì nói rõ với người khiếu nại, tố cáo biết về thời gian, cơ quan hoặc người cần liên hệ trực tiếp để được giải quyết. + Bước 3: Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. [IMG]file:///C:/Users/BKC/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image001.gif[/IMG] 2. Thực trạng công tác tiếp dân của Ùy ban nhân dân xã Đông Hòa Tình hình và quản lý chỉ đạo: Công tác tiếp dân luôn được Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã quan tâm, xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên của địa phương, là cơ sở để nắm rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân, vừa tiếp nhận những ý kiến đóng góp về tất cả các lĩnh vực hoạt động nhằm xây dựng chính quyền cơ sở, đồng thời tiếp nhận các đơn thư khiếu nại tố cáo và kịp thời giải quyết, không để kéo dài và tạo thành điểm nóng. ˉ Công tác tiếp dân trong năm 2008: Trong năm 2008 Uỷ ban nhân dân xã Đông Hòa đã tiếp nhận 43 lượt công dân đến đóng góp ý kiến, phản ánh và trình bày tâm tư nguyện vọng. Qua tiếp xúc với nhân dân, những vụ việc chủ yếu là những mâu thuẫn xuất phát từ tranh chấp đất đai, việc áp giá đền bù cấp tái định cư trong các dự án quy hoạch trên địa bàn, hôn nhân gia đình, về ô nhiễm môi trường . Trong quá trình tiếp công dân, cán bộ tiếp dân luôn ghi đầy đủ vào sổ, những đơn thư khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân xã thì tiếp nhận và chuyển đến bộ phận có trách nhiệm để giải quyết. Những đơn thư khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân xã thì hướng dẫn, giải thích nhân dân gửi đúng đến cơ quan chức năng có thẩm quyền để giải quyết. Qua công tác tiếp dân đã tiếp nhận 53 lượt công dân. Trong đó tiếp dân về việc: + Tranh chấp đất đai: 22 vụ + Tranh chấp lối đi: 02 vụ + Xin ly hôn: 11 vụ + Về môi trường: 06 vụ + Nợ tiền: 05 vụ + Về các lĩnh vực khác: 07 vụ Kết quả giải quyết: + Hoà giải thành công: 26 vụ, đạt tỷ lệ: 49,1% + Hoà giải không thành: 17 vụ, đạt tỷ lệ: 32,1% + Chuyển huyện: 10 vụ, đạt tỷ lệ: 18,8%
- [IMG]file:///C:/Users/BKC/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image003.gif[/IMG] Do các thành viên của tổ hòa giải có kinh nghiệm, đặc biệt là cán bộ tiếp dân luôn nhiệt tình trong công việc, nên giải quyết thành công nhiều vụ, nhất là lĩnh vực hôn nhân gia đình, tranh chấp lối đi Đối với những vụ việc không thuộc thẩm quyền, hoặc những vụ việc hòa giải lần thứ hai không thành công thì được chuyển lên cấp trên thụ lý giải quyết. ˉ Công tác tiếp dân trong năm 2009: Trong năm 2009, phòng tiếp dân đã tiếp 59 lượt công dân đến thắc mắc, khiếu nại. Trong đó tiếp dân về việc: Tranh chấp đất đai: 09 vụ Xin ly hôn: 12 vụ Tranh chấp lối đi: 03 vụ Nợ tiền: 08 vụ Đòi bồi thường giải toả: 10 vụ Các lĩnh vực khác: 17 vụ * Kết quả giải quyết: Hoà giải thành: 26 vụ, đạt tỷ lệ: 44% Hoà giải không thành: 27 vụ, đạt tỷ lệ: 46% Chuyển huyện: 05 vụ, đạt tỷ lệ: 0,08% Tồn đọng: 01 vụ, đạt tỷ lệ :0,02% Có 5 vụ do vượt quá thẩm quyền nên UBND xã đã chuyển lên huyện giải quyết, 01 trường hợp tồn đọng do chưa đủ hồ sơ giải quyết. ˉCông tác tiếp dân trong 6 tháng đầu năm 2010: Phòng tiếp dân của xã đã tiếp nhận tổng cộng 18 đơn thư khiếu nại (01 đơn năm 2009 chuyển sang). Trong đó tiếp dân về việc: + Tranh chấp đất đai: 06 vụ + Xin ly hôn: 05 vụ + Nợ tiền: 02 vụ
