intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc

Chia sẻ: Nguyễn RLer | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:34

1.538
lượt xem
134
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tình hình thực tiễn về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc hiện nay, ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Để nắm vững nội dung chi tiết mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II  TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ­­­­­­­­­***­­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ  GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA  TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC Nhóm 14_ lớp K54E MSSV 1) Phạm Huỳnh Kim Ngân 1501015342 2) Nguyễn Thành Lộc 1501015283 3) Nguyễn Hồng Tâm 1501015480 4) Huỳnh Thị Thúy Ngân 1501015334 5) Bùi Ngọc Thành 1501015491 6) Nguyễn Văn Thành 1501015494 7) Trần Thị Kim Ngân 1501015344
  2. 8) Lê Hà My 1501015312
  3. MỤC LỤC I.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT   HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC                                                                            ........................................................................      2 1.1.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa...........................2 1.1.3.Quan điểm của Hồ Chi1 Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa...................4 1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.........6 1.2.1.Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc...................................................................6 2.Các yếu tố tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền   thống dân tộc hiện nay                                                                                              ..........................................................................................       16 2.1.Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá khứ...................................16 Từ trước đến nay, nước ta được biết đến như là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời. Một dân tộc có kỉ cương, văn hóa, phong tục độc lập, khác biệt với nước láng giềng phương Bắc. Mặc dù chúng ta đã từng dùng chung một thứ chữ vuông với họ nhưng văn chương của chúng ta vẫn là văn chương của người dân Đại Việt, thấm đẫm tinh thần dân tộc và bản sắc văn hóa rất riêng. Việc sáng chế ra chữ Nôm, sáng tác văn học bằng chữ Nôm (song song với chữ Hán) thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ về việc giữ gìn bản sắc văn hoá Việt. Theo các công trình nghiên cứu, văn hóa Việt Nam có nguồn gốc khu vực Đông Nam Á, hơn nữa nhiều hình tượng trong văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc vay mượn từ người Việt. Văn hóa Trung Quốc giống như Ấn Độ, phương Tây chỉ là sự giao thoa của các luồng văn hóa, khi gặp nhau ở Việt Nam đã bồi tụ phù sa, nhưng chất đất bản địa ngàn năm vẫn không bị biến đổi. ...............................................16 Có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam không có bản sắc văn hóa, văn hóa Việt Nam chỉ là một nhánh nhỏ của nền văn hóa Trung Hoa, điểm khác nhau là ở trình độ. Thêm vào đó văn hóa Việt Nam không có tính ổn định bền vững mà liên tục biến đổi. Vì thế, trong khi rất nhiều cái mới du nhập, chắc chắn việc giữ vững bản sắc sẽ xảy ra sự lung lay không ít. Ví dụ khi văn hoá các nước phương Tây tràn qua những năm giữa thế kỉ 19. Lúc ấy, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã tổng kết trong sách “Thi nhân Việt Nam”: “Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giày tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp… còn gì nữa! Nói làm sao cho xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước. Nào dầu tây, diêm tây, nào vải tây, chỉ tây, kim tây, đinh tây” (Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.10)............................17 Lịch sử hình thành và phát triển truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam cũng là lịch sử hình thành và phát triển lối sống của người Việt Nam. Nó được xây dựng qua một thời gian dài, phải nói là một thời kỳ lịch sử về sản xuất, học tập, lao động và chiến đấu,
