intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án: Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Ma | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

48
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của luận án nghiên cứu đề tài để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho công nhân các KCN ở miền ĐNB, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân về chính trị - tư tưởng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án: Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng (GDCT-TT) nói chung, công tác GDCT-TT cho công nhân các khu công nghiệp (KCN) ở miền Đông Nam Bộ (ĐNB) là một hoạt động quan trọng trong công tác tư tưởng (CTTT) của Đảng nhằm truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (GCCN). Đây là hoạt động có tính mục đích, mang tính chủ động, tích cực của các chủ thể nhằm tác động đến ý thức cộng đồng, ý thức cá nhân của người lao động nhằm xác lập vị trí chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần xã hội, góp phần nâng cao nhận thức/ kiến thức; thái độ, niềm tin và tính tích cực chính trị - xã hội (CT-XH), hướng đội ngũ công nhân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của Đảng, chấp hành hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Từ đất nước tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, trong đó có việc thành lập các KCN, khu chế xuất (KCX), đã thu hút, tạo việc làm cho rất nhiều lao động. Từ đây, xuất hiện một bộ phận công nhân mới: Công nhân trong các KCN. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vị trí và tầm quan trọng của GCCN đối với sự phát triển của đất nước. Cùng với việc ban hành các chủ trương, chính sách chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công nhân trong các KCN, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn quan tâm đến công tác GDCT-TT cho đội ngũ này, trong đó có công nhân các KCN ở miền ĐNB. Trong những năm qua công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở nước ta nói chung, ở các tỉnh miền ĐNB nói riêng đã có nhiều đổi mới và đã đạt nhiều kết quả. Các chủ thể đã quan tâm nhiều hơn thể hiện bằng việc nội dung ngày càng phong phú, đa dạng; phương pháp, hình thức, phương tiện được chú trọng và tăng cường; các nguồn lực giành cho công tác GDCT-TT đã được huy động, sử dụng cơ bản đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm; trình độ nhận thức chính trị của công nhân các KCN trên địa bàn đã bước đầu được cải thiện…Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này xét trên bình diện nhiều mặt vẫn còn những hạn chế cần nhìn nhận, đánh giá thật trung thực, khách quan cả từ lý luận đến thực tiễn để có các giải pháp khắc phục. Những hạn chế, bất cập có thể kể tới là: Một bộ phận chủ thể chưa nhận thức đầy đủ về công tác này và còn xem đó là việc của các cơ quan tuyên giáo; trình độ học vấn, trình độ chính trị của một bộ phận công nhân các KCN còn hạn chế; nội dung có nơi, có lúc còn dàn trải, ôm đồm, chưa xác định rõ những nội dung cốt lõi cần chuyển tải trong khi nguồn lực, thời gian hạn hẹp; một bộ phận chủ thể chưa được đào tạo chuyên sâu về kỹ năng; phương pháp, hình thức, phương tiện ở nhiều nơi chậm được đổi mới; việc huy động và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực ngày càng khó khăn nhưng vẫn chưa có những giải pháp phù hợp để sử dụng hiệu quả…
  2. 2 Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, GCCN nói chung, công nhân trong các KCN vẫn được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là lực lượng quan trọng trong quá trình này. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là Hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với những quy định ngặt nghèo về tổ chức công đoàn và vấn đề lao động, công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN càng trở nên quan trọng và bức thiết. Trong công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN, một vấn đề quan trọng hàng đầu cần phải lưu tâm là vấn đề hiệu quả. Nếu công tác này mang lại những hiệu quả thiết thực chính là đã mang lại kết quả thực chất, hạn chế lãng phí và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Để công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền Đông Nam Bộ mang lại hiệu quả thiết thực, cần có những nghiên cứu, bổ sung, phát triển cả lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề mà cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra. Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay” để triển khai thực hiện Luận án tiến sĩ Chính trị học, chuyên ngành CTTT. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài để nâng cao hiệu quả của công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB, góp phần xây dựng đội ngũ công nhân về chính trị - tư tưởng. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài; nhận xét khái quát về kết quả đã nghiên cứu và đề ra các hướng nghiên cứu tiếp theo. - Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN. - Khảo sát và đánh giá thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay. - Xác định những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB trong những năm tiếp theo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận án nghiên cứu về hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân làm việc trong các KCN; bao gồm cả công nhân làm việc trong các KCX các tỉnh, thành ở miền ĐNB.
  3. 3 - Về không gian: Luận án khảo sát, lấy số liệu thực tế của 03 tỉnh, thành có đông công nhân trong các KCN là: Thành phố (TP) Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương. - Về thời gian: Khảo sát, nghiên cứu từ năm 2014 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên các nguyên lý lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các nhiệm vụ, giải pháp của các địa phương ở miền ĐNB về CTTT, hiệu quả CTTT, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCT- TT, công tác tuyên giáo, công tác GDCT-TT cho công nhân. Luận án kế thừa, có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được dùng để nghiên cứu các công trình khoa học, sách, báo, sách chuyên khảo, báo cáo của ban tuyên giáo (BTG), của Công đoàn các cấp để tìm hiểu những kiến thức lý luận và thực tiễn phục vụ cho mục đích nghiên cứu của một đề tài chuyên ngành CTTT. Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng để nghiên cứu các chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; báo cáo của BTG, Công đoàn các cấp của các tỉnh, thành trên địa bàn; các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến Luận án. Phương pháp lôgic và lịch sử: Sử dụng phương pháp lôgic để tìm ra mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, quy luật các nội dung có liên quan đến đề tài. Luận án trình bày vấn đề theo trình tự các công trình nghiên cứu ngoài nước đến các công trình nghiên cứu trong nước; trình bày theo trình tự thời gian để có cơ sở tham chiếu sự hoàn thiện, bổ sung, phát triển các quan điểm, quan niệm về các nội dung có liên quan đến đề tài qua từng giai đoạn, thời gian. Phương pháp thống kê, so sánh và quan sát: Thống kê các số liệu có liên quan đến công tác tuyên truyền, công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở các tỉnh, thành miền ĐNB với nhau; so sánh đánh giá, nhận xét của chủ thể và đối tượng; so sánh, đánh giá, nhận xét của các đối tượng công nhân các KCN khác nhau trên địa bàn về độ tuổi, trình độ học vấn, quê quán...để vừa đảm bảo độ tin cậy của số liệu, vừa có đánh giá chính xác nhằm đề ra các giải pháp phù hợp các đối tượng khác nhau... Phương pháp tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận: Luận án tìm hiểu những tài liệu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan và thực tiễn công tác GDCT-TT, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN làm cơ sở cho việc xây dựng khung lý thuyết cũng như đánh giá thực trạng và đề