- + Tranh chấp khác: 05 vụ Kết quả giải quyết: + Hoà giải thành: 05 vụ, đạt tỷ lệ: 27,8% + Hoà giải không thành: 07 vụ, đạt tỷ lệ: 40 % + Chuyển huyện: 03 vụ, đạt tỷ lệ: 16, 6% + Đang giải quyết: 03 vụ, đạt tỷ lệ: 16,6% Đối với những vụ việc có đủ cơ sở và thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND xã thì được xem xét giải quyết tại UBND xã. Những vụ việc vượt quá thẩm quyền giải quyết của UBND xã thì được chuyểnn lên huyện. Công tác tiếp dân năm 2008 có chiều hướng gia tăng so với cùng kỳ năm 2007 là 08 lượt (năm 2007 là 37 lượt), những vụ việc xảy ra chủ yếu là tranh chấp về lĩnh vực đất đai (tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp ranh đất, ), hôn nhân gia đình, nợ tiền Nguyên nhân do các dự án quy hoạch được thực hiện, đất đai ngày càng thu hẹp, bên cạnh đó, công ty xí nghiệp hình thành nhiều, các khu đất còn trống được người dân sử dụng xây dựng nhà trọ, kiốt cho thuê, đời sống của một số hộ dân được nâng lên, mâu thuẫn ngày càng phát sinh, do đó công tác tiếp dân gặp nhiều khó khăn. Công tác tiếp dân trong năm 2009 gia tăng hơn năm 2008, những vụ việc xảy ra vẫn chủ yếu là tranh chấp về lĩnh vực đất đai (tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp ranh đất, tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp lối đi ), đòi tiền bồi thường, hôn nhân gia đình, nợ tiền Nguyên nhân chủ yếu của tranh chấp về lĩnh vực đất đai là do giá đất ngày càng tăng, các dự án quy hoạch chưa thực hiện xong việc áp giá đền bù và cấp tái định cư nên người dân còn khiếu kiện nhiều lần. Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm 2010 công tác tiếp dân có giảm so với cùng kỳ năm trước. Do được giải đáp thỏa đáng nên những đơn thư khiếu nại về đền bù đất đai nhìn chung trong 6 tháng đầu năm hầu như chưa xảy ra, tranh chấp trong lĩnh vực đất đai chủ yếu là tranh chấp lối đi, ranh đất 3. Nhận xét về thực trạng công tác tiếp dân của Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa Nhìn chung, trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội phát triển, các dự án quy hoạch được thực hiện, cơ sở hạ tầng được hình thành, lượng dân nhập cư ngày càng cao đã kéo theo những vấn đề bức xúc: tranh chấp quyền sử dụng đất, ô nhiễm môi trường, ly hôn, đặc biệt là công tác áp giá giải tỏa đền bù. Do đó, công tác tiếp dân có chiều hướng gia tăng về số lượng đơn thư và nội dung ngày càng đa dạng nhưng tập trung chủ yếu về lĩnh vực đất đai và hôn nhân gia đình. Trên địa bàn hiện có 3 dự án quy hoạch lớn, với giá cả đất đai ngày càng tăng cao, mặc khác lối sống đạo đức của một bộ người dân ngày càng giảm, tình làng nghĩa xóm không được duy trì, vốn kiến thức về pháp luật của người dân không nhiều, vì vậy mâu thuẫn trong nhân dân ngày càng gia tăng nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai. Bên cạnh đó, lượng dân nhập cư ngày càng nhiều, chủ yếu là lực lượng lao động trẻ năng động, có điều kiện về kinh tế, văn hóa xã hội phát triển, trường hợp kết hôn ngày càng nhiều, tuy nhiên tình trạng ly hôn cũng ngày càng gia tăng. Qua tình hình nêu trên đã rút ra được một số ưu khuyết điểm sau: Ưu điểm: + Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân luôn đặc biệt quan tâm đến công tác tiếp