  4. đồng thời là sự sáng tạo trong giao lưu văn hoá. Trải qua quá trình tiếp nhận, tiếp biến giữa các nền văn hoá mà văn hoá Việt Nam nói chung, lối sống người Việt Nam nói riêng được phát triển và ngày càng phong phú, đa dạng, đậm đà. Song, bản sắc truyền thống của dân tộc ta vẫn là lối nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, giản đơn hoà nhập với thiên nhiên. Bên cạnh đó, trải qua quá trình tiếp biến các lối sống văn hoá phương Đông, phương Tây và văn hoá xã hội chủ nghĩa, những nét đặc sắc của lối sống dân tộc Việt Nam được tổng hợp và phát huy hết sức mạnh mẽ đi cùng với thời thế. Tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống tinh thần, lối sống người Việt được làm giàu với tinh hoa văn hoá và lối sống của nhiều dân tộc, chính xác là 54 dân tộc anh em. Tất cả hội đủ các đặc điểm về phẩm chất cũng như phong thái văn hoá, văn minh độc đáo của thế giới, tạo thành một lối sống vừa có tính nhân loại, vừa đậm đà bản sắc Việt Nam.......................17 Chính những giá trị văn hoá lịch sử và truyền thống lâu đời về việc giữ gìn đã không ngừng thôi thúc người Việt ngày nay hãy kế tục những bản sắc tươi đẹp vốn có. Lời kêu gọi, ngày nay, trong một xã hội hiện đại, đã dần bị thờ ơ nhiều hơn do con người thờ ơ hơn với những bản sắc của chính dân tộc mình. Những truyền thống cũng không còn được nguyên vẹn bởi sự biến dạng, bóp méo trong thế giới cấp tiến hiện nay. Quan niệm về cái đẹp trong con người dần thay đổi để kịp “chạy đua”, “sành điệu” với mọi người xung quanh. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá khứ giờ đây chỉ là một ký ức trong tâm trí của mỗi con người..............................................................18 2.2.Lòng tự tôn dân tộc......................................................................................................18 2.3.Toàn cầu hoá................................................................................................................20 2.4.Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng 23 2.5.Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng và xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh sinh viên thông qua các hoạt động xã hội. .........................................................24 2.6.Không ngừng phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng...........................................................................24 III.Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN   ĐỀ THỰC TIỄN                                                                                                              ..........................................................................................................       25  TỔNG KẾT                                                                                                                      ..................................................................................................................       29  TÀI LIỆU THAM KHẢO                                                                                                ............................................................................................       30
  5. LỜI MỞ ĐẦU Là một người con của nước Việt, hẳn ai cũng biết và tự hào về  chủ tịch Hồ  Chí Minh, vị  lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, vị cha già kính yêu với tấm lòng nhân hậu,   độ  lượng, khoan dung, yêu thương đồng bào. Đất nước ta hoà bình, độc lập, từng   bước đi lên hội nhập với thế  giời như  ngày hôm nay  là nhờ  vào sự  lãnh đạo của  Người. Trong tác phẩm “dưới lá cờ  vẻ  vang”, đồng chí Lê Duẫn từng viết “Mỗi  bước đi của nhân dân ta và của Đảng ta trong 40 năm qua đếu gắn liền với cuộc đời  cách mạng vô cùng sôi nỏi đẹp đẽ  của Hồ  Chủ  Tịch. Giờ  đây, tuy Bác đã đi xa,   nhưng Người đã để  lại cho dân tộc Việt Nam một tài sản vô giá, đó là di sản văn   hoá vô cùng phong phú và cao đẹp.  Tư  tưởng Hồ  Chí Minh là một hệ  thống quan  điểm của Hồ  Chí Minh trong sự  nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản  Việt Nam tổng kết, hệ  thống hóa. Hệ  thống tư  tưởng này bao gồm những quan   điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân  chủ  nhân dân đến cách mạng xã hội chủ  nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ  nghĩa  Mác­Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo Hồ  Chí Minh: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ  sở hạ  tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát   triển được; văn hóa cũng là động lực của xã hội và nền kinh tế  nước nhà; văn hóa  soi đường cho quốc dân đi. Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật   chất và những giá trị  tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự  sinh   tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài người. Văn hoá là nhân tố đảm bảo cho   sự phát triển bền vững của một quốc gia. Với tầm quan trọng của nền văn hóa dân   tộc, nhóm chúng tôi xin cung cấp thêm cho người đọc nhứng giá trị thực sự của nền  văn hóa trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như vấn đề  giữ gìn và phát triển bản   sắc dân tộc trong thời đại công nghệ phát triển hiện nay thông qua đề tài này. 1