  4. 4 ra giải pháp. Phương pháp điều tra xã hội học: Luận án sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi nhằm đưa ra những chỉ số đánh giá về hiệu quả công tác GDCT-TT theo các chỉ số từ: Tiếp cận, các chỉ số về nhận thức, kiến thức; niềm tin, thái độ; hình thành tính tích cực xã hội. Thông tin thu thập được từ bảng hỏi được mã hóa, nhập và xử lý bằng chương trình SPSS. Sau khi làm sạch các số liệu, tiến hành biến đổi các số liệu để phục vụ cho việc lượng hóa các nhóm vấn đề liên quan đến đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB. Kết quả cụ thể của việc nghiên cứu sẽ được phân tích sâu trong chương 2 của Luận án. Luận án khảo sát: 600 phiếu với đối tượng là CN các KCN ở miền ĐNB. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án đưa ra các khái niệm: Tư tưởng, hệ tư tưởng, chính trị, GDCT-TT, GDCT-TT cho công nhân các KCN. - Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về công nhân các KCN và công nhân các KCN ở miền ĐNB; đặc điểm công nhân các KCN ở miền ĐNB. - Luận án đưa ra quan niệm về hiệu quả công tác GDCT-TT; phân tích nội hàm của quan niệm đó; nêu ra các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN. - Từ tiêu chí phân loại hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT nói chung, nghiên cứu sinh đã cụ thể hóa vào đối tượng là công nhân các KCN ở miền ĐNB; bổ sung một phần nhỏ về các tiêu chí đánh giá cho phù hợp đối tượng là công nhân các KCN. - Từ việc phân tích những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác GDCT- TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB, Luận án đã phân tích thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay. - Luận án xác định được sáu vấn đề đặt ra và sáu nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB những năm tiếp theo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Kết quả nghiên cứu góp phần luận giải rõ hơn về khái niệm, các tiêu chí đánh giá hiệu quả tác GDCT-TT trong một đối tượng cụ thể là công nhân các KCN ở miền ĐNB. - Với kết quả nghiên cứu đạt được, Luận án có thể cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho lãnh đạo các bộ, ngành, tỉnh, thành ủy, UBND các tỉnh, thành phố, đặc biệt là BTG Trung ương, BTG ở các địa phương ở miền ĐNB; Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) các cấp, công đoàn các KCN ở miền ĐNB trong việc nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân. - Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ BTG, công đoàn các cấp; làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập
  5. 5 những nội dung liên quan về CTTT, về vận động quần chúng, về vận động công nhân. 7. Cấu trúc của Luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án có kết cấu 03 chương, 12 tiết. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị-tư tưởng Công trình nghiên cứu của nước ngoài:Đã có nhiều cuốn sách của các tác giả nước ngoài bàn về GDCT-TT được dịch ra tiếng Việt như: Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô do X.L Xu-rơ-ni-tren-cô (chủ biên); Phương pháp luận công tác giáo dục tư tưởng của D.A. Vôn-cô-gô-nốp”… Các tác giả Trung Quốc cũng quan tâm đến nội dung này và đã có nhiều công trình nghiên cứu như: CTTT lý luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ cải cách và mở cửa; Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới; Phương pháp luận về GDCTTT đương đại… Công trình nghiên cứu trong nước:Trong nước, có nhiều tác giả và nhiều cuốn sách nghiên cứu liên quan đến đề tài. Có thể tên gọi khác nhau nhưng các nhà khoa học trong nước đều thống nhất quan nhiệm công tác GDCT-TT nhằm truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của chủ thể (có thể là của một giai cấp, của một chính đảng, của một lực lượng) trong quần chúng với mục đích giác ngộ, lôi kéo quần chúng đi theo thế giới quan và niềm tin mà chủ thể mong muốn. 2. Các công trình nghiên cứu về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân Công trình nghiên cứu của nước ngoài: Nghiên cứu về công tác GDCT- TT cho công nhân cũng đã được những tác giả nước ngoài quan tâm, trong đó chủ yếu là các tác giả Trung Quốc. Về cơ bản, các nghiên cứu đều đề cập đến vị trí, vai trò của công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như các giải pháp để đảm bảo lợi ích hài hòa giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Một trong những giải pháp được nhiều công trình đề cập là định hướng về chính trị và khẳng định nếu các doanh nghiệp làm tốt công tác GDCT-TT thì sẽ góp phần đảm bảo hài hòa lợi ích của giới chủ và công nhân. Công trình nghiên cứu trong nước:Trong nước, đây là nội dung được rất nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Các tác giả đều cơ bản thống nhất cho rằng cần nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị cho công nhân. Ngoài ra, trong nhiều công trình nghiên cứu đã đề xuất các nhóm giải pháp về công tác GDCT- TT cho công nhân. 3. Các công trình nghiên cứu về hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng
  6. 6 3.1. Nghiên cứu về khái niệm hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng Công trình nghiên cứu của nước ngoài: Một số nhà khoa học nước ngoài như Liên Xô và Trung Quốc đã bàn và nghiên cứu về hiệu quả công tác GDCT-TT. Một số tác giả Liên Xô và Trung Quốc khi bàn về nội dung này đều quan niệm đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT cần so sánh giữa kết quả với mục tiêu và mục đích. Hoạt động thì so sánh với mục tiêu, song hiệu quả phải so sánh với mục đích. Công trình nghiên cứu trong nước: Các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề này chiếm số lượng khá lớn. Mỗi tác giả có cách tiếp cận ở các góc độ khác nhau, nhưng về cơ bản đều thống nhất quan niệm hiệu quả là tương quan hoặc so sánh giữa kết quả với mục đích đề ra và chi phí để đạt mục đích ấy trong những điều kiện nhất định. 3.2. Nghiên cứu về đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng Công trình nghiên cứu của nước ngoài: Lênin đã bàn nhiều đến hiệu quả trong GDCT-TT. Theo Lênin, để GDCT-TT có hiệu quả cần những chủ thể có đủ phẩm chất, năng lực. Lênin cũng cho rằng, một trong những tiêu chí để đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT là những chủ thể phải am hiểu tâm lý, mong muốn, nhu cầu của đối tượng, gần gũi đối tượng. Nhà triết học nổi tiếng người Pháp là Francois Jullien trong cuốn sách Bàn về tính hiệu quả cho rằng để có hiệu quả cần tác động đúng thời điểm. Các tác giả Trung Quốc như Tào Tổ Minh và Trần Đình trong bài viết Đánh giá tính hiệu quả của công tác GDCTTT (tiếng Trung) cho rằng để đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT phải xem xét hoạt động GDCTTT với việc phù hợp mục tiêu dự kiến. Theo đó, để đánh giá hiệu quả công tác GDCTTT phải dựa trên 03 căn cứ là xây dựng mục tiêu giáo dục, đánh giá mức độ văn minh tinh thần của người dân và xác định chính xác vai trò của GDCTTT… Một số nhà khoa học Trung Quốc còn đi vào nghiên cứu và phân tích việc đánh giá số liệu GDCTTT và đề xuất những giải pháp nhằm đánh giá chính xác số liệu như tác giả Vương Sa trong bài viết Đánh giá số liệu GDCTTT (tiếng Trung); tác giả Tống Quảng Phát trong bài viết Phát triển công tác chính trị tư tưởng tại các xí nghiệp trong bối cảnh mới hiện nay như thế nào? (tiếng Trung)… Công trình nghiên cứu trong nước: Trong bài viết Người tuyên truyền và cách tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”. Có nhiều nhà nghiên cứu trong nước quan tâm đến tiêu chí đánh giá hiệu quả CTTT, công tác GDCT- TT. Các tác giả đã cơ bản thống nhất đưa ra các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả CTTT bao gồm: Hiệu quả trước mắt, hiệu quả trực tiếp và hiệu quả lâu dài. Các tác giả trong nước cũng cơ bản thống nhất cách phân loại các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT.