- công dân, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thông qua công tác tiếp dân để có cơ hội nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, từ đó có biện pháp giải quyết hợp tình hợp lý, tạo được niềm tin trong nhân dân. + Đảng ủy, Ủy ban nhân dân luôn thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, luôn có kế hoạch phân công, bố trí lãnh đạo tiếp công dân thường xuyên theo quy định của pháp luật, bố trí nơi tiếp công dân tại địa điểm thuận tiện, bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết, bố trí cán bộ tiếp công dân thường xuyên, có phẩm chất tốt, có ý thức trách nhiệm cao. + Cán bộ công chức luôn có thái độ ôn hòa, nhã nhặn, thân thiện với quần chúng nhân dân, nhiệt tình trong công việc. Cán bộ làm nhiệm vụ tiếp công dân có tinh thần trách nhiệm, thái độ hoà nhã, cởi mở và lắng nghe công dân trình bày tâm tư nguyện vọng, có phương pháp xử lý giải quyết các vấn đề của công dân có lý, có tình, đúng thẩm quyền tạo được niềm tin ở công dân, đảm bảo tình hình an ninh trật tự tại các địa điểm tiếp công dân. + Việc nhận đơn, xử lý, phân loại đơn có nhiều tiến bộ; cơ bản số đơn đã nhận được xử lý kịp thời; đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết được chuyển hoặc hướng dẫn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. + Chất lượng giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết được nâng lên; việc giải quyết nhìn chung đảm bảo về trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền và hình thức văn bản. + Công tác tuyên truyền thực hiện Luật của Nhà nước trong đó có Luật Khiếu nại, tố cáo được các ban, ngành đoàn thể duy trì thường xuyên và thực hiện có hiệu quả. + Trong việc nhận đơn, xử lý, phân loại đơn có nhiều tiến bộ, cơ bản những đơn đã nhận đều được xử lý kịp thời; những đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết được chuyển hoặc hướng dẫn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Những khó khăn hạn chế: bên cạnh những mặt đã làm được, công tác tiếp công dân, gắn với giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân còn những mặt khó khăn và hạn chế như sau: + Văn bản Luật thường xuyên được thay đổi bổ sung, sau đó còn chờ văn bản hướng dẫn của các cấp, mặt khác cán bộ chưa quan tâm nắm bắt kịp thời để phục vụ cho công tác chuyên môn, nên đôi lúc còn lúng túng trong việc giải thích với người dân, gây mất lòng tin trong nhân dân. + Đôi lúc công tác vận động, tuyên truyền giáo dục pháp luật nhất là luật khiếu nại, tố cáo chưa thật sự rộng rãi, công tác vận động quần chúng chưa đạt hiệu quả cao. + Cán bộ tiếp dân do được phân công, chưa có kỹ năng chuyên môn, chưa nhận thức đầy đủ vị trí ý nghĩa của công tác tiếp dân, khả năng giao tiếp hạn chế, chưa có phương pháp xử lý kịp thời những tình huống khó khăn trong công tác tiếp dân có thể xảy ra, ít nhiều có ảnh hưởng đến công tác tiếp dân ở địa phương. + Công tác quy hoạch áp giá đền bù còn chậm, một số hộ dân chưa đồng tình với giá tiền đền bù, hoặc chậm bàn giao tái định cư nên dẫn đến việc người dân khiếu nại nhiều lần. Bên cạnh đó, một số dự án quy hoạch “treo” đã lâu nhưng chưa thực hiện gây hoang mang cho người dân, ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh đã dẫn đến việc người dân bức xúc khiếu kiện. + Việc hướng dẫn nhân dân khiếu nại, tố cáo chưa rõ ràng dẫn tới việc nhân dân khiếu nại tố cáo chưa đúng thủ tục pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa kịp thời còn chậm nên dẫn tới nhân dân khiếu kiện vượt cấp. Người dân vẫn chưa chú trọng đến quy trình khiếu nại, tố cáo, không quan tâm đến những văn bản được niêm yết công khai tại Ủy ban