  6. I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ  PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 1.1. Khái niệm về văn hóa theo quan điểm của Hồ Chí Minh 1.1.1. Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và   phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học  nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và các phương  thức sử dụng. Toàn bộ những sang tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa  là sự  tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà  loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của   sự  sinh tồn.” (Hồ  Chí Minh: Toàn tập, t.3, NXN Chính trị  Quốc gia, Hà Nội.   2000). Cùng với định nghĩa về  văn hóa, Hồ  Chí Minh còn nêu ra 5 điểm lớn định  hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: “1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường  2. Xây dựng luân lý: biết hi sinh, làm lợi cho quần chúng  3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong   xã hội  4. Xây dựng chính trị: dân quyền 5. Xây dựng kinh tế.”  (Hồ Chí Minh toàn tập, t.3) 1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa 1.1.2.1.   Quan điểm của Hồ  Chí Minh về  vị  trí và vai trò của văn hóa  trong đời sống xã hội a) Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng 2
  7. Văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành 4 vấn đề chủ  yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau, được  coi trọng như nhau. Trong quan hệ với chính trị ­ xã hội: Chính trị, xã hội được giải phóng thì  văn hóa mới được giải phóng. Chính trị mở đường cho văn hóa phát triển. Trong quan hệ với kinh tế: Kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng  của việc xây dựng văn hóa. Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ  tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. b) Văn hóa không thể  đứng ngoài mà phải  ở  trong kinh tế  và chính trị,   phải    phục vụ nhiệm vụ chính trị  và thúc đẩy sự  phát triển của kinh   tế c) Văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như  một động  lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, nghĩa là: Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ  chính   trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này định   hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới  ở  Việt Nam, định  hướng cho mọi hoạt động của văn hóa. Kinh tế và chính trị cũng phải có văn hóa. Vận dụng sang  tạo tư  tưởng Hồ  Chí Minh, Đảng ta chủ  trương gắn văn hóa với   phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóa thâm sâu vào inh tế và  chính trị, làm cho văn hóa thực sự  vừa là mục tiêu, vừa là động lực  của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 1.1.2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa Tính chất dân tộc: Cốt cách dân tộc, tinh túy bên trong, đặc trưng của văn  học. 3
  8. Tính khoa học: Thuận theo trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại: Hòa  bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội. Đấu tranh với những gì trái với khoa học,   phản tiến bộ, duy tâm, thần bí, mê tín dị đoạn, biết gạn đục khơi trong, kế thừa   truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.  Tính chất đại chúng: phục vụ  nhân dân, hợp với nguyện vọng, đâm đà   tính nhân văn, là nền văn hóa do quần chúng xây dựng. 1.1.2.3. Quan điểm về  chức năng của văn hóa: Gồm 3 chức năng chủ  yếu: Bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp: Lý tưởng lớn:   Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, Tình cảm lớn: Yêu nước thương dân,  yêu con người,… Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí: Bắt đầu từ chỗ biết đọc biết viết để  có thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, để nhân dân có thể tham  gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;   hướng con người tới chân, thiện, mỹ  để  hoàn thiện bản thân: Làm sao cho văn  hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những  tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. 1.1.3. Quan điểm của Hồ Chi1 Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa 1.1.3.1. Văn hóa giáo dục Phê phán nền văn hóa phong kiến (tầm chương, kinh viện, xa rời thực tế,   bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ) và nền văn hóa thực dân (ngu muội, đồi bại,  xảo trá). Mục tiêu: Thực hiện 3 chức năng của văn hóa thông qua việc dạy và học. Nội dung: Phù hợp với thực tiễn Việt Nam, giáo dục phải toàn diện, tức   là bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp,   lao động. 4
