
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng trong sử dụng dịch vụ y tế là chủ đề quan trọng được xã hội
quan tâm, nội dung này được đề cập trong Mục tiêu Phát triển Bền vững số 3
và số 10. Theo đó, đề cập đến việc đảm bảo toàn dân được sống cuộc sống
khoẻ mạnh và hạnh phúc cùng với nhu cầu về sử dụng dịch vụ y tế và chăm
sóc sức khoẻ liên tục được đáp ứng trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên, trên thực
tế, tình trạng bất bình đẳng trong sử dụng dịch vụ y tế đã được ghi nhận tại
nhiều quốc gia trong các báo cáo và nghiên cứu thực nghiệm. Bất bình đẳng
(BBĐ) trong sử dụng dịch vụ y tế (DVYT) phản ánh sự khác biệt trong tình
trạng sử dụng DVYT giữa các nhóm khác nhau trong một quần thể. Sự khác
biệt này còn phản ánh sự bất công bằng trong xã hội gây ra bởi nhiều yếu tố
kinh tế - xã hội, như tình trạng kinh tế, nơi sống, giới tính. Những sự bất công
bằng trên là không cần thiết và có thể khắc phục được thông qua các can thiệp
về chính sách (Maria Lazo-Porras&Tricia Penniecook, 2023).
Trong bối cảnh xu hướng dân số cao tuổi được ghi nhận đang tăng ở các
quốc gia, trong đó có Việt Nam, tình trạng BBĐ trong sử dụng DVYT ở người
cao tuổi (NCT) là vấn đề đang được quan tâm do hệ quả của vấn đề này, như
tình trạng nhu cầu sử dụng DVYT không được đáp ứng đối với một số nhóm
NCT, tình trạng sức khoẻ ở một số nhóm NCT bị ảnh hưởng,… Các nghiên
cứu trước đây trên thế giới đã khai thác vấn đề này; tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều
hạn chế như hướng tiếp cận vấn đề, phương pháp nghiên cứu, biến giải thích,
cỡ mẫu cũng như sự chưa nhất quán trong các kết quả nghiên cứu được công
bố. Tại Việt Nam, mặc dù đã có một số nghiên cứu về chủ đề BBĐ trong sử
dụng DVYT, nhưng chưa có nghiên cứu về vấn đề BBĐ trong sử dụng DVYT
cụ thể trên nhóm NCT được công bố. Thêm vào đó, các nghiên cứu trước đây
về BBĐ trong sử dụng DVYT được thực hiện từ rất lâu trước đó và dữ liệu
không mang tính đại diện cho quần thể. Việc triển khai nghiên cứu vấn đề BBĐ
trong sử dụng DVYT ở NCT là rất cần thiết và cấp bách vì đây được nhận định
là nhóm sân số ngày càng lớn về số lượng và đóng góp tỷ lệ lớn trong dân số
Việt Nam. Hơn nữa, cả lý luận lẫn thực tiễn chính sách để giải quyết vấn đề