- nhân dân xã, nên chưa nắm rõ trình tự thủ tục, đôi lúc vẫn còn khiếu nại không đúng thẩm quyền, không đúng quy trình theo quy định. + Do cán bộ lãnh đạo kiêm nhiệm rất nhiều công việc nên bố trí, sắp xếp thời gian tiếp công dân không theo định kỳ và nhiều khi thay đổi ngày không thông báo và nói rõ lý do . Điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết những mâu thuẫn, khiếu nại của công dân. + Trong nhân dân, có một số phần tử xấu kích động người dân khiếu kiện về vấn đề quy hoạch đất khu chung cư, Đại học quốc gia TP. HCM dẫn đến một số hộ dân khiếu kiện nhiều lần ở ấp Đông B, ấp Tân Lập, ấp Tân Hòa, nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để và thích đáng. + Một số người dân do chưa nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình nên đôi lúc có những đòi hỏi vô lý, những khiếu kiện của họ đã được các cấp thẩm quyền giải quyết thấu đáo, đúng chính sách, chế độ nhưng vẫn cố tình đòi hỏi vô lý, có thái độ không đúng, gây mất trật tự xã hội và tại nơi tiếp công dân. + Đạo đức tốt đẹp dân tộc không được phát huy, một bộ phận người dân có lối sống xa hoa, ích kỷ, thích đạo đức dẫn đến xảy ra nhiều mâu thuẫn tranh chấp với nhau những vấn đề nhỏ. + Do diện tích đất chật hẹp nên phòng tiếp dân của xã sử dụng chung với nhiều phòng ban ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động của công tác tiếp dân. Phòng tiếp dân của xã chưa được trang bị đầy đủ các loại văn bản của Đảng và Nhà nước. + Cán bộ lãnh đạo xã chưa kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân, chưa quan tâm đúng mức đến việc thường xuyên đi xuống cơ sở. + Cán bộ của xã còn chưa thực hiện nghiêm Luật cán bộ công chức, làm việc cá nhân trong giờ hành chính, đi trễ, về sớm đã ít nhiều làm ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ đối với quần chúng nhân dân. + Chưa tổ chức thường xuyên các cuộc họp nhằm đánh giá công tác tiếp dân, chưa đánh giá đúng thực trạng công tác tiếp dân của xã, không đưa ra được phương hướng trực tiếp để nâng cao công tac tiếp dân. + Một số vụ việc tham nhũng quan liêu xử lý chưa làm người dân hài lòng, hình thức và mức phạt còn nhẹ so với mức độ vi phạm của cán bộ. Nguyên nhân của những ưu điểm: + Cán bộ lãnh đạo của địa phương luôn quan tâm đến ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tiếp dân, cán bộ tiếp dân có trách nhiệm và nhiệt tình trong công việc giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo và tranh chấp của nhân dân. + Lãnh đạo của địa phương luôn xem công tác tiếp công dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, kịp thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân và có hướng giải quyết nhằm thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân. + Địa phương luôn quan tâm đến công tác tiếp dân, có kế hoạch và thực hiện tốt việc trang bị đầy đủ cho phòng tiếp dân, thường xuyên tạo điều kiện cải thiện phòng tiếp dân của xã. Nguyên nhân của những hạn chế: + Việc tiếp công dân do cán bộ tiếp dân và lãnh đạo đơn vị trực tiêp tiếp công dân nên đôi lúc giải đáp đơn thư khiếu nại của người dân chưa được thỏa đáng, do kỹ năng giao tiếp hạn chế nên việc giao tiếp với người dân đôi lúc chưa làm người dân hài long. + Cán bộ tiếp dân do mới được phân công đảm nhận công tác nên chưa có chuyên môn về