  9. Phương châm: Học đi đôi với hành, học  ở  mọi nơi, mọi lúc, mọi người,   học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Phương pháp: Phù hợp với trình độ, mục tiêu,… Về  đội ngũ giáo viên: quan tâm xây dựng, bồi dưỡng có đức, có tài, yêu   nghề. 1.1.3.2. Văn hóa văn nghệ:  Văn hóa – văn nghệ  là một mặt trận, nghệ  sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn   nghệ  là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới,  con người mới. Văn nghệ gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân. Phải có những tác phẩm văn nghệ  xứng đáng với thời đại mới của đất  nước và dân tộc. 1.1.3.3. Văn hóa đời sống: Đạo đức mới: Thực hành “cần, kiệm, liêm, chính”. Hồ  Chí Minh nhiều   lần khẳng định: “Nếu không giữ  đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ  trở  nên  hủ  bại, biến thành sâu mọt của dân”, “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm,   Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới” (Hồ Chí Minh toàn tập, t.5). Lối sống mới: Sống có lý tưởng, đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài  hòa truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Phải làm sao cho mỗi  hoạt động của con người đều mang tính văn hóa. Nếp sống mới: Nếp sống văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần   dần trở thành thói quen, phong tục tập quan tốt đẹp, kế thừa và phát triển những  thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Đời sống mới không phải cái gì gì cũ  cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì   cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát   triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung. 5
  10. 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân  tộc 1.2.1. Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc “Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ  thống các giá trị  vật chất và tinh thần được  dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc này   so với dân tộc khác.” (Một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa dân tộc, ThS.   Hoàng Thị Hương) 1.2.2.  Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc 1.2.2.1. Giữ  gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ  gìn cốt cách dân tộc  trong quá trình phát triển của dân tộc. Nói tới cốt cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc,   đậm đà được biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ  đời sống vật  chất và tinh thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối  ổn định, bền   vững bởi nó được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch sử  tồn tại và  phát triển của dân tộc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân tộc thích ứng được  với những cái mới và "dân tộc hóa" cái mới để biến nó thành tài sản của dân tộc,  mang hồn của dân tộc. Thực tế, sự  thiếu thốn, nghèo nàn về  bản sắc văn hóa, sự  mất mát về  cốt cách dân tộc nhiều khi còn đáng sợ  hơn sự  thiếu thốn, nghèo nàn về  vật  chất. Sự  mất mát về  bản sắc văn hóa dân tộc làm mất đi cốt cách dân tộc, có   thể làm mất đi ý nghĩa tồn tại của một dân tộc. Như vậy, sự phát triển kinh tế  có thể mang lại sự đầy đủ về vật chất và tiện nghi sinh hoạt nhưng không đồng  nhất với sự phồn vinh, thịnh vượng nếu  ở đó thiếu vắng những giá trị  văn hóa  dân tộc. 1.2.2.2. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn  dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. 6
  11. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ nhấn mạnh những nét đặc sắc  của dân tộc mà còn là giữ gìn những giá trị thuộc về dân tộc đó. Đồng thời việc  giữ  gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chỉ  có thể  thực hiện được trên cơ  sở ý thức tự giác của cả cộng đồng dân tộc. Ý thức tự  tôn dân tộc được củng cố  thông qua việc giữ  gìn bản sắc văn   hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm  đà bản sắc văn hóa dân tộc mà cả  đối với quá trình phát triển nói chung, phát  triển kinh tế  nói riêng. ý thức đó có thể  trở  thành sức mạnh giúp dân tộc vượt   qua những khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ  hội nhập quốc gia sẽ góp phần phát huy mặt tích cực và hạn chế  mặt tiêu cực  của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế, bảo đảm cho sự  phát triển của dân tộc giữ  vững được độc lập, tự  chủ  trên mọi phương diện.  Đảng ta khẳng định: trong điều kiện kinh tế  thị  trường và mở  rộng giao lưu   quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao văn hóa dân tộc, kế thừa và   phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. 