  7. 7 3.3. Nghiên cứu về những biện pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng nói chung và cho công nhân các khu công nghiệp nói riêng Công trình nghiên cứu ở nước ngoài: Ở phương Tây đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền chính trị. Các tác giả này cho rằng để tuyên truyền có hiệu quả phải sử dụng các hình thức khác khi tuyên truyền cho các đối tượng khác nhau và cần sử dụng nội dung, ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu. Đa số các tác giả Trung Quốc nêu trên đều thống nhấtquan niệm cho rằng để nâng cao hiệu quả CTTT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT nói riêng cần đổi mới hình thức, phương pháp; xác định mục tiêu một cách sát hợp; tác động để thay đổi môi trường xã hội, môi trường sống của đối tượng. Ngoài ra, nội dung phải phải xuất phát từ nhu cầu xã hội, từ tình hình thực tế và từ nhu cầu của đối tượng và phải chú trọng nâng cao trình độ của đối tượng tiếp nhận; ứng dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin… Công trình nghiên cứu trong nước: Đây là nội dung được nhiều nhà khoa học trong nước quan tâm và đề ra nhiều giải pháp. Mỗi tác giả tùy góc độ khác nhau đưa ra những giải pháp khác nhau. Chẳng hạn, dưới góc độ truyền thông, tác giả Lương Khắc Hiếu cho rằng yêu cầu của một thông điệp truyền thông thay đổi hành vi hiệu quả bao gồm 07 tiêu chí. Ở góc độ tâm lý học tuyên truyền, một số tác giả cho rằng cần vận dụng các hiện tượng, quy luật tâm lý trong tuyên truyền. Tuy nhiên, có quan niệm cơ bản nhận được sự đồng tình cao đó là trong cuốn sách Cơ sở lý luận CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả Lương Khắc Hiếu khẳng định, để nâng cao hiệu quả CTTT cần thực hiện tốt 06 giải pháp, bao gồm: Thiết lập những điều kiện khách quan thuận lợi cho việc tiến hành CTTT và cho sự hình thành ý thức XHCN; nghiên cứu nắm vững đặc điểm đối tượng và xác định mục đích, nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện phù hợp với đặc điểm đó; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với CTTT; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng; tăng cường phối hợp trong CTTT và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, khai thác triệt để công năng, tác dụng của các phương tiện vốn có của CTTT. 4. Nhận định khái quát về kết quả đạt được và những vấn đề cần nghiên cứu 4.1. Những kết quả đạt được - Khẳng định vị trí, vai trò hết sức quan trọng của CTTT trong đó có công tác GDCT-TT nhằm truyền bá tri thức chính trị, hình thành niềm tin và cổ vũ tính tích cực CT-XH của đối tượng nhằm làm cho hệ tư tưởng của GCCN trở thành hệ tư tưởng thống trị của xã hội. - Cơ bản thống nhất với nhau ở quan điểm hiệu quả CTTT hoặc công tác GDCT-TT được xem xét trong mối tương quan giữa kết quả với mục đích và chi phí. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng cho rằng hiệu quả CTTT là sự
  8. 8 so sánh giữa mục tiêu và chi phí như của một số nhà khoa học Liên Xô và Trung Quốc. - Nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí hoặc tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả CTTT và hiệu quả công tác GDCT-TT. 4.2. Những vấn đề đặt ra - Có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều nhà khoa học có lúc còn đồng nhất hiệu quả CTTT với hiệu quả công tác GDCT-TT. - Mới chỉ có ít công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về hiệu quả công tác GDCT-TT, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu về hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân nói chung, công nhân các KCN, trong đó có công nhân các KCN vùng ĐNB nói riêng. - Ngoài tác giả Lương Khắc Hiếu, Lương Ngọc Vĩnh, các tác giả khác như đã nêu trên cơ bản thống nhất hiệu quả CTTT hoặc hiệu quả công tác TGDCTTT là sự tương quan giữa kết quả với mục đích và chi phí nhưng lại mới chỉ dừng lại ở mức đánh giá tương quan giữa mục đích và chi phí về kinh phí mà chưa tính tới chi phí về nguồn lực. - Đa số các tác giả nước ngoài và một số nhà khoa học trong nước chưa xem xét hiệu quả là sự tương quan giữa kết quả và chi phí. - Trong số các nhà khoa học ở Việt Nam cũng có sự khác nhau khi đưa ra tiêu chí đánh giá hiệu quả CTTT, hiệu quả công tác GDCT-TT. 4.3 Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu - Nghiên cứu, kế thừa và bổ sung khái niệm hiệu quả công tác GDCT-TT nói chung, hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân, trong đó có công nhân các KCN ở miền ĐNB nói riêng. - Kế thừa, bổ sung và vận dụng tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác GDCT-TT trong một đối tượng cụ thể là công nhân các KCN ở miền ĐNB. - Dự báo những yếu tố ảnh hưởng, phân tích các yếu tố chi phối hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB; khảo sát, nghiên cứu thực tiễn nhằm làm rõ thực trạng hiệu quả công tác GDCT-TT trong công nhân các KCN ở miền ĐNB. - Xác định những vấn đề đặt ra, đề xuất những giải pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNGCHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP 1.1. Khái niệm giáo dục chính trị - tư tưởng 1.1.1. Các khái niệm có liên quan đến công tác giáo dục chính trị - tư tưởng Khái niệm tư tưởng:Tư tưởng là hình thức tồn tại của ý thức con người, là sản phẩm của tư duy. Tư tưởng bao gồm các quan niệm, quan điểm của con người về sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh.
  9. 9 Khái niệm hệ tư tưởng:Hệ tư tưởng là hệ thống những tư tưởng và quan điểm lý luận thể hiện sự nhận thức và đánh giá hiện thực xung quanh, xuất phát từ những lợi ích xã hội nhất định của giai cấp cầm quyền; bao gồm các tư tưởng và quan điểm về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, thẩm mỹ, triết học... Khái niệm chính trị:Chính trị là mối quan hệ giữa giai cấp này với giai cấp khác trong xã hội, liên quan mật thiết đến quyền lực chính trị; là sự tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước; là những phương thức, phương pháp, những hành động chính trị mà các giai cấp, các đảng phái thực hiện trong việc giành, giữ, điều khiển hoạt động của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình. 1.1.2. Khái niệm công tác giáo dục chính trị - tư tưởng Công tác GDCT-TT là hoạt động truyền bá và lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; những tri thức chính trị của dân tộc và nhân loại…nhằm nâng cao nhận thức chính trị, hình thành niềm tin, nâng cao tính tích cực CT-XH của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. 1.2. Công nhân các khu công nghiệp và công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp 1.2.1. Khái niệm công nhân các khu công nghiệp Khái niệm giai cấp công nhân: GCCN Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp… Khái niệm công nhân: Công nhân là “người lao động chân tay làm việc ăn lương trong các nhà máy, xí nghiệp, công trường. Khái niệm khu công nghiệp: KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định. Như vậy, công nhân các KCN ở Việt Nam: Là những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp trong khu vực có ranh giới và địa lý xác định. 1.2.2. Khái niệm, các yếu tố cấu thành công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp Khái niệm: Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp là hoạt động truyền bá và lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; những tri thức chính trị của dân tộc và nhân loại…nhằm nâng cao nhận thức chính trị, hình thành niềm tin, nâng cao tính tích cực CT-XH, tự giác, sáng tạo của người công nhân trong lao động, sản xuất và cuộc sống.
  10. 10 Các yếu tố của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp bao gồm: Một là, chủ thể và đối tượng; hai là, mục tiêu, mục đích và nội dung; ba là, phương thức; bốn là, phương tiện; năm là, hiệu quả. 1.3. Hiệu quả, phân loại và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp 1.3.1. Hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng và hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp Hiệu quả công tác GDCT-TT: Là sự tương quan giữa kết quả thực tế đạt được của quá trình GDCT-TT với mục đích của công tác GDCT-TT (được xác định bằng việc đề ra và hoàn thành các mục tiêu cụ thể trong từng thời điểm cụ thể, xác định) đề ra và với chi phí về nguồn lực hợp lý, tiết kiệm trong một điều kiện xã hội nhất định nhằm trang bị kiến thức chính trị, hình thành niềm tin, cổ vũ tính tích cực CT-XH cho đối tượng. Hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN: Là sự tương quan giữa kết quả thực tế đạt được của quá trình GDCT-TT cho công nhân các KCN với mục đích của công tác GDCT-TT (được xác định bằng việc đề ra và hoàn thành các mục tiêu cụ thể trong từng thời điểm cụ thể, xác định) đề ra và với chi phí về nguồn lực hợp lý, tiết kiệm trong một điều kiện xã hội nhất định nhằm trang bị kiến thức chính trị, hình thành niềm tin, cổ vũ tính tích cực CT-XH cho công nhân các KCN. 1.3.2. Phân loại hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp Một là, phân loại theo phạm vi tác động: Có hiệu quả chung và hiệu quả cụ thể. Hai là, phân loại theo thời gian tác động: Có hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Ba là, phân loại theo lĩnh vực tác động: Có hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn. Bốn là, phân loại theo tính hiện thực của hiệu quả: Có hiệu quả sơ bộ, hiệu quả dự đoán và hiệu quả thực tế. Năm là, phân loại theo mức độ đạt được so với mục tiêu, mục đích đặt ra: Có hiệu quả trong dự định và hiệu quả ngoài dự định. 1.3.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp 1.3.3.1. Nhóm tiêu chí về sự tương quan giữa kết quả với mục tiêu Một là, các chủ thể có xác định mục tiêu đúng và trúng hay không. Hai là, mục tiêu xác định có phù hợp hay không, tức có quá cao hoặc quá thấp hay không. Ba là, có thực hiện đạt và vượt mục tiêu đặt ra hay không. 1.3.3.2. Nhóm tiêu chí về sự tương quan giữa kết quả với mục đích
  11. 11 Một là, tiêu chuẩn về tri thức. Hiệu quả này được đánh giá bằng các tiêu chí về nhận thức và kiến thức. Về nhận thức: Mức độ thấp nhất để xem công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN có hiệu quả hay không là bản thân đối tượng có hứng thú, sẵn sàng tiếp nhận các nội dung mà chủ thể truyền tải hay không. Người công nhân có thật sự có mong muốn tìm hiểu, hiểu biết những vấn đề liên quan đến chính trị như Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hay không. Về kiến thức: Mức độ hiểu biết của đối tượng về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; mức độ am hiểu về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và những chủ trương, chính sách liên quan trực tiếp đến bản thân người công nhân; về những tri thức mới tiếp nhận so với trước khi trở thành công nhân ở mức độ nào; sau mỗi buổi, một đợt GDCT-TT tri thức mới tiếp nhận của đối tượng tăng lên như thế nào. Hai là, tiêu chuẩn về niềm tin: (1). Mức độ tin tưởng vào sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tin tưởng vào sự đảm bảo công bằng của các cơ quan công quyền. (2). Có khả năng định hướng và đánh giá đúng các sự kiện, kiên định lập trường, quan điểm, nhất là trong các tình huống khó khăn. (3). Có ý thức trong đấu tranh bảo vệ tính đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Min; chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. (4). Thể hiện ở bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước mọi hoàn cảnh khó khăn, đấu tranh và tỏ thái độ trước các quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng, chính trị; các biểu hiện tiêu cực trong trong xã hội và trong cuộc sống. Ba là, tiêu chuẩn thực tiễn: Được đánh giá ở tính tích cực CT-XH theo trên các tiêu chí sau: Một là, bản thân người công nhân các KCN có ý thức cao về nghĩa vụ công dân, thể hiện ở việc gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Hai là, tham gia tích cực, tự giác vào việc nghiên cứu, phát triển sáng tạo, tuyên truyền, phổ biến Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ba là, tham gia tích cực, tự giác vào các lĩnh vực khác nhau của công tác xã hội; vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị đặt ra trước xã hội; vào việc quản lý các công việc của Nhà nước, của tập thể, của các tổ chức CT-XH. Bốn là, tham gia tích cực, tự giác vào việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; tham gia bầu cử các cơ quan chính quyền của Nhà nước; các tổ chức CT-XH; tham gia xây dựng Đảng… Năm là, tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống chính trị như tệ quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tham nhũng, thói thờ ơ chính trị…
  12. 12 1.4.3. Nhóm tiêu chí về sự tương quan giữa kết quả với chi phí Một là, tiêu chí về sử dụng nguồn nhân lực trong công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp: Xem xét tính hợp lý và tiết kiệm của việc sử dụng nguồn nhân lực cho toàn bộ hoạt động và cho từng hoạt động GDCT-TT; quy mô huy động và cường độ sử dụng nhiều hay ít. Hai là, tiêu chí về sử dụng kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện trong công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp: Xem xét tính hợp lý của việc phân bổ tài lực, vật lực cho từng hoạt động, cho các khâu, các quá trình của công tác GDCT-TT. Đối với một hoạt động công tác GDCT-TT, khi nào chi phí về tài chính, cơ sở vật chất, phương tiện phải thấp nhất, tức cùng một chi phí nhưng kết quả đạt được là cao nhất thì hoạt động này đã đạt hiệu quả. Ba là, tiêu chí về sử dụng thời gian trong công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp: Xem xét ở thời gian thực hiện các mục tiêu công tác GDCT-TT có diễn ra đúng kế hoạch hay không? Sớm hay muộn? Tổng thời gian giành cho từng hoạt động công tác và tổng thời gian giành cho toàn bộ công tác này trong từng giai đoạn là nhiều hay ít. Tính hợp lý, tiết kiệm của phân bổ khối lượng thời gian cho từng hoạt động cao hay thấp. Chương 2 ĐẶC ĐIỂM; NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ HIỆN NAY 2.1. Đặc điểm; những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay 2.1.1. Các khu công nghiệp và đặc điểm công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ Khái quát về các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ: ĐNB bao gồm 05 tỉnh thành: TP. Hồ Chí MInh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh. Toàn vùng ĐNB hiện có 116 KCN, KCX, khu kinh tế đã đi vào hoạt động với diện tích 37.946,29 ha. Số dự án còn hiệu lực là 4.937 với vốn đăng ký 69.014.488 nghìn USD (ngoài ra còn 50.249.580 nghìn đồng). Đặc điểm công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ: Vùng Đông Nam Bộ hiện có 1.039.795 công nhân đang làm việc tại các KCN, KCX, khu kinh tế. Riêng 03 địa phương mà đề tài tiến hành khảo sát là TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương, tổng số 748.078 người, chiếm 72,01% tổng số công nhân trên địa bàn. Công nhân các KCN ở miền Đông Nam Bộ có những đặc điểm, đó là: Trên 95 % công nhân các KCN ở miền ĐNB làm việc trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Đa số công nhân trong các KCN có trình độ học vấn hạn chế, nhiều người trong số họ trước khi trở thành công nhân chưa có điều kiện tiếp cận
  13. 13 cơ bản các nội dung về chính trị - tư tưởng. Lao động nữ chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu lao động chung của các KCN ở miền ĐNB. Đa số công nhân trong các KCN ở miền ĐNB là người nhập cư và làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực dịch vụ và sản xuất công nghiệp. Công nhân trong các KCN ở miền ĐNB làm việc trong các doanh nghiệp dưới sự quản lý của các chủ doanh nghiệp mà nhiều nhất là Hàn Quốc, Đài Loan. Tất cả những đặc điểm trên của công nhân các KCN ở miền ĐNB sẽ tác động không nhỏ đến hiệu quả công tác GDCT-TT cả ở thuận lợi và khó khăn, tất nhiên mặt khó khăn là rất lớn. 2.1.2. Những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ 2.1.2.1. Các yếu tố khách quan Một là, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Đây là xu thế tất yếu của xã hội và chắc chắn đã và đang tác động tới mọi lĩnh vực của đất nước, trong đó có công tác GDCT-TT. Hai là, cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức: Công tác GDCT-TT cho công nhân sẽ có hiệu quả khi các tiện ích của công nghệ thông tin được khai thác, áp dụng rộng rãi để chuyển tải nội dung một cách thuận lợi và tiết kiệm. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất là trước bối cảnh toàn cầu hóa thông tin hiện nay có thể sẽ tác động đến một bộ phận công nhân đó là các thông tin xấu, thông tin độc hại trên mạng xã hội đang ngày càng lấn át các thông tin tốt đẹp, thế nhưng bản thân người công nhân lại chưa có hiểu biết để “đề kháng”. Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày một từng bước hoàn thiện: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm nhiều hơn đến đội ngũ công nhân các KCN nên đời sống của công nhân các KCN dần được cải thiện. Đội ngũ công nhân có điều kiện để quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề chính trị của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đã xuất hiện những hạn chế, bất cập cần giải quyết. Công tác GDCT-TT sẽ góp phần giải quyết những hạn chế, bất cập này. Bốn là, môi trường làm việc và môi trường xã hội: Với một môi trường làm việc dân chủ, minh bạch và được bảo vệ về quyền lợi, được chăm sóc, được lắng nghe, được tự do bày tỏ quan điểm và chính kiến chắc chắn người công nhân sẽ rất gắn bó với môi trường ấy và quan tâm nhiều hơn đến chính trị. Năm là, điều kiện tự nhiên: Các điều kiện tự nhiên như địa hình, thời tiết, dân cư…có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả công tác GDCT-TT. Sáu là, điều kiện kinh tế - chính trị: Hệ thống chính trị vững mạnh thì các thiết chế tư tưởng, các chủ thể CTTT được tăng cường, vững mạnh. Không khí chính trị cởi mở, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người công nhân được thể hiện bằng việc ban hành những chủ trương, chính sách đáp ứng lợi ích thiết thực và chính đáng của người công nhân sẽ có tác dụng kích thích, thúc đẩy tinh thần hăng say học tập và sáng tạo của họ, giúp họ tin tưởng, kỳ
  14. 14 vọng hơn vào chế độ và họ sẽ quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề thiết thân cũng như những vấn đề về chính trị. Bảy là, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công nhân: Những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trườngđịnh hướng XHCN, mở rộng và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế gắn với vị trí, vai trò, nhiệm vụ to lớn của GCCN chính là cơ sở tạo điều kiện cho đội ngũ công nhân ngày càng phát triển lớn mạnh và ngày càng nâng cao ý thức giác ngộ chính trị. 2.1.2.2. Các yếu tố chủ quan Một là, về năng lực lãnh đạo, quản lý và sự quan tâm của các chủ thể: Việc quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện của các chủ thể thể hiện ở việc vạch ra mục tiêu, xây dựng kế hoạch và xác định các biện pháp phù hợp để thực hiện. Hai là, số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng: Số lượng và chất lượng cán bộ tư tưởng là nhân tố đảm bảo mang lại hiệu quả. Ba là, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện phù hợp, thiết thực, hấp dẫn: Sự huy động và sử dụng nhiều phương pháp, hình thức, phương tiện khác nhau sẽ giúp cho đối tượng có nhiều lựa chọn khác nhau để tiếp cận nội dung và đó cũng là biện pháp giúp phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong công tác GDCT-TT. Bốn là, tính đồng bộ, hiện đại và phương thức tiên tiến trong sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất: Phương tiện, cơ sở vật chất hiện đại, đồng bộ sẽ góp phần hạn chế chi phí, tăng tính hấp dẫn của nội dung, giảm chi phí về nhân lực của chủ thể. 2.2. Kết quả và thực trạng hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp miền Đông Nam Bộ 2.2.1. Kết quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp vùng Đông Nam Bộ Một là, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Đảng, các sự kiện chính trị: Trung bình mỗi năm có 68.28% tổng số công nhân các KCN trên địa bàn được tuyên truyền về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh Hai là, tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Trung bình mỗi năm có 69.89% tổng số công nhân các KCN trên địa bàn được tuyên truyền về pháp luật. 2.2.2. Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp miền Đông Nam Bộ 2.2.2.1. Việc xác định và đề ra mục tiêu - Thành tựu: Các chủ thể công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB đã quan tâm đến việc xác định mục tiêu hàng năm, nửa nhiệm kỳ và cả nhiệm kỳ. Có những địa phương đã xác định mục tiêu bằng những con số cụ thể.
  15. 15 - Những hạn chế: Mục tiêu là cái nhìn thấy, cái đo, đếm được. Đề ra mục tiêu càng cụ thể, rõ ràng càng dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong cả ba địa phương mà đề tài nghiên cứu, có những năm, có địa phương xác định mục tiêu nhưng chủ yếu là định tính và còn nhầm lẫn mục tiêu với nội dung. 2.2.2.2. Nhận thức chính trị - tư tưởng của công nhân Một là, về mức độ tham gia các quá trình truyên truyền, GDCT-TT: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, 50,5% ý kiến được hỏi cho biết đã thường xuyên tham gia các buổi tuyên truyền, giáo dục về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vẫn còn tới 49.5% ý kiến cho biết vẫn không thường tham gia các buổi tuyên truyền về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, về mức độ hứng thú: 39.16% ý kiến được hỏi trả lời có lúc hứng thú và có lúc không; 50.33% ý kiến cho biết không hứng thú. Cũng vậy, về mức độ hứng thú khi tham dự các buổi nghe tuyên truyền pháp luật vẫn có 20.83% ý kiến cho biết lúc có, lúc không và 12% ý kiến cho biết không hứng thú. Ba là, về mức độ mong muốn tìm hiểu: Đã có một bộ phận người lao động có nhu cầu và mong muốn tìm hiểu về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh với 17.16% ý kiến. Tuy nhiên, mức độ mong muốn tìm hiểu về pháp luật khá cao, với 67.16% ý kiến. Bốn là, mức độ quan tâm đến những sự kiện, hiện tượng đang diễn ra: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy cơ bản công nhân các KCN trên địa bàn quan tâm đến các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế với 74.16% ý kiến. Tuy nhiên, vẫn có 18.83% ý kiến cho biết không quan tâm và 07% ý kiến khó trả lời. 2.2.2.3. Kiến thức chính trị - tư tưởng của công nhân Một là, mức độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, nghị quyết của Đảng: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, đã có một bộ phận công nhân các KCN ở miền ĐNB có những hiểu biết cơ bản về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, nghị quyết của Đảng với 22.66% tự nhận có hiểu biết tốt và khá. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công nhân các KCN trên địa bàn vẫn còn nhiều hạn chế khi có tới 55.66% tự nhận chỉ có hiểu biết về nội dung này ở mức trung bình và vẫn còn 21.67% tự nhận thức có hiểu biết kém. Hai là, mức độ hiểu biết về chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến bản thân người công nhân: Đến nay, đã 100% người sử dụng lao động được tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và các quy định pháp luật liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp, hơn 85% công nhân được tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động cũng như các quy định pháp luật liên quan tới quyền và nghĩa vụ của công dân và người lao động. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, có 43.67% ý kiến cho biết bản thân có hiểu biết tốt và khá về pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có tới 45.5% ý kiến tự nhận có nhận thức trung bình và 10.83% tự nhận có nhận thức kém.
  16. 16 Ba là, về những tri thức mới tiếp nhận: Đa số công nhân khi được hỏi trả lời họ có hiểu biết về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước là sau khi vào làm công nhân (68.18%). Có 24.83% cho biết có hiểu biết trước khi vào và 07% ý kiến cho là cả trước và sau. 2.2.2.4. Về niềm tin Một là, mức độ tin tưởng vào sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tin tưởng vào sự đảm bảo công bằng của các cơ quan công quyền: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy có 63.67% số ý kiến được hỏi cho biết tin tưởng và có lúc tin tưởng, có lúc không đối với Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở mức độ không tin tưởng vẫn còn 24% ý kiến và có 12.23% ý kiến khó trả lời.. Về mức độ tin tưởng vào các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước hiện nay đối với người lao động: Đa số công nhân các KCN trên địa bàn cho biết tin tưởng với 61% ý kiến và có 14.33% ý kiến cho biết lúc có, lúc không. Tuy nhiên, vẫn còn 24.66% ý kiến cho biết không được quan tâm và khó trả lời. Hai là, mức độ định hướng và đánh giá đúng các sự kiện, kiên định lập trường, quan điểm, nhất là trong các tình huống khó khăn Về các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người lao động tại các doanh nghiệp hiện nay: Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy có 46,67% ý kiến cho biết đã được quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn 40.83% cho biết ít được quan tâm, 7.33% cho rằng không được quan tâm và 5.17% ý kiến cho biết khó trả lời. Về các chế độ, chính sách tại các doanh nghiệp: Có 48.5% ý kiến cho biết đã được quan tâm. Thế nhưng, vẫn còn 42.83% ý kiến cho biết ít được quan tâm, 4.67% cho biết không được quan tâm và có 04% khó trả lời. Ba là, mức độ trong đấu tranh bảo vệ tính đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Kết quả khảo sát của đề tài cũng cho thấy đã có một số công nhân đã bắt đầu có nhận thức và hành động trong việc tham gia đấu tranh, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Có 11% ý kiến cho biết sẽ ra sức tranh luận và tranh luận khi có một người cùng làm việc hoặc cư trú xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tất nhiên, đây là một vấn đề lớn đòi hỏi những người chủ động tham gia đấu tranh phải có trình độ học vấn, trình độ lý luận nhất định. Vì vậy, kết quả khảo sát của đề tài cho thấy có tới 85.83% ý kiến cho biết sẽ lắng nghe và không tranh luận… Bốn là, về bản lĩnh chính trị, tham gia đấu tranh, bày tỏ thái độ trước các quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng, chính trị; các biểu hiện tiêu cực trong trong xã hội và trong cuộc sống
  17. 17 Đa số công nhân các KCN ở miền ĐNB hiện nay đều chăm chỉ trong lao động và đã có môt bộ phận công nhân tham gia vào các công việc quản lý của cộng đồng. Một bộ phận công nhân đã tham gia vào các đội tự quản ở cộng đồng dân cư, tham gia bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội ở khu vực dân cư và trong khu vực các KCN. Ngày hội vì an ninh Tổ quốc được tổ chức hàng năm ở các KCN thu hút rất nhiều công nhân tham gia. 2.2.2.5. Biểu hiện ở tính tích cực chính trị - xã hội Một bộ phận công nhân các KCN vùng ĐNB đã có ý thức cao về nghĩa vụ công dân, gương mẫu trong lao động và trong cuộc sống. Tuyệt đại đa số công nhân chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trước đây, đã xảy ra tình trạng công nhân phản ứng cực đoan khi chủ doanh nghiệp sỉ nhục; tuy nhiên gần đây, trước tình huống này, đa số họ đã chọn hình thức báo cáo cho công đoàn và các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước. Không những chỉ trong lao động, trong cuộc sống thường ngày, các công nhân ở khu vực đã tham gia rất nhiều các phong trào tình nguyện vì cộng đồng như hiến máu cứu người, đóng góp xây dựng quỹ tương thâm tương ái hỗ trợ những công nhân không may bị tai nạn, bệnh tật… Đã có một bộ phận người lao động (34.16%) cho biết có tuyên truyền về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho người thân. Tuy nhiên, đây là công việc đòi hỏi cao về nhiều mặt nên vẫn có tới 50.16% ý kiến cho biết không tuyên truyền và 15.67% cho biết lúc có, lúc không. Tuy nhiên, đa số ý kiến khi được hỏi cho biết sẵn sàng góp ý kiến đối với các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nếu được các cơ quan có trách nhiệm đề nghị với 62.83% sẵn sàng, chỉ có 19.5% không sẵn sàng và 17.67% cho biết lúc có, lúc không. Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016- 2021, tỷ lệ công nhân các KCN ở miền ĐNB đi bầu cử rất cao (trên 98%). Kết quả này cũng cơ bản trùng khớp với kết quả nghiên cứu của đề tài khi có tới 98.67% cho biết sẵn sàng tham gia bầu cử. Đã có một bộ phận người lao động có hiểu biết về Đảng và có mong muốn được kết nạp vào Đảng. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, có 25% số ý kiến được hỏi cho biết có mong muốn được kết nạp vào Đảng. Tuy nhiên, vẫn có 36.33% ý kiến cho rằng lúc có, lúc không và 38.67% cho biết không có mong muốn. 2.2.2.6. Về huy động và sử dụng nguồn lực phục vụ công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân Một là, việc huy động nguồn lực con người Kết quả: Trong những năm qua, các chủ thể đã chú trọng xây dựng và kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên chính trị, pháp luật cho công nhân nói chung, trong đó có công nhân các KCN. Ngoài ra, LĐLĐ các tỉnh, thành còn tuyển chọn và bồi dưỡng được đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật là
  18. 18 công nhân để trực tiếp tư vấn và tuyên truyền pháp luật, chính trị cho công nhân, nhất là tư vấn về pháp luật. BTG các tỉnh, thành đã thường xuyên phối hợp với Trường Chính trị tỉnh, Học viện Cán bộ Thành phố mở các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên. Ở các Trung tâm bồi dưỡng cấp huyện các tỉnh, thành vùng Đông Nam Bộ thường xuyên mở các lớp về kỹ năng tuyên truyền, vận động cho cán bộ công đoàn, đoàn viên nòng cốt. Hạn chế: Trình độ và kỹ năng của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong công nhân vẫn chưa đồng đều. Nhiều người chưa được đào tạo căn bản về các kỹ năng tuyên truyền. Việc xã hội hóa, xây dựng lực lượng nòng cốt trong công nhân trở thành báo cáo viên, tuyên truyền viên vẫn còn hạn chế. Công tác phối hợp giữa các chủ thể trên địa bàn chưa ăn khớp... Kết quả điều tra của đề tài cho thấy, có 32.66% ý kiến được hỏi cho biết không hứng thú khi tham gia các buổi nghe tuyên truyền về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết của Đảng vì cách truyền đạt khô khan, thiếu hấp dẫn. Tỷ lệ này ở nội dung khi tham gia các buổi nghe tuyên truyền về pháp luật lên tới 75%. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, tính hấp dẫn, thuyết phục khi tuyên truyền của các chủ thể hiện nay chưa tạo ra hứng thú cho đối tượng. Hai là, về huy động nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện Mỗi năm, ngoài các tài liệu chung do Trung ương phát hành; mỗi tỉnh, thành trong khu vực đã chi nhiều tỷ đồng cho công tác GDCT-TT bằng việc đầu tư cho các tờ báo, tạp chí dành cho công nhân, chi cho các hoạt động GDCT-TT khác. Hiện nay, tài liệu GDCT-TT cho công nhân các KCN trên địa bàn rất đa dạng và phong phú, bao gồm các tài liệu do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và do các cơ quan của các tỉnh, thành phát hành. Được sự hỗ trợ của các doanh nghiệp và tổ chức đoàn thể, một số nhà trọ, khu lưu trú công nhân gần các KCN đã được trang bị tivi, dàn karaoke, tủ sách nhằm tạo điều kiện cho công nhân giải trí, có thêm thông tin, kiến thức xã hội. LĐLĐ các quận, huyện trên địa bàn đã phối hợp với các chủ nhà trọ tổ chức sinh hoạt định kỳ với công nhân về các vấn đề mà người công nhân quan tâm… Tuy nhiên, với đội ngũ đông đảo trên một triệu người, việc huy động nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện chính vẫn còn khó khăn và là gánh nặng đối với ngân sách. Công tác xã hội hóa, nhất là đóng góp của giới chủ doanh nghiệp cho công tác này chưa nhiều. Ba là, về huy động, sử dụng thời gian Nhiều hình thức GDCT-TT phong phú đã được các chủ thể sử dụng để tiết kiệm thời gian. Chẳng hạn, hiện nay, chương trình “Đồng hành cùng công nhân” của Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Dương được phát vào 12h30 ngày thứ 5 hàng tuần và phát lại vào 9g30 chủ nhật hàng tuần, đó là những thời gian thuận tiện để người lao động có thể nghe, nếu không kịp nghe vào trưa thứ 5 họ
  19. 19 vẫn có điều kiện nghe lại vào sáng chủ nhật...Thời gian được huy động nhiều nhất là thời gian trong giờ làm việc 08 tiếng theo quy định của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các địa phương trên địa bàn đã làm việc với các doanh nghiệp để các chủ sử dụng lao động tạo điều kiện cho công nhân tham gia. Tất cả thời gian công nhân tham gia học đều được tính lương và các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định. Trong các doanh nghiệp, đã có nhiều hoạt động văn hóa - văn nghệ được các chủ doanh nghiệp tạo điều kiện cho công nhân tổ chức cả trong giờ làm việc nếu trùng với các ngày lễ của đất nước. Về cơ bản, việc huy động và sử dụng thời gian cho công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN trên địa bàn là khá hợp lý. Tuy nhiên, trong thực tế có những nội dung tuyên truyền cần phải kịp thời thì khi được triển khai đến người công nhân đã mất đi tính thời sự và có những vụ việc đáng tiếc đã xảy ra do hạn chế này. 2.2.3. Sự tương quan giữa kết quả với mục tiêu, kết quả với mục đích và kết quả với sử dụng nguồn lực 2.2.3.1. Sự tương quan giữa kết quả với mục tiêu Về nội dung tuyên truyền, phổ biến các nghị quyết của Đảng, các sự kiện chính trị: Mục tiêu đặt ra là 88.33%, kết quả đạt được là 68.28%. Về tuyên truyền pháp luật: Mục tiêu đề ra là 88.33%, kết quả đạt được là 69.89%. 2.2.3.2. Sự tương quan giữa kết quả với mục đích Về trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, nghị quyết của Đảng: Kết quả có 68.28% công nhân trên địa bàn đã được tuyên truyền. Khảo sát của đề tài cho kết quả có 78.32% ý kiến tự đánh giá có trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, nghị quyết của Đảng, trong đó tự đánh giá mức tốt là 8.66%, khá 14%, trung bình 55.66%. Có 21.67% tự đánh giá là kém. Đối với nhận thức về pháp luật: Kết quả có 69.89% công nhân trên địa bàn đã được tuyên truyền. Khảo sát của đề tài cho thấy có 11.67% tự nhận là tốt, 32% khá, 45.5% ở mức trung bình và chỉ có 10.83% tự nhận là kém. Về mức độ tin tưởng vào sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; Chỉ có 10.67% tin tưởng, 53% cho biết lúc có lúc không. Tuy nhiên vẫn có tới 24% cho biết không tin tưởng và 12.33% cho biết khó trả lời. Mức độ tin tưởng vào các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với người lao động: Có 61% ý kiến cho biết tin tưởng; 14.33% cho biết lúc có, lúc không: 14.33%. Chỉ có 8.33% cho biết không tin tưởng và 16.33% ý kiến cho biết khó trả lời. Về tính tích cực CT-XH: Chỉ có 3.11% ý kiến cho biết sẽ ra sức tranh luận, phản bác khi có một người nào đó xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; 7.33% ý kiến cho biết có tranh luận
  20. 20 nhưng không đủ sức thuyết phục; 85.83% cho biết lắng nghe nhưng không tranh luận và 3.17% cho biết sẽ có hành động khác. Với câu hỏi về việc có ai đó rủ rê tham gia biểu tình, đình công, lãn công trái pháp luật: 68.83% cho biết không tham gia; 5.5% ý kiến cho rằng sẽ thuyết phục lại người rủ mình nên tham gia khi công đoàn tổ chức. Vẫn còn 17.67% cho biết sẽ tham gia và 8% cho biết khó trả lời. Hiệu quả tác GDCT-TT cho công nhân các KCN ở miền ĐNB được đo từ phía đối tượng thông qua kết quả khảo sát về nhận thức/ tri thức; thái độ/ niềm tin và tính tích cực CT-XH của đối tượng. Nếu so sánh kết quả khảo sát nêu trên với kết quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN trên địa bàn cho thấy hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân trên địa bàn đạt được là cơ bản ở các bình diện nhận thức, tri thức; thái độ, niềm tin. Riêng tính tích cực xã hội vẫn còn rất nhiều hạn chế. 2.2.3.3. So sánh kết quả với sử dụng nguồn lực Từ sự so sánh kết quả với mục tiêu, với mục đích và với nguồn lực có thể khẳng định: Kết quả đạt được chưa tương ứng với mục tiêu đề ra; so sánh tương quan giữa kết quả và mục đích, về cơ bản đạt được mục đích đặt ra ở nhận thức/kiến thức, thái độ/niềm tin nhưng chưa đạt hiệu quả ở việc phát huy tính tích cực CT-XH (nội dung quan trọng nhất mà chủ thể kỳ vọng và mong muốn). Riêng tương quan giữa kết quả với nguồn lực là khá cao. 2.3. Những vấn đề đặt ra về hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho công nhân các khu công nghiệp ở miền Đông Nam Bộ hiện nay Một là,mâu thuẫn giữa yêu cầu phải nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất với hạn chế của các chủ thể hiện nay. Hai là,mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác GDCT-TT cho công nhân các KCN trên địa bàn với những hạn chế của đối tượng. Ba là,mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới nội dung công tác GDCT-TT cho công nhân trên địa bàn với những hạn chế bất cập của nội dung GDCT-TT hiện nay đang sử dụng trên địa bàn. Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới phương pháp, hình thức công tác GDCT-TT cho công nhân với sự chậm trễ của công tác này; giữa yêu cầu sử dụng các phương tiện hiện đại với sự lạc hậu của các phương tiện hiện nay. Năm là,mâu thuẫn giữa tính thống nhất của hệ thống GDCT-TT với môi trường, điều kiện diễn ra công tác GDCT-TT cho công nhân trên địa bàn. Sáu là, mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng lớn với hạn chế về nguồn lực hiện nay. Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO CÔNG NHÂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ 3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực của các chủ thể; quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy, con người
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0