- lĩnh vực tiếp dân, vốn kiến thức về các văn bản pháp luật chưa nhiều. + Công tác tuyên truyền pháp luật cho nhân dân chưa được sâu rộng và chưa có hiệu quả thiết thực, chưa có số lượng và chất lượng. Một bộ phận nhân dân chưa thật sự quan tâm đến đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. + Một số người dân có đơn khiếu nại, tố cáo mặc dù đã được cán bộ lãnh đạo và cán bộ tiếp dân giải quyết đúng trình tự, thủ tục, đúng pháp luật, quyết định hoặc kết luận giải quyết đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn cố tình không thực hiện, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo gây không ít khó khăn cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. + Công tác phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức Đảng, đoàn thể cùng cấp được duy trì thường xuyên từ khâu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến quá trình giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. PHẦN 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC TIẾP DÂN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ ĐÔNG HÒA I. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. Trước những thực trạng của Uỷ ban nhân dân xã Đông Hoà, tôi xin đưa ra giải pháp nhằm nâng cao công tác tiếp dân của UBND xã Đông Hoà cụ thể sau: 1. Giải pháp đối với Trung ương: Phải sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, tránh tình trạng chồng chéo giữa các văn bản với nhau, tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật; tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Nhất là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân sách, chính sách xã hội; thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ công dân nhằm tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, hài hoà, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế xã hội và hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo. Cải cách các thủ tục rờm rà, ví dụ như: có một Luật được ban hành nhưng vẫn chưa áp dụng thực hiện, phải chờ văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành chuyên môn từ Trung ương đến địa phương, gây ra lãng phí và mất nhiều thời gian. Cần có quy định cụ thể về tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp dân, chú trọng trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, đồng thời thường xuyên mở các lớp học chuyên môn về kỹ năng giao tiếp, ứng xử của cán bộ công chức. Cần đưa ra những chuẩn mực chung đối với cán bộ tiếp dân, nhất là cán bộ tiếp dân tại xã, có chế độ cho cán bộ tiếp dân ở cấp xã. Ban hành những quy định mới về áp giá đền bù, hỗ trợ tái định cư cho người dân theo mức giá cao hơn cho người dân. Cần có biện pháp xử lý đối với những dự án quy hoạch “treo”. Nhà nước phê duyệt một dự án nhưng thời gian thực hiện kéo dài, có dự án thậm chí kéo dài hơn 10 năm. Gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, đời sống sinh hoạt của người dân. Tiếp tục triển khai thực hiện nhiều cuộc vận động nhằm nâng cao đạo đức của người dân, nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân, phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc. 2. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. Nên phân công cán bộ tiếp dân có đủ năng lực và trình độ, nếu sau khi phân công thì phải tạo điều kiện cho cán bộ đi học tập chuyên môn, khuyến khích cán bộ tự học để nâng cao