1.2.2.3. Giữ  gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng   tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Ngày nay, hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện để  các nền văn hóa  dân tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác, cũng tạo ra xu hướng   toàn cầu hóa về  ngôn ngữ, về  văn hóa, về  lối sống và quan niệm giá trị. Quá  trình đó đặt các dân tộc trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, đồng  thời còn ẩn chứa nguy cơ làm suy giảm tính sáng tạo của các dân tộc trong quá  trình phát triển. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một mặt, phải gắn liền với   chống lạc hậu, lỗi thời "trong phong tục, tập quán, lề thói cũ"; mặt khác, giữ gìn  7
  12. phải biết lọc bỏ ­ bổ sung ­ phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với đời sống   hiện đại. 1.2.2.4. Giữ  gìn bản sắc văn hóa dân tộc là kế  thừa và phát huy những  truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trải dài theo năm tháng của lịch sử, mỗi dân tộc hun đúc cho mình rất   nhiều giá trị  văn hóa trở  thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những truyền  thống đó được lưu giữ, bổ  sung, phát triển phù hợp với điều kiện mới và đáp   ứng những yêu cầu phát triển của lịch sử. Những tinh thần đó tiếp tục được bổ  sung những nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng yêu cầu phát triển   kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Ngày nay yêu nước không chỉ để chiến thắng  kẻ thù xâm lược mà còn là để  xây dựng một dân tộc phát triển về  mọi mặt để  có thể "sánh vai" cùng các dân tộc khác trên trường quốc tế. 1.2.2.5. Giữ  gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ  hòa hợp giữa con người với tự nhiên và xã hội. Ngày nay, trước sự tác động của biến đổi khí hậu và sự bất ổn tàn khốc  của chiến tranh, khủng bố  đang hằng ngày hằng giờ  cảnh báo cho loài người   phải biết quan tâm đến việc sống hòa hợp với tự nhiên và xã hội như một nhân   tố không thể thiếu để phát triển, trong đó có phát triển kinh tế. Môi trường tự  nhiên và môi trường xã hội không chỉ  là môi trường sống   mà còn là môi trường văn hóa, nơi những giá trị văn hóa hay bản sắc văn hóa dân  tộc hình thành, tồn tại và phát triển. Để giữ gìn văn hóa nói chung, bản sắc văn  hóa nói riêng, tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. Tóm lại, với Hồ  Chí Minh, việc giữ  gìn, bảo vệ  và phát huy bản sắc văn hóa   dân tộc là rất cần thiết, là việc phải làm, nên làm, nhưng quan trọng hơn lại là việc  biết vận dụng và phát triển những bản sắc  ấy vào cuộc sống. Đó chính là cách tốt   nhất để bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Ở Hồ Chí Minh luôn  có sự  gắn bó chặt chẽ  giữa truyền thống và hiện đại. Theo Người, mọi hiện đại,   8
  13. tiên tiến đều bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp. Từ  tầm nhìn của một nhà văn hóa   lớn, Người luôn nhắc nhở  mọi nhân dân, nhất là với cán bộ, Đảng viên phải biết   quý trọng vốn cổ dân tộc, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt  Nam”. 9
  14. II. TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VỀ  VẤN ĐỀ  GIỮ  GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ   DÂN TỘC HIỆN NAY 1. Thực trạng việc giữ  gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân   tộc hiện nay Hiện nay, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc đang là   một vấn đề  đau đầu đối với các nhà lãnh đạo cũng như  những nhà nghiên cứu văn   hoá.  Thực tế, giữ  gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc là trách  nhiệm của mỗi cá nhân và xã hội bởi lẽ bản sắc văn hoá cũng như truyền thống dân  tộc là phạm trù đã được hình thành từ  rất lâu đời và dần được tích luỹ  theo thời   gian. Thế nhưng tại sao vấn đề này lại tạo nên tiếng còi báo động đối với không chỉ  là mỗi dân tộc mà còn là cả đất nước Việt Nam? Muốn hiểu rõ, ta hãy nhìn vào thực   trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc hiện nay. Một trong những thực trạng hiện nay đó là  mối quan hệ  song song  giữa phát  triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển chưa thực  sự được nhận thức đúng đắn. Kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng liên tục, tỷ lệ đói nghèo không ngừng giảm   góp phần nâng cao vị thế của dân tộc trên trường quốc tế, tuy nhiên sự phát triển đó  vẫn chưa thật sự  bền vững khi dựa trên nền tảng tinh thần còn thiếu vững chắc.   Việc đầu tư  cho phát triển tập trung nhiều  ở  phát triển kinh tế  mà chưa có điều   kiện đầu tư cho phát triển văn hóa nói chung và giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa  dân tộc nói riêng. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế đâu đó vẫn có biểu hiện coi trọng   lợi ích trước mắt; giữ  gìn bản sắc văn hóa dân tộc tồn tại xu hướng chạy theo  phong trào, khuôn mẫu khiến cho bản sắc văn hóa vốn có của các dân tộc kém đa   dạng, phong phú. Từ  đó dẫn đến trong đời sống xã hội, kinh tế  có bước phát triển  nhưng bản sắc văn hóa dân tộc lại bị  mai một, mất dần hoặc lai căng một cách tự  phát. Một trong những biểu hiện điển hình là cùng với phát triển kinh tế  thương   mại và du lịch là sự “thương mại hóa”, “hàng hóa hóa” những sắc thái văn hóa dân  10
  15. tộc dẫn đến giữ  gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tự  phát, phiến diện. Mặt  khác, trong quá trình phát triển kinh tế  chúng ta vẫn còn tư  duy phát triển những  ngành công nghiệp dựa trên khai thác tiềm năng thiên nhiên mà chưa chú trọng thích   đáng đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Sự trì trệ của công nghiệp văn hóa  dẫn đến hệ quả  “kép”cả  về  hiệu quả kinh tế và việc giữ  gìn bản sắc văn hóa dân   tộc. Tất yếu sẽ  hình thành thứ  văn hóa “ăn theo”, “bắt chước”   phương Tây một   cách thiếu chọn lọc, tạo điều kiện cho “văn hoá xấu” thâm nhập vào đời sống của   ta. Đó là một nguy cơ làm nghèo kiệt đi bản sắc văn hóa dân tộc, mất đi sức sáng   tạo của một dân tộc thời hiện đại. Một thực tế  điển hình là  ở  Việt Nam hiện nay thường có 3 dạng thức văn hóa   tồn tại, phát triển bên cạnh nhau, chồng lấn nhau là: văn hóa truyền thống, văn hóa  hàn lâm và văn hóa “chạy” theo thị trường. Trong đó, văn hóa “chạy” theo thị trường  – rất được phương Tây ưa chuộng mang ảnh hưởng lớn nhất. Bản chất của văn hóa  “chạy” theo thị  trường là vì lợi nhuận và biểu hiện  ở  “tính hiện đại” gắn liền với   văn hóa phẩm theo kiểu “đám đông”. Có nghĩa là những sản phẩm mang tính chất   giải trí nhằm quảng bá để  thu hút sự  chú ý của người tiêu dùng Việt có chứa các   yếu tố không phù hợp với thuần phong mỹ tục của người dân nơi đây. Một khi các  sản phẩm này được người ta chấp nhận rộng rãi, nhất là khi người Việt mang căn   bệnh sính ngoại và bệnh đám đông, nó sẽ gây nên thói quen xấu cũng như việc hình   thành những “tư tưởng lạ” trong tâm trí người Việt rằng họ thích những điều “mới  mẻ”, “hiện đại”, “giống Tây”. Thông qua đó, nó tước đi sự nhạy cảm, cảm xúc văn  hóa chân chính của công chúng, thậm chí làm cho một bộ  phận người dân coi các  hành động bạo lực là hoạt động bình thường và có thể  chấp nhận được. Hậu quả  lớn nhất của văn hóa “chạy” theo thị trường là làm suy giảm tình thương đồng loại   ở con người, chứ không chỉ dừng lại ở sự vô cảm văn hóa. Một hiện thực khác ta có thể thấy là nghệ thuật văn hóa Việt Nam truyền thống  với nhiều thể loại, loại hình hiện đang bị mai một. Văn hóa truyền thống các dân  11
  16. tộc thiểu số đang đứng trước những thách thức lớn khi hàng nghìn buôn, bản, làng  truyền thống với giá trị văn hóa lâu đời đặc trưng cho các dân tộc, đang có nguy cơ  biến mất, hoặc bị cải tổ đến biến dạng, rất cần được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo  tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại. Trang phục, kiến trúc, phong tục tập quán,  lễ hội, thậm chí là ngôn ngữ đang đứng trước nguy cơ biến mất vì đã bị mai một  nghiêm trọng. Những loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống ngày xưa nay  không còn được giới trẻ ưa chuộng nữa. Sở dĩ những thể loại, loại hình đó tồn tại  lâu đời và có sức hấp dẫn mạnh mẽ vì nó là văn hóa được xây dựng trên nền tảng  của nền nông nghiệp lúa nước. Ngày nay khi công nghiệp tác động mạnh mẽ vào  đời sống nhân dân, các thể loại đó không còn khả năng hấp dẫn và cuốn hút mạnh  mẽ. Thanh niên ngày nay và cả tầng lớp trung lưu không thích xem tuồng, chèo, hát  ca trù vì diễn tiến nghệ thuật lúc nghệ sĩ biểu diễn thường diễn ra chậm trong khi  diễn tiến của cuộc sống đã có nhiều ảnh hưởng của nền kinh tế công nghiệp hiện  đại. Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa và những nghệ sĩ, những nhà nghiên cứu mang  tâm huyết với các loại hình văn hóa truyền thống đang hết sức quan tâm, ra sức bảo  lưu, giữ gìn và cố gắng phát triển nhưng nếu chỉ có nỗ lực từ một phía, không được  sự quan tâm của đông đảo các ngành, các cấp và nhân dân thì mong muốn ấy khó có  thể thực hiện được. Thứ hai,“sức khỏe” của nền văn hóa dân tộc chưa thực sự được quan tâm đúng  mức do công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không  thể hiện rõ nét mục đích và  nhiệm vụ cụ thể trong quá trình xây dựng và phát triển. Khi “sức khỏe” đời sống tinh thần của dân tộc chưa được chăm chút, ý thức  trong việc giữ  gìn văn hoá chưa được hình thành thì những cái mới lạ  từ  bên ngoài   sẽ có cơ hội xâm lấn và len lỏi vào giữa những cái được gọi là văn hoá truyền thống  của nhân dân. Đây là nguy cơ  “hòa tan”, tự  đánh mất mình, mất bản sắc dân tộc   trong phát triển kinh tế cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc. Có thể nói, lòng tự  tôn dân tộc và ý thức giữ gìn cốt cách dân tộc chưa thật sự có chỗ đứng vững chắc   12