- trình độ. Một số trường hợp người dân một phần do bị kích động, một phần do quá bức xúc nên có những lời nói thô lỗ, lớn tiếng, thái độ nóng nảy vì vậy người cán bộ nhất là cán bộ tiếp dân phải rèn cho mình lập trường kiên định vững vàng, thái độ ôn hòa, để có thể giải quyết được công việc một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, luôn nhắc nhở cán bộ rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhất là những cán bộ thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, cán bộ phải thường xuyên trao dồi đạo đức, rèn luyện cho mình tính ôn hòa, nhã nhặn, thái độ tiếp dân lịch sự, niềm nỡ. Cần nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tiếp dân. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đặc biệt là pháp luật về khiếu nại, tố cáo để mọi người biết và nghiêm chỉnh chấp hành. Qua đó góp phần chủ động phòng ngừa, hạn chế tình trạng khiếu kiện tràn lan, vượt cấp hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo gây ảnh hưởng xây đến tình hình kinh tế xã hội ở địa phương. Tuyên truyền bằng nhiều hình thức như: phát tờ rơi, lồng ghép các buổi họp dân, tiếp xúc cử tri, phối hợp lồng ghép trong các buổi sinh hoạt của các tổ chức chính trị xã hội, thông qua đài truyền thanh của xã, tổ chức hội thi tìm hiểu pháp luật, Không phải người dân nào cũng có trình độ, có nhận thức ngang nhau vì vậy cán bộ tiếp dân nên dùng những câu dễ hiểu, hướng dẫn nhân dân một cách chính xác, không nên dùng nhiều từ chuyên môn, hướng dẫn một cách cụ thể, không để nhân dân chán nản, mất lòng tin, phải giúp nhân dân tháo gỡ thắc mắc của mình một cách triệt để, nhanh chóng. Thực tế, khi nhân dân đến liên hệ cán bộ ở phòng này chỉ một cách, cán bộ phòng kia chỉ một cách, làm người dân phải đi lòng vòng, mất thời gian mà chưa giải quyết được vấn đề. Vì vậy, cán bộ cần phải có kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, có tâm trong công việc, hướng dẫn nhân dân một cách nhiệt tình và chính xác. Những thủ tục hành chính, các văn bản mới được niêm yết tại xã phải được đặt ở vị trí thuận lợi hơn, nơi người dân dễ dàng nhìn thấy, dễ đọc, dễ tìm kiếm. Thường xuyên niêm yết các văn bản mới để người dân nắm bắt thông tin kịp thời. Nên lồng ghép tuyên truyền các văn bản mới của Nhà nước trong các buổi họp dân. Cán bộ lãnh đạo phải sắp xếp công việc một cách khoa học, thực hiện tốt công tác tiếp dân theo định kỳ, không được vắng trong các buổi tiếp dân. Với những trường hợp nhân dân khiếu kiện do bị kích động phải nhanh chóng tìm ra người kích động và phải có biện pháp xử lý thích đáng đối với những phần tử xấu lợi dụng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để kích động, gây hoang mang, mất lòng tin trong nhân dân. Tiếp tục tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, hiểu rõ các chế độ chính sách để nhân dân đồng tình hưởng ứng, không khiếu kiện đòi hỏi vô lý. Đầu tư xây dựng một phòng tiếp dân rộng rãi hơn, thoáng mát hơn, có trang bị tủ sách, các văn bản của Đảng và của Nhà nước để nâng cao hoạt động tiếp dân tại địa phương. Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi xuống ấp, nên đi thường xuyên, không những trong giờ làm việc mà kể cả ngoài giờ làm việc, nên sắp xếp lịch đi cơ sở cụ thể hàng tuần, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nên thường xuyên tham dự các buổi tiếp xúc cử tri, các buổi họp dân. Có như vậy mới kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của người dân, những vấn đề nóng phát sinh, nắm chắc tình hình, lãnh đạo chỉ đạo giải quyết kịp thời ngay từ khu dân cư các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong nội bộ nhân dân và có biện pháp xử lý kịp thời.