  17. trong đời sống tinh thần của cộng đồng và xã hội. Đó là phải xem xét rằng các công   tác giáo dục, tuyên truyền và nhiều biện pháp giữ  gìn bản sắc văn hóa dân tộc chỉ  mới là những giải pháp tình thế  trước mắt,chưa thật sự  đi vào chiều sâu một cách   có hệ thống vậy thì làm sao có thể tạo dựng trong lòng người nhận một giá trị  thật  sự? Bên cạnh đó, bảo tồn những giá trị thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc còn thiếu   tính toàn diện hoặc không kịp thời. Thực tế  là việc giữ  gìn, phát huy bản sắc văn  hóa dân tộc xuất phát từ nhận thức chưa thấu đáo về  những giá trị  văn hóa dân tộc  dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm văn hóa "không giống ai", không rõ bản  sắc văn hóa dân tộc. Có nghĩa là những sản phẩm văn hoá đó, ta không phải ta mà  tây cũng không phải tây. Chính vì những kết quả trên ta nhận thấy được thực trạng  rằng “sức khoẻ” của nền văn hoá dân tộc đang thật sự có chiều hướng xuống dốc,   nếu chúng ta kịp thời đưa những bản sắc văn hoá truyền thống này trở  lại quỹ đạo  của nó thì may thay ta còn giữ gìn được mai sau; ngược lại, nếu chúng ta vẫn kiên trì  một thái độ  bàng quang đối với thực tế  xảy ra trước mắt, việc đánh mất bản sắc  truyền thống dân tộc chỉ còn là vấn đề sớm hay muộn mà thôi. Ngày nay, khi mà toàn cầu hoá đang là xu hướng đối với thế giới, quốc gia cần   phải thay đổi và tiếp thu những nét đẹp, cái hay từ những nước bạn thì tồn tại một   số thành phần lạm dụng điều đó để “bắt chước” văn hoá nước ngoài và cho rằng họ  đang tiến bộ  so với mọi người quanh họ. Điển hình là việc ăn mặc quá sức gợi  cảm, hở  hang đi ra đường,  ở  đây xin nhấn mạnh việc tiếp thu cái đẹp văn hoá từ  bên ngoài là cần thiết thế nhưng ta vẫn phải giữ được những nét truyền thống nhất   của người Việt từ ngàn xưa đến nay, do đó khi một người ăn mặc phản cảm và cho   đây là “giống Tây”, “sành điệu” thì đó không phải là sự tiếp nhận có chọn lọc, phù   hợp văn hoá người Việt. Trái lại, hành động này gây ảnh hưởng xấu đến bản sắc  văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam.  Thực trạng thứ  ba, việc giữ  gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn mang  tính “bao cấp”, dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước là chính.  13
  18. Tính chủ  động, tích cực của các chủ  thể  văn hóa dân tộc chưa được khơi dậy,   hầu hết sự tự giác vẫn chưa được đánh thức. Trong khi đó, giữ gìn bản sắc văn hóa  dân tộc luôn gắn với vai trò của các chủ  thể  sinh ra và lưu giữ  chúng. Do vậy, khi   chủ  thể  vẫn còn “ngủ  say” thì nhiệm vụ  bảo tồn văn hoá chắc chắn không thể  đi  vào hiện thực. Công  ước UNESCO năm 2003 cũng đã khẳng định: "Những di sản  văn hóa phải được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, được các cộng đồng   và các nhóm người không ngừng tái tạo và hình thành trong họ  một ý thức về  bản  sắc và sự kế tục". Thực tế, ngày nay, những bản sắc văn hoá mang đậm nét truyền  thống của dân tộc chưa hẳn đã được chuyển giao từ  thế  hệ  trước sang thế  hệ sau   bởi lẽ những lớp người trẻ ngày nay trở  nên bận rộn và cấp tiến hơn bao giờ hết.   Thật vậy, họ  đã dần lãng quên những giá trị  tinh hoa vốn có của dân tộc hoặc lạ  thay, họ  mang nặng một quan niệm khác về  cái đẹp, một cái đẹp hoàn toàn hiện   đại, bon chen chứ không phải một cái đẹp truyền thống, văn hoá. Hệ quả là, chỉ có  người truyền đạt mà không có người kế tục bởi những người tiếp nhận không có ý  thức và tự  giác giữ  gìn; di sản văn hoá, bản sắc dân tộc sẽ  dễ  dàng bị  mai một và   đến một ngày nào đó, nó sẽ biến mất vĩnh viễn. Chiếc áo dài tân thời – sản phẩm văn hóa mặc kết hợp cả văn hóa mặc Đông –   Tây đã và đang là vẻ đẹp văn hóa mặc mang bản sắc Việt Nam cũng cần phải được   nhận thức và giữ  gìn. Do điều kiện sinh hoạt vật chất ngày nay đã được cải tiến  đầy đủ  hơn nên nhiều người phụ  nữ  không được mảnh mai và vì vậy không thích  mặc áo dài ngay cả  những ngày lễ, tết. Tương tự, một số các nhạc cụ  rất độc đáo  của người Việt Nam đangít được chú ý  bảo tồn và  phát huy nhưđàn đá Tây Nguyên  – nhạc cụ một thời tạo được ấn tượng sâu đậm cho khán giả  trong và ngoài nước,  hiện nay chỉ  có ít người biết sử  dụng. Các nhạc cụ  độc đáo của đồng bào các dân   tộc miền núi cũng có nguy cơ mai một trong bối cảnh nhạc hiện đại tràn lan của đời  sống âm nhạc ngày nay. Đô thị hóa nông thôn là một sự tiến bộ nhưng cũng kéo theo  nhiều yếu tố  làm mai một những giá trị  truyền thống của văn hóa Việt Nam. Mối   14
  19. quan hệ làng xã truyền thống với tình làng nghĩa xóm cũng không còn mặn nồng như  trước.Đó là thực tế ngày nay khi các thế hệ tiếp sau không dành những nỗ lực thích  đáng trong việc bảo tồn và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc bởi lẽ họ còn  chưa thật sự hiểu hết ý nghĩa và cảm hết cái đẹp sâu sắc phía sau vẻ bề  ngoài thô   sơ đó. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt hạn chế  trong việc giữ  gìn bản sắc văn hoá  truyền thống dân tộc như xu hướng sính ngoại, nhận thức chưa thực sự sâu sắc và   các động lực dành cho việc phát triển văn hoá còn mờ nhạt, ta không thể đánh đồng  tất cả các lớp thanh niên hiện nay đều “say mê” trong thực trạng tồi tệ đó.  “Kết quả  điều tra tình hình thanh niên năm 2010 của Viện Nghiên cứu thanh  niên   cho thấy, nhìn  chung thanh niên đô thị   hiện nay có thái độ   tích cực đối với  cuộc  sống, thể  hiện ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Điều này được nhìn nhận  qua sự  quan tâm của thanh niên đô thị  tới các vấn đề  xã hội, kinh tế, hay các sự  kiện chính trị, văn hóa nổi bật ,đặc biệt là các vấn đề   tác động trực tiếp đến cuộc  sống thực tế  hằng ngày của thanh niên đô thị.” ( ThS TRẦN KIM CÚC ­ Viện Văn   hóa và phát triển, Học viện Chính trị ­ Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) Thực tế  vẫn có rất nhiều thành phần trong giới trẻ  hiện nay vẫn tiếp tục giữ  gìn, kế thừa và phát huy những giá trị  tốt đẹp của truyền thống dân tộc Việt Nam.  Họ biết cách tiếp thu một cách có chọn lọc các tinh hoa nhân loại, kết hợp với bản   sắc lâu đời của người Việt tạo nên sản phẩm văn hoá đẹp, chiếm được thiện cảm   của nhiều người cả  trong và ngoài nước. Ngày nay, ta vẫn nhận thấy rằng, thanh  niên vẫn sắc son với truyền thống nhân văn, nhân ái như: “Uống nước nhớ nguồn”,   “Lá lành đùm lá rách”, “Tôn sư trọng đạo”,… Các hội sinh viên, hội thanh niên cũng   như  các tổ  chức dành cho lớp trẻ hiện nay giữ vững tinh thần tuyên truyền và phát  triền nhận thức cũng như ý thức về văn hoá dân tộc, về Đảng và tư  tưởng của Hồ  chủ  tịch. Một số các loại nhạc cụ  truyền thống và các loại hình nghệ  thuật không   chỉ sân khấu mà còn nhân dân vẫn còn được kế thừa. Nói như thế không có nghĩa là   15
  20. mâu thuẫn với thực trạng báo động ở  trên, việc duy trì truyền thống vẫn còn được  duy trì và kế tục song nó không còn mạnh mẽ như trước bởi số lượng người bị tác  động ngoại lai xâm lấn còn nhiều hơn so với số lượng người giữ được nét văn hoá  dân tộc. Ta thấy rằng, các giá trị truyền thống dân tộc đang thực sự bị mất dần do sự thờ  ơ  của người kế tục, do nhận thức sai về giá trị  văn hoá, do nhịp sống hối hả  hiện  đại, tất cả tạo nên ý thức bàng quang đối với nền văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá  truyền thống dân tộc sẽ  không thể  được bảo tồn và phát triển nếu chỉ  do sự  cố  gắng từ một phía; đó cần là sự  kết hợp, chung tay của cả những nhà lãnh đạo, nhà  nghiên cứu văn hoá và tầng lớp người dân, các thế  hệ  già trẻ, đó là lực lượng của   toàn dân tộc. 2. Các yếu tố tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền  thống dân tộc hiện nay 2.1. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá khứ Từ trước đến nay, nước ta được biết đến như là một quốc gia có nền văn  hiến lâu đời. Một dân tộc có kỉ cương, văn hóa, phong tục độc lập, khác biệt  với nước láng giềng phương Bắc. Mặc dù chúng ta đã từng dùng chung một  thứ chữ vuông với họ nhưng văn chương của chúng ta vẫn là văn chương  của người dân Đại Việt, thấm đẫm tinh thần dân tộc và bản sắc văn hóa rất  riêng. Việc sáng chế ra chữ Nôm, sáng tác văn học bằng chữ Nôm (song  song với chữ Hán) thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ về việc giữ gìn bản  sắc văn hoá Việt. Theo các công trình nghiên cứu, văn hóa Việt Nam có  nguồn gốc khu vực Đông Nam Á, hơn nữa nhiều hình tượng trong văn hóa  Trung Hoa có nguồn gốc vay mượn từ người Việt. Văn hóa Trung Quốc  giống như Ấn Độ, phương Tây chỉ là sự giao thoa của các luồng văn hóa, khi  16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1