- Tác phong làm việc của cán bộ công chức vẫn chưa đạt yêu cầu như: còn đi làm trễ, về sớm, cách ăn mặc không hợp với cơ quan, một số cán bộ có lối sống xa hoa, lãng phí, đã ít nhiều làm cho nhân dân bức xúc, không đồng tình. Vì vậy cần phải thực hiện nghiêm Luật Cán bộ công chức, quy chế làm việc của Ủy ban nhân dân, nội quy cơ quan. Bên cạnh đó, cần phải thường xuyên kiểm tra công việc của cán bộ công chức, tiếp thu ý kiến của nhân dân đóng góp cho cán bộ công chức để kịp thời chấn chỉnh lại tác phong của cán bộ công chức. Luôn nhắc nhở cán bộ công chức phải có tâm với nhân dân, phải thường xuyên tiếp thu ý kiến của quần chúng nhân dân để kịp thời khắc phục sửa đổi. Luôn giúp đỡ nhân dân nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân đến liên hệ. Phải họp đánh giá tình hình công tác tiếp dân, đánh giá rút kinh nghiệm, có báo cáo chuyên đề về giải quyết khiếu nại, tố cáo, đề từ đó có cơ sở đề ra phương hướng trọng tâm để thực hiện tốt công tác tiếp dân của địa phương, nhằm làm cho nhân dân tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phải xử lý thật nghiêm minh đối với những cán bộ tham nhũng quan liêu, có như vậy mới không làm mất lòng tin ở nhân dân. II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa. Trên cơ sở thực trạng và giải pháp vừa nêu trên, tôi xin đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao công tác tiếp dân của ủy ban nhân dân xã Đông Hòa như sau: Thứ nhất, các cấp chính quyền cần phải sớm có văn bản cụ thể đối với những dự án quy hoạch “treo”, không để tình trạng quy hoạch “treo” kéo dài, có văn bản đối với việc áp giá đền bù không làm cho người dân bị thiệt hại sau khi quy hoạch, có chính sách tái định cư hợp lý, phải làm sao cho người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi quy hoạch. Trước khi phê duyệt dự án quy hoạch nên có cuộc khảo sát ý kiến người dân, xem xét khả năng tài chính thực tế của đơn vị đầu tư quy hoạch, nếu dự án quy hoạch lâu không thực hiện được phải có văn bản xóa bỏ dự án để nhân dân tiếp tục sản xuất và sinh sống. Thứ hai, đa số các vụ tiêu cực là do quần chúng nhân dân phát hiện, vì vậy cần đẩy mạnh công tác kiểm tra nhiệm vụ của cán bộ công chức nhất là trong lĩnh vực tiếp công dân. Phải có biện pháp xử lý nghiêm đối với cán bộ công chức có thái độ hách dịch, không có trách nhiệm trong công việc, vi phạm Luật và quy định của pháp luật, đặc biệt là Luật cán bộ công chức. Thứ ba, thủ tục hành chính cần phải được đơn giản hơn nữa, có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác tiếp dân để người dân có thể vào mạng internet để xem thông tin về đơn thư của mình đã được giải quyết đến đâu, người dân không phải trực tiếp đi đến Ủy ban nhiều lần. Thứ tư, cán bộ tiếp dân phải được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tiếp dân phải là người am hiểu pháp luật, có kỹ năng giao tiếp, có bản lĩnh chính trị. Cần mở lớp đào tạo chuyên về kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho cán bộ công chức, các buổi học tập về tâm lý để cán bộ tiếp dân thực hiện tốt công việc của mình, góp phần giải quyết bức xúc của người dân thỏa đáng, kịp thời, giữ vững được niềm tin của nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. PHẦN KẾT LUẬN
- Tiếp công dân là công tác rất quan trọng, do đó trong quá trình tiếp công dân, ngoài việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tiếp công dân, thực hiện đúng các quy trình nghiệp vụ tiếp công dân, cán bộ tiếp dân còn phải lưu ý đến một số vấn đề liên quan đến tâm lý người đi kiếu nại, tố cáo; liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân . Tiếp công dân là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dân với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua đó phát huy quyền dân chủ của nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước, thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy cần phải xem người dân như khách quý, phải đón tiếp chân thành và niềm nở. Thông qua công tác tiếp dân, sẽ hiểu được tâm tư, nguyện vọng và những vấn đề bức xúc của công dân mà các cơ quan chức năng giải quyết chưa thỏa đáng; hướng dẫn công dân thực hiện đúng quyền khiếu nại, tố cáo của mình, đồng thời kiến nghị các cơ quan hữu quan giải quyết đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật. Công tác tiếp công dân là công tác hết sức phức tạp, do đó cần có sự lãnh, chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của Đảng, chính quyền các cấp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị tham gia thì sẽ đạt hiệu quả cao. Công tác tiếp dân sẽ phát huy hiệu quả khi lãnh đạo sâu sát, có tâm, có tầm, có trách nhiệm,dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Và trên hết việc tiếp dân phải dựa trên cơ sở những chủ trương, quy định mang tính xuyên suốt và cơ bản của nhà nước cấp trung ương và địa phương, không làm cho dân lo, dân sợ và cũng tránh xuê xoa, tuỳ tiện trong giải quyết các vướng mắc, tồn đọng, làm ảnh hưởng đến việc triển khai các chủ trương, chính sách chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Hiến pháp năm 1992 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi bổ sung năm 2004 – 2005) 3 Nghị định 136/2006/NĐ – CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ về hướng dẫn chi tiết việc thực hiện luật khiếu nại, tố cáo. 4 Nghị định 89/1997/NĐ – CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ về ban hành Quy chế tổ chức tiếp công dân. 5 Quyết định 858/ QĐTTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án đổi mới công tác tiếp công dân. 6 Quyết định số 42 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương về ban hành Quy chế tổ chức tiếp công dân. 7 Quy chế hoạt động của UBND xã Đông Hòa. 8 Quy chế hoạt động của phòng tiếp dân của UBND xã Đông Hòa. 9 Báo cáo của UBND xã Đông Hòa năm 2008, 2009, 6 tháng đầu năm 2010. 10 Giáo trình trung cấp lý luận chính trị. 11 Tài liệu mạng. 12 Một số sách báo, tài liệu tham khảo khác có liên quan. Nguồn: http://www.kilobooks.com/threads/211318CôngtáctiếpdântạiUBNDxãĐôngHòa Thựctrạngvàgiảipháp?s=31b6889a9e5dccf90323453b06bc0223#ixzz24cVpkEzo Thư Viện Điện Tử www.KILOBOOKS.com
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"
53 p | 1722 | 225
-
Tiểu luận : " Thực trạng và giải pháp cho hoạt động xuất khẩu giầy dép của công ty giầy Thuỵ Khuê "
52 p | 617 | 217
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
42 p | 946 | 187
-
TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty Intimex
35 p | 793 | 168
-
Tiểu luận “Thực trạng và giải pháp phát triển các loại thị trường”
22 p | 535 | 127
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
11 p | 404 | 106
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
39 p | 1004 | 104
-
TIỂU LUẬN:Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác quản lí nhà nước về đất đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội.Lời nói đầuĐất đai là tài nguyên quí giá của mỗi quốc gia là điều kiện tồn tại và phát triển của con người, các sinh vật khác trên trá
72 p | 406 | 98
-
Bài tiểu luận: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác bảo hộ lao động trong ngành xây dựng
26 p | 628 | 90
-
Tiểu luận Thực trạng và giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nước ngoài
33 p | 220 | 89
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp vấn đề lạm thu, thất thu thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
23 p | 403 | 88
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp ngăn chặn buôn lậu và gian lận thương mại ở thành phố Hà Nội
9 p | 512 | 79
-
Tiểu luận:THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Ở ĐHQG-HCM
22 p | 275 | 48
-
Tiểu luận - Thưc trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
46 p | 210 | 48
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước
36 p | 161 | 23
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp trong quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác tại Công ty TNHH một thành viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc
23 p | 154 | 13
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp phát triển cho vay doanh nghiệp
14 p | 119 | 12
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn Chi nhánh TP.HCM
7 p | 122 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn