intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

18
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu sự mối quan hệ của truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của báo chí truyền hình trong HĐLP của Quốc hội Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN --------------------------------- VŨ THỊ KHUYÊN TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành : Báo chí học Mã số : 93 201 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC HÀ NỘI - 2021
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN Người hướng dẫn khoa học: 1. GS, TS. Vũ Văn Hiền 2. PGS,TS. Đỗ Chí Nghĩa Phản biện 1: PGS, TS. Đinh Thị Thuý Hằng, Hội Nhà báo Việt Nam Phản biện 2: PGS, TS. Nguyễn Ngọc Oanh Học viện Báo chí và Tuyên truyền Phản biện 3: PGS, TS. Nguyễn Thành Lợi, Tạp chí Người làm báo Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án cấp Học viện, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, địa chỉ số: 36 Xuân Thủy, đường Cầu Giấy, TP. Hà Nội. Vào hồi:...... giờ...... ngày..... tháng ...... năm 2021 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia, Thư viện Học viện Báo chí và Tuyên truyền
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trên cơ sở tổng kết các bài học kinh nghiệm của 35 năm Đổi mới, phân tích các tình hình thực tế phát triển đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục xác định định hướng chiến lược trong xây dựng nhà nước ở Việt Nam là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả…” [Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII, trang 26]; Mục tiêu cơ bản để thực hiện định hướng ấy được Đại hội xác định là: “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững” [Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII, Trang 50]. Trong đó, nhiệm vụ trung tâm: “Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp…” [Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII, Trang 50]. Có thể khẳng định rằng vận dụng sáng tạo, thể chế hóa các đường lối chủ trương của Đảng đóng vai trò là nhiệm vụ trung tâm của toàn bộ sự ngiệp cách mạng. Để các hoạt động trung tâm ấy có thể được thực hiện một cách hiệu quả, được thực hiện trên thực tế, HĐLP của Quốc hội được coi là khâu then chốt của toàn bộ nhiệm vụ trung tâm ấy. Rõ ràng, nghiên cứu nhằm đề xuất các điều kiện, nhân tố tác động nâng cao hiệu quả HĐLP của quốc hội luôn luôn là một trong những yêu cầu thường xuyên, cơ bản của thực tiễn hiện nay. Thực tế những năm qua cho thấy, HĐLP của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã và đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết trong toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, khâu chủ yếu có tính quyết định để hiện thực hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam vào thực tiễn cuộc sống, góp phần chủ yếu vào mục tiêu tổng quát xây dựng thành công đất nước Việt Nam trở thành quốc gia XHCN dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh. Lập pháp là chức năng hàng đầu của Quốc hội. Quốc hội, bao gồm các Đại biểu Quốc hội tại kỳ họp mới là chủ thể duy nhất có thẩm quyền thay mặt nhân dân thông qua các dự án luật. Vì vậy, hoạt động lập pháp của Quốc hội có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chức năng lập pháp và quá trình xây dựng luật góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới.
  4. 2 Tiếp cận hệ thống – cấu trúc cho phép đưa ra nhận định rằng: mối liên hệ hữu cơ giữa một bên là Quốc hội đại diện cho ý chí và quyền lực dân chủ của nhân dân, cùng toàn bộ hoạt động của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, trong đó có HĐLP nhằm thực hiện các ý chí quyền lực dân chủ ấy, với một bên là toàn thể nhân dân, là khối đại đoàn kết dân tộc - chủ thể của toàn bộ hệ thống quyền lực dân chủ XHCN đang được xây dựng ở Việt Nam là mối liên hệ chủ yếu, quyết định đối với xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam, tiền đề chính trị chủ yếu cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo. Trong tập hợp chỉnh thể các tác nhân có vai trò cơ bản và chủ yếu đối với phát triển, củng cố mối liên hệ chủ yếu quyết định ấy báo chí, truyền thông đại chúng nói chung, báo chí truyền hình nói riêng có vai trò to lớn. Với chức năng là phương tiện thông tin đại chúng, báo chí và báo chí truyền hình đã và đang khẳng định phạm vi ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chuyển tải thông tin về HĐLP của Quốc hội đến với đồng bào cử tri, công chúng truyền thông trong cả nước, trong giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động thực thi pháp luật, HĐLP… Với thế mạnh về hình ảnh, âm thanh sống động, báo chí truyền hình đã và đang đóng góp không nhỏ vào quy trình HĐLP: cung cấp thông tin mang tính gợi ý đề xuất cho các sáng quyền lập pháp, các đề nghị xây dựng dự án luật; cung cấp thông tin mang tính gợi ý đề xuất đối với soạn thảo, ban hành các luật hoặc luật sửa đổi bổ sung, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật và chính sách mới; chuyển tải các thông tin nhằm phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho các tổ chức, cá nhân, quần chúng nhân dân; truyền tải thông tin về tâm tư, nguyện vọng của cử tri về các điều luật và dự thảo luật đến Quốc hội và phản ánh chân thực, đa dạng các vấn đề của đời sống, tạo cơ sở thực tiễn cho công tác nghiên cứu xây dựng luật pháp. Bên cạnh những đóng góp to lớn, quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả HĐLP, truyền hình trong HĐLP cũng đang đứng trước một số vấn đề cần nhận thức, giải quyết. Đó là các vấn đề liên quan đến quản lý các hoạt động truyền hình trong HĐLP của quốc hội Việt Nam; Các vấn đề liên quan đến đội ngũ cán bộ làm truyền hình lập pháp; các vấn đề liên quan đào tạo, sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm truyền hình lập pháp; các vấn đề liên quan đến tính tương tác của truyền hình trong HĐLP. Toàn bộ hoạt động của truyền hình trong HĐLP, cả những ưu điểm, thành tựu, cả những thiếu sót và các vấn đề đặt ra đều đang đòi hỏi triển khai những
  5. 3 nghiên cứu cần thiết nhằm luận chứng cho phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả phục vụ HĐLP của báo chí truyền hình lập pháp. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống những vấn đề được đề cập trên đây. Nhất là còn thiếu vắng các nghiên cứu theo tiếp cận báo chí học, kết hợp với tiếp cận truyền thông xã hội trong HĐLP. Đây là lý do chủ yếu để nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề về vai trò của truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam hiện nay làm đề tài cho luận án tiến sĩ báo chí học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nghiên cứu sự mối quan hệ của truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của báo chí truyền hình trong HĐLP của Quốc hội Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thứ nhất, thực hiện tổng quan kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về mối quan hệ qua lại và vai trò của báo chí truyền hình với HĐLP; - Thứ hai, luận chứng cho cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của nghiên cứu mối quan hệ qua lại và vai trò truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam; - Thứ ba, khảo sát, đánh giá thực trạng mối quan hệ, vai trò giữa truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam; - Thứ tư, luận chứng cho các giải pháp chủ yếu, các khuyến nghị khoa học nhằm phát huy vai trò của truyền hình với HĐLP của Quốc hội ở Việt Nam. 3. Giả thuyết nghiên cứu - Giả thuyết thứ nhất Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản lý của nhà nước là yếu tố tiên quyết, chủ yếu đảm bảo hiện thực hóa một cách hiệu quả quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng và củng cố từng bước nền dân chủ XHCN. Báo chí truyền thông là một trong số các phương thức cơ bản hiện thực hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý điều hành của Nhà nước, có vai trò đặc biệt quan trọng các hoạt động của nhà nước nói chung, của Quốc hội và HĐLP (HĐLP) của Quốc hội nói riêng. Giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản lý điều hành của nhà nước là yếu tố tiên quyết, chủ yếu phát huy vai trò của báo chí truyền hình đối với HĐLP của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. - Giả thuyết thứ hai
  6. 4 Hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tại các kỳ họp của Quốc hội là chủ thể duy nhất, có vai trò chủ yếu thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo chí nói chung, báo chí truyền hình nói riêng có quan hệ mật thiết và có vai trò to lớn trong các HĐLP của Quốc hội. Việc củng cố và tăng cường mối quan hệ kết hợp giữa các chủ thể của HĐLP với các chủ thể báo chí truyền hình lập pháp là phương hướng, giải pháp cơ bản của phát huy vai trò truyền hình với HĐLP của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. - Giả thuyết thứ ba HĐLP của Quốc hội đang có những bước phát triển mạnh mẽ, luôn đặt ra yêu cầu đòi hỏi những đổi mới mạnh mẽ, tương ứng trong hoạt động truyền hình lập pháp. Sự phát triển năng động, mạnh mẽ trong mọi mặt đời sống xã hội, cùng với đó trình độ dân trí, trình độ làm chủ của nhân dân ngày càng được nâng lên cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi những thay đổi tương ứng hoạt động truyền hình lập pháp. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ báo chí truyền hình lập pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn giỏi, có khả năng làm chủ và phát huy tính năng của các phương tiện truyền hình hiện đại là một phương hướng cơ bản của phát huy vai trò truyền hình với HĐLP. Giả thuyết thứ tư Chất lượng nội dung và hàm lượng thông tin là một yếu tố cơ bản mang tính quy định đối với chất lượng, hiệu quả truyền thông của các sản phẩm báo chí truyền thông. Hình thức sáng tạo và chuyển tải các sản phẩm báo chí truyền thông và các chương trình báo chí truyền hình cũng là yếu tố cơ bản mang tính quy định đối với chất lượng, hiệu quả truyền thông của các sản phẩm báo chí truyền thông. Vì vậy, nâng cao chất lượng nội dung thông tin và đổi mới hình thức các chương trình truyền hình chính là một phương hướng giải pháp quan trọng phát huy có hiệu quả vai trò của truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ qua lại và vai trò truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là đánh giá thực trạng mối quan hệ qua lại và vai trò truyền hình với HĐLP, khảo sát các tác phẩm truyền hình lập pháp trong các chương trình Thời sự Tổng hợp trên Kênh VTV1, khảo sát chương trình truyền hình của Truyền hình Quốc hội (Quốc hội TV) từ năm 2016 đến nay.
  7. 5 5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn - Cơ sở lý luận của luận án là lý thuyết truyền thông hiện đại, về truyền thông phát triển, về vai trò của báo chí truyền thông đối với sự phát triển xã hội, các lý thuyết này lại được thực hiện theo tiếp liên ngành giữa báo chí truyền thông với lý luận về nhà nước và pháp luật. - Cơ sở thực tiễn của nghiên cứu luận án là những quan điểm cơ bản của Đảng về báo chí cách mạng Việt Nam, trong chỉ đạo xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và những quyết sách lớn của Đảng, của Nhà nước trong lộ trình xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Phương pháp luận Dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trực tiếp là lý luận về tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, luận án tiến hành nghiên cứu mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa báo chí truyền thông với HĐLP với tính cách là các thành tố của kiến trúc thượng tầng của một hình thái kinh tế - xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 5.2.2. Phương pháp nghiên cứu chủ đạo Phương pháp chủ đạo được thực hiện trong luận án là phương pháp phân tích - tổng hợp kết hợp một cách hợp lý với phương pháp quy nạp - diễn dịch. 5.2.3. Phương pháp cụ thể Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận án bao gồm: các phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phương pháp phỏng vấn sâu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp một phần làm rõ một số khái niệm công cụ: báo chí truyền hình lập pháp, quy trình lập pháp của Quốc hội, làm rõ hơn mối quan hệ qua lại và vai trò giữa báo chí truyền hình với HĐLP. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu báo chí truyền thông với HĐLP Việt Nam hiện nay. - Luận án có thể được dùng là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập cho sinh viên báo chí và truyền thông; cung cấp thông tin cho các nhà lãnh đạo quản lý các báo chí trong HĐLP, lãnh đạo và quản lý của Truyền hình Quốc hội. 7. Đóng góp mới của luận án
  8. 6 - Luận án đã đánh giá một cách cơ bản thực trạng vai trò truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam; - Đề xuất và luận chứng cho các giải pháp tác động, các khuyến nghị khoa học nhằm phát huy vai trò truyền hình đối với HĐLP của Quốc hội Việt Nam hiện nay. 8. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án có kết cấu gồm 3 chương và 7 tiết. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN Toàn bộ những phân tích lược thuật tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đối tượng, phạm vị nghiên cứu của luận án, cho phép NCS nêu ra ba nhóm kết quả nghiên cứu đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập, luận giải: - Thứ nhất, nhóm kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ và đầy đủ một số khái niệm: truyền thông đại chúng, báo chí, báo chí truyền hình, vai trò của báo chí truyền thông, truyền hình đối với sự phát triển xã hội nói chung, cũng như trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội nói riêng; HĐLP của Quốc hội và vai trò của báo chí truyền thông trong HĐLP trong và ngoài nước; - Thứ hai, nhóm kết quả nghiên cứu ở các mức độ khác nhau đã khảo sát, phân tích thực tiễn, trên cơ sở đó đã đề cập luận chứng có vai trò của báo chí truyền thông, truyền hình với HĐLP. Trong đó cũng đã có một số bài báo, bài tham luận khoa học đề cập vai trò báo chí trong truyền thông chính sách công, truyền thông HĐLP, trong đó có HĐLP của Quốc hội Việt Nam; - Thứ ba, nhóm kết quả nghiên cứu đã công bố trong một số bài tham luận Hội thảo, bài báo khoa học đề cập, luận chứng cho khía cạnh này hay khác trong cơ chế tác động qua lại giữa báo chí với HĐLP và HĐLP với báo chí. Những kết quả nghiên cứu nói trên là hết sức bổ ích, có giá trị để thực hiện các công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của báo chí truyền thông đối với các lĩnh vực hoạt động cơ bản của xã hội, ở Việt Nam. Trong đó có các công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của báo chí, báo chí truyền hình đối với đời sống chính trị - xã hội, trong đó có sự hoạt động, sự vận hành của các tổ chức, các thiết chế chính trị, dân chủ và nhà nước… Tuy nhiên kết quả tổng quan cũng cho thấy rõ ràng là chưa có một chuyên khảo khoa học nào thực hiện nghiên cứu một cách hệ thống về vai trò của báo chí truyền hình đối với HĐLP của Quốc hội Việt Nam, trong tương quan với mối quan hệ tác động qua lại giữa báo chí truyền hình với HĐLP, giữa HĐLP với báo chí truyền hình.
  9. 7 Đây chính là một vấn đề cần nghiên cứu, một khoảng trống khoa học cần được khắc phục. Đó là lý do chủ yếu để NCS lựa chọn vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa báo chí truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam làm hướng nghiên cứu chủ đạo cho luận án tiến sỹ chuyên ngành báo chí học của mình. Trong luận án này, NCS đã kế thừa, vận dụng và phát triển các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam và thế giới về báo chí truyền hình, vai trò của báo chí và báo chí truyền hình, về HĐLP và HĐLP của Quốc hội… trong khảo sát thực trạng truyền hình trong HĐLP, phát hiện các vấn đề và nguyên nhân, đề xuất các giải pháp, các khuyến nghị khoa học nhằm phát huy vai trò của truyền hình trong HĐLP của Quốc hội Việt Nam. Tiểu kết tổng quan Để có thể thực hiện được mục đích nghiên cứu nhằm đề xuất, luận chứng cho các giải pháp chủ yếu, một số khuyến nghị khoa học nhằm phát huy vai trò truyền hình với HĐLP của Quốc hộiVN, luận án đã tham khảo, sử dụng những thành tựu nghiên cứu hiện đại được nêu trong tổng quan. Đó là tiền đề lý thuyết, những gợi ý lý luận bổ ích cho luận án. Nhưng để có thể nghiên cứu đề xuất các giải pháp, khuyến nghị phát huy vai trò truyền hình trong HĐLP của Quốc hội Việt Nam, điều chủ yếu hơn là từ những giá trị tiền đề ấy, luận án đã xây dựng được một cơ sở lý thuận và thực tiễn chắc chắn cho nghiên cứu vai trò báo chí truyền hình với HĐLP, để trên cơ sở lý luận và thực tiễn ấy, thiết kế, thực hiện các công cụ nghiên cứu phù hợp nhằm khảo sát đánh giá đúng thực trạng vai trò truyền hình lập pháp với HĐLP của Quốc hội Việt Nam. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Quan niệm cơ bản về truyền hình 1.1.1. Khái niệm truyền hình 1.1.1.1. Truyền hình là một phương tiện truyền thông xã hội Truyền hình (hay báo chí truyền hình, television) là một loại hình hay “một loại hình phương tiện truyền thông đại chúng truyền tải thông tin bằng hình ảnh động” [106, tr.128]. “Thông tin được truyền tải bao gồm nhiều loại khác nhau: báo chí, khoa học giáo dục, điện ảnh, ca nhạc, giải trí, quảng cáo... Do đó khi nghiên cứu về truyền hình cần phân biệt các loại thông tin, mục đích và đối tượng truyền thông của các chương trình đó” [104, tr.184]. 1.1.1.2. Truyền hình là một loại hình báo chí
  10. 8 Truyền hình là một loại hình báo chí truyền thông. Cùng với báo viết, báo phát thanh, truyền hình, báo mạng - điện tử hợp thành hệ thống báo chí truyền thông của xã hội. Đặc thù và cũng là ưu thế của truyền hình là ở chỗ, truyền hình sử dụng ngôn ngữ hình ảnh động, kết hợp được các ưu điểm của các loại hình báo chí khác trong cùng một sản phẩm truyền hình. Với sự ứng dụng ngày càng mạnh mẽ các phương tiện truyền thông hiện đại, truyền hình có ưu thế lớn trong thiết kế, thực hiện các chương trình sản phẩm truyền hình chuyên biệt, với độ tương tác cao, thu hút ngày càng đông đảo sự tham gia của công chúng truyền hình. 1.1.2. Chức năng cơ bản của truyền hình Truyền hình bao gồm 6 chức năng cơ bản, bao gồm: chức năng thông tin; chức năng nhận thức, giáo dục; chức năng tư tưởng; chức năng tổ chức và quản lý xã hội; chức năng giải trí và chức năng giám sát và phản biện xã hội. Mỗi một tác phẩm báo chí truyền hình được sáng tạo đều nhằm vào việc thực hiện một hoặc hai chức năng chủ đạo trong số các chức năng nói trên. Nhưng trong khi hướng chủ yếu vào thực hiện các chức năng chủ đạo ấy, người làm truyền hình cần chú ý đến mối tương quan hợp lý với các chức năng còn lại. Trong số 6 chức năng cơ bản của truyền hình, NCS cho rằng các chức năng: nhận thức & giáo dục, tư tưởng, giám sát và phản biện xã hội là các chức năng chủ đạo của truyền hình trong HĐLP. Các chức năng còn lại được thực hiện nhằm vào việc thực hiện có hiệu quả các chức năng chủ đạo ấy. 1.2. Quốc hội Việt Nam, hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam 1.2.1. Quốc hội Việt Nam Quốc hội trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất cho quyền lực dân chủ của của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Đặc trưng cơ bản của Quốc hội Việt Nam Trên cơ sở tìm hiểu các văn bản pháp lý hiện hành, NCS nêu lên một cách khái quát 5 đặc trưng cơ bản của Quốc hội Việt Nam: một là, về cách thức thành lập Quốc hội; hai là, đặc trưng về nhiệm kỳ, số lượng, cơ cấu thành phần đại biểu chuyên trách và không chuyên trách; ba là, đặc trưng về cơ cấu đại biểu theo đơn vị hành chính; bốn là, đặc trưng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm đại biểu Quốc hội; năm là, đặc trưng chủ yếu nhất - Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.
  11. 9 1.2.2. Chức năng của Quốc hội Việt Nam - Chức năng lập hiến, lập pháp - Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước - Chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước 1.2.3. Hoạt động lập pháp của Quốc hội 1.2.3.1. Quan niệm cơ bản Lập pháp thường được sử dụng với các ý nghĩa: thứ nhất, là chức năng cơ bản của Quốc hội; thứ hai, là quyền lập pháp; thứ ba, là HĐLP. - Hoạt động lập pháp Theo nghĩa hẹp, HĐLP là hoạt động làm ra pháp luật, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo nghĩa rộng, ngoài nội dung chủ yếu là hoạt động làm ra pháp luật, HĐLP còn bao gồm: một là, hoạt động hỗ trợ cho việc làm ra pháp luật, được gọi là hoạt động hỗ trợ lập pháp; hai là, hoạt động ủy quyền lập pháp, là HĐLP được Quốc hội ủy quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện. Luận án tiếp cận nghiên cứu HĐLP chủ yếu theo nghĩa rộng, với hướng nghiên cứu chủ đạo là hoạt động làm ra pháp luật, trong quan hệ hữu cơ giữa lập pháp với hỗ trợ lập pháp, ủy quyền lập pháp. Đồng thời, mỗi một trong số các hoạt động ấy lại đặt ra những yêu cầu cụ thể khác nhau đối với truyền hình lập pháp. 1.2.2.2. Quy trình hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam Quy trình HĐLP của Quốc hội Việt Nam được tiến hành theo 4 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất: soạn thảo, chuẩn bị dự án luật, gồm các bước: tổng kết thực tiễn, soạn thảo các dự án, tổ chức các cuộc thảo luận xây dựng dự án; giai đoạn thứ hai, giai đoạn thẩm tra dự án luật, gồm các bước, các công việc phân công thẩm tra dự án luật; chuẩn bị các cuộc họp thẩm tra; tổ chức phiên họp thẩm tra; thảo luận tại phiên họp thẩm tra; hoàn tất báo cáo thẩm tra; giai đoạn thứ ba, giai đoạn UBTVQuốc hội là chủ thể duy nhất cho ý kiến trước khi trình Quốc hội; giai đoạn thứ tư, giai đoạn Quốc hội thảo luận để thông qua dự án luật, pháp lệnh, chuyển Chủ tịch nước công bố.1 1.3. Mối quan hệ qua lại giữa truyền hình với hoạt động lập pháp 1.3.1. Truyền hình với hoạt động lập pháp Quan hệ của truyền hình lập pháp với HĐLP của Quốc hội Việt Nam, trong luận án này được hiểu là vai trò khách quan được biểu hiện thành những nhiệm vụ cơ bản của truyền hình nhằm mục đích hiện thực hóa các chức năng vốn có 1 https://tcnn.vn/news/detail/37324/Quy_trinh_lap_phap_o_Viet_Nam_va_vai_tro_cua_dai_bieu_Quoc_hoi
  12. 10 của truyền hình lập pháp, tạo ra tác động của truyền hình đối với HĐLP, góp phần thực hiện hiệu quả các HĐLP của Quốc hội Việt Nam. Các mối quan hệ cơ bản - Cung cấp thông tin cho các nhà hoạt động lập pháp. - Tuyên truyền/truyền thông đến đông đảo nhân dân những thông tin của hoạt động lập pháp. - Định hướng và tạo diễn đàn dư luận xã hội liên quan đến hoạt động lập pháp. - Giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động lập pháp. Trên thực tế, hai mối quan hệ này có thể được gọi là hai mặt thống nhất của mối quan hệ truyền hình lập pháp với HĐLP, tồn tại một cách khách quan, song hành và có tác động quan lại với nhau. Luận án sử dụng tiếp cận chủ đạo theo chiều vai trò tác động của truyền hình với HĐLP của Quốc hội, các tác động trở laị của HĐLP với truyền hình được đề cập với tính cách yếu tố tác động nhằm nâng cao, phát huy vai trò của truyên hình với HĐLP. 1.3.2. Hoạt động lập pháp với truyền hình - Xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động báo chí. - Nâng cao vị thế của báo chí truyền hình qua truyền hình các hoạt động lập pháp Trong luận án này, vấn đề phát huy vai trò của truyền hình thông qua truyền hình lập pháp đươc đề cập và phân tích theo 3 giai đoạn cơ bản của quá trình lập pháp: thứ nhất, giai đoạn đề nghị xây dựng luật; thứ hai, giai đoạn soạn thảo dự án luật và thứ ba, giai đoạn xem xét, thông qua dự án luật và công bố luật. Bên cạnh đó, NCS cho rằng cần coi trọng nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách pháp luật, bao gồm các luật mới ban hành. Hơn thế, đây là một giai đoạn rất quan trọng trong một quy trình hoạt động lập pháp. Tiểu kết chương 1 Nội dung đặc thù và là kết quả nghiên cứu chính của chương 1 bao gồm: thứ nhất, nghiên cứu luận chứng cho cơ sở lý luận của luận án; đó là những đề cập phân tích đối với các khái niệm: truyền hình trong HĐLP, khái niệm lập pháp, nội dung nội dung cơ bản, quy trình HĐLP…; thứ hai, phân tích và luận chứng cho cơ sở thực tiễn của nghiên cứu luận án, thông qua việc phân tích, nêu ra một cách cơ bản những nhận thức liên quan đến Quốc hội Việt Nam, các chủ thể HĐLP và quy trình HĐLP của Quốc hội Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu mà NCS đã hoàn thành trong chương 1 là tiền đề trực tiếp cho các nghiên cứu khảo sát đánh giá thực trạng vai trò truyền hình với hoạt động lập phát, những thành tựu, thiếu sót, các vấn đề đặt ra và nguyên nhân… là những nhiệm vụ
  13. 11 nghiên cứu cơ bản tiếp theo của luận án sẽ được triển khai trong chương tiếp theo của luận án. Chương 2 TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ NGUYÊN NHÂN 2.1. Thực trạng mối quan hệ truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam 2.1.1. Thực trạng mối quan hệ truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội 2.1.1.1. Cung cấp thông tin cho các nhà hoạt động lập pháp Kết quả phân tích các số liệu khảo sát đối với một số tác phẩm, chương trình truyền hình lập pháp trên VTV 1, Quốc hội TV cho thấy: một là, các chương trình truyền hình đã luôn bám sát thực tế, phản ánh đúng, trúng nhiều vấn đề liên quan đến những bất cập trong thực thi chính sách pháp luật đang được xã hội quan tâm, góp phần tạo được các diễn đàn trao đổi, tranh luận, phát huy được vai trò định hướng dư luận xã hội của truyền hình…; hai là, nhiều chương trình đã thực sự cung cấp những thông tin xác thực quan trọng để các nhà HĐLP có thể sử dụng, tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật, chính sách; ba là, truyền hình đã có được những đóng góp cụ thể, thiết thực góp phần quan trọng trong HĐLP thông qua các chương trình vào quộc tham gia phản biện đối với một số dự luật, dự thảo chính sách mới, những đề án quan trọng đối với quốc kế dân sinh. Tuy nhiên, việc trùng lặp nội dung, chủ đề cũng là một thiếu sót tồn tại. 2.1.1.2. Truyền tải thông tin hoạt động lập pháp đến với công chúng - Tần suất theo dõi thông tin lập pháp trên truyền hình Ngoài sản xuất sản phẩm truyền hình trong các chuyên mục liên quan, truyền hình trực tiếp là phương thức được coi trọng trên thực tế, nhất là các Kỳ họp Quốc hội có chương trình nghị sự liên quan đến lập pháp luôn thu hút được sự quan tâm theo dõi của một số lượng lớn công chúng truyền hình. Tuy nhiên, tần suất này cũng chưa thật khả quan, khi tỷ lệ theo dõi thường xuyên chỉ đạt 50,8% với VTV1, 9,6% với Quốc hội TV. - Mức độ quan tâm của công chúng truyền hình đối với các nội dung thông tin HĐLP Nội dung thông tin HĐLP trên kênh Quốc hội TV được quan tâm. Kênh truyền hình này đã có một lượng khá dồi dào các đầu chương trình dành cho việc phản ánh ý kiến các chuyên gia, nhà nghiên cứu…, cùng với đó là loạt bài phân tích, gợi mở, định hướng qua các câu chuyện bên lề, các phỏng vấn sâu đối với
  14. 12 đại biểu quốc hội, chuyên gia lập pháp. Nhờ đó có số lượng, tỷ lệ khả quan công chúng quan tâm: 46% quan tâm đến nội dung phổ biến tuyên truyền luật, trong khi đó, với nội dung hoàn thiện luật có tỷ lệ quan tâm 38,5%. - Đánh giá của công chúng truyền hình đối với chủ đề nội dung thông tin HĐLP Kết quả khảo sát cho thấy có sự chênh lệch khá lớn về tỷ lệ đánh giá các nội dung thông tin cùng chủ để giữa VTV 1 với Quốc hội TV. Độ chênh lệch ở mức cao nhất thuộc về chủ đề nội dung thông tin bao quát nhiều vấn đề, 80,1 % so với 31%. Độ chênh lệch thấp nhất thuộc về thông tin trên kênh thời sự tổng hợp, 68,1% so với 51,8%. Nguyên nhân được cho là do những khác biệt liên quan đến thời lượng, thời gian và tần suất phát sóng của mỗi kênh. - Đánh giá của công chúng truyền hình về hình thức của truyền hình trong HĐLP Có ba hình thức truyền hình HĐLP được đưa ra khảo sát: một là hình thức truyền tải văn bản; hai là giải thích văn bản pháp luật và ba là, truyenf tải ý kiến tư vấn chuyên gia. Kết quả khảo sát thu được như sau: Tỷ lệ cao nhất, các đối tượng khảo sát đánh giá mức trung bình đối với cả 3 hình thức. Theo đó, 54,4% dành cho truyền tải văn bản, 50,8% dành cho truyền tải giải thích chỉ dẫn và 51,9% dành cho truyền tải ý kiến tư vấn chuyên gia. Kế đến là mức đánh giá là tốt có các số liệu lần lượt là 28,2%, 31,8% và 27,8%. Cuối cùng mức đánh giá chưa tốt có tỷ lệ thấp nhất, lần lượt là 17,4%, 17,4% và 20,3%. Nếu như trên VTV 1 các thông tin phổ biến pháp luật được thực hiện trong nhiều chuyên mục, có kết hợp với giải thích pháp luật hoặc hướng dẫn tư vấn thực hiện; hầu hết các chương trình này thường ở dạng đối thoại, trao đổi với các chuyên gia. Trong khi đó, trên kênh Quốc hội TV, NCS ghi nhận một số lượng thấp, các chương trình truyền tải văn bản luật dưới dạng tóm tắt và tổng quát, nội dung thông tin phổ biến pháp luật xuất hiện với tần suất chưa cao. Việc truyền tải các văn bản luật chưa được chú ý và kênh này dừng lại ở việc đưa tin thông báo về việc đã thông qua hoặc áp dụng các điều luật, chính sách trong đời sống trong các bản tin thời sự. 2.1.1.3. Truyền hình trong quy trình lập pháp của Quốc hội Việt Nam - Gợi ý chỉnh sửa pháp luật, hình thành sáng kiến và đề nghị lập pháp Ở 3 nhóm bài tin, theo chủ đề nội dung được NCS tiến hành khảo sát: thứ nhất, nhóm các bài, tin gợi mở các ý tưởng, các đề nghị lập pháp ủy quyền, sửa đổi các chính sách; thứ hai, nhóm các bài tin gợi mở các ý tưởng, các đề ghị sửa đổi theo hướng bổ sung, hoàn thiện văn bản pháp luật và thứ ba, nhóm các bài tin gợi mở các ý tưởng, sáng kiến các đề ghị lập pháp. Kết quả khảo sát đã ghi nhận một số lượng và tỷ lệ áp đảo của cả ba nhóm bài có cùng chủ đề liên quan đến
  15. 13 chính sách pháp luật trên lĩnh vực các vấn đề xã hội; kế đến là các vấn đề giáo dục, văn hóa nghệ thuật và sau cùng là kinh tế… - Đánh giá mức độ tham gia của truyền hình vào xây dựng luật Có khoảng ½ đối tượng được hỏi cho rằng truyền hình tham gia HĐLP ở mức độ trung bình với các ty lệ: 59,3% các sản phẩm truyền hình gợi ý dự thảo luật; 57,8% là sản phẩm truyền hình đưa tin các ý kiến xây dựng luật và 48,5%, là đối với sản phẩm truyền hình chuyển tải ý kiến người dân đến nghị trường. Kế đến là mức độ đánh giá tốt, với các tỷ lệ lần lượt: 33,7%, 29,2% và 25,4%; mức độ chưa tốt với các tỷ lệ: 7%, 12,8% và 25,9%. - Truyền hình với việc tạo diễn đàn tranh luận Kết quả phân tích số liệu khảo sát cho thấy: truyền hình đưa tin đến công chúng các nội dung gợi ý chỉnh sửa luật được đánh giá mức độ tốt chỉ chiếm 27.4%, trung bình đạt 58.4% và chưa tốt là 13.7%. Về nội dung tạo diễn đàn tranh luận và đưa ra ý kiến chỉnh sửa pháp luật, các mức độ được đánh giá: tốt, 34,3, trung bình 51,54 và chưa tốt 13,8. Đối với nội dung thông tin liên quan đến những góp ý cụ thể chi tiết cho sửa chữa hoàn thiện luật, qua ý kiến chuyên gia, các mưc độ được đánh giá lần lượt là: 29,5%, 45,2 % và 24,8 %. Tóm lại, các phân tích đối với các số liệu thống kê, phỏng vấn sâu và điều tra bằng bảng hỏi đã giúp NCS nhận thức được về cơ bản vai trò, sự tác động trên thực tế của truyền hình đối với HĐLP của Quốc hội Việt Nam. Theo đó, truyền hình đã có tác động quan trọng đối với HĐLP, trên các nội dung cơ bản: cung cấp thông tin cho các nhà HĐLP; chuyển tải thông tin HĐLP đến công chúng; tác động của truyền hình đến quy trình HĐLP. Có được những thành công ấy là do truyền hình trong HĐLP đã không chỉ vận dụng, thực hiện tốt các chức năng cơ bản của báo chí truyền hình, mà còn luôn đảm bảo thực hiện tốt tính định hướng, tính toàn diện, tính chính xác trong sản xuất truyền tải các sản phẩm, các chương trình truyền hình lập pháp. Nổi bật hơn cả truyền hình lập pháp đã cơ bản hoàn thành vai trò định hướng dư luận, tạo lập diễn đàn phản biện xã hội đối với HĐLP. Tuy nhiên các chỉ báo được thống kê cũng cho thấy, mức độ thực hiện tốt, có chất lượng cao… còn có tỷ lệ khiêm tốn. Trong khi mức đánh giá là trung bình, bình thường… có tỷ lệ cao ơn cả và đều ở mức khoảng trên dưới 50 %. 2.1.2. Thực trạng mối quan hệ hoạt động lập pháp với truyền hình 2.1.2.1. Tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động báo chí và truyền hình Vai trò quan trọng cơ bản và chủ yếu của HĐLP đối với phát huy vai trò của báo chí nói chung, của truyền hình trong HĐLP nói riêng trước hết phải kể đến sự ra đời của Luật Báo chí năm 2016 và Luật tiếp cận thông tin năm 2016.
  16. 14 Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm… của truyền hình trong HĐLP, của các nhà lập pháp trong tiếp xúc hoặc tham gia các chương trình truyền hình lập pháp… được ban hành và có hiệu lực đã tạo cơ sở pháp lý ngày càng chắc chắn cho phát huy vai trò truyền hình với HĐLP. Nhất là sự ra đời, từng bước hoàn thiện các quy chế làm việc của cán bộ, phóng viên… báo chí truyền hình trong các sự kiện HĐLP, quy chế cung cấp thông tin… đã có những bước tiến đáng kể theo hượng cụ thể hóa, thể chế hóa Luật Báo chí, Luật tiếp cận thông tin được cho là những nguyên nhân phát huy vai trò truyền hình với HĐLP. 2.1.2.2. Nâng cao vị thế truyền hình truyền tải thông tin hoạt động lập pháp Trong luận án, vai trò của HĐLP đối với nâng cao vị thế của truyền hình trong HĐLP được khảo sát, được đề cập, phân tích theo hai bình diện cơ bản: - Thứ nhất, Quốc hội, chủ thể lập pháp duy nhất, cao nhất đã thực hiện những chủ trương quan trọng trong sự ra đời, phát triển ngày càng đồng bộ một hệ thống các cơ quan truyền thông, báo chí của Quốc hội. Đây là nguyên nhân và điều kiện quan trọng để truyền hình lập pháp phát huy vai trò, nâng cao vị thể của mình đối với HĐLP; - Thứ hai, thông qua các cơ quan thuộc quyền, Quốc hội đã có những bước đi cụ thể, đổi mới các quy định, các cơ chế cần thiết tạo điều kiện để các cơ quan báo chí, nhất là báo chí truyền hình lập pháp tham gia ngày càng đầy đủ hơn vào việc đưa tin các HĐLP, hoạt động nghị trường. Qua đó đòi hỏi và tạo điều kiện để các hoạt động sản xuất, truyền tải các chương trình truyền hình với thời lượng phát sóng, thời điểm phát sóng, tần suất phát sóng ngày càng được thực hiện theo hướng phù hợp hơn; - Thứ ba, thông qua các cơ quan thuộc quyền, Quốc hội đã có những đề xuất, thực hiện các cơ chế chính sách phù hợp nhằm góp phần bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm truyền hình lập pháp. Qua đó nâng cao đáng kể vị thế của truyền hình trong HĐLP, phát huy vai trò của truyền hình lập pháp. 2.2. Vấn đề đặt ra và nguyên nhân của quan hệ truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam 2.2.1. Các vấn đề liên quan đến quản lý 2.2.1.1. Về phương thức, công cụ quản lý thông tin Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là phải vận hành linh hoạt các phương thức quản lý để tạo ra các phương án tổ chức sản xuất, kiểm tra thông tin về Quốc hội vừa hiệu quả vừa nhanh gọn, tránh các khâu trung gian không cần thiết. Qua đó
  17. 15 các thông điệp mới có thể mang tính thời sự, cập nhật, đáp ứng sự chờ đợi thông tin của công chúng truyền hình. 2.2.1.2. Vấn đề áp lực cạnh tranh thông tin Trong bối cảnh áp lực cạnh tranh thông tin ngày càng cao, yêu cầu đặt ra với mỗi người làm truyền hình lập pháp hiện nay là ngoài sự nhanh nhạy, phải có bản lĩnh vững vàng để có được những thông tin nhanh, xác thực, xử lý thành công những thông tin đó tạo nên sản phẩm truyền hình có sức hấp dẫn đối với công chúng truyền hình lập pháp. 2.2.1.3. Vấn đề liên quan cơ chế cung cấp thông tin Trong thời gian tới, sự gia tăng một cách thích hợp, số lượng phóng viên đặc biệt là phóng viên truyền hình, để hoạt động khai thác xử lý thông tin, sản xuát chương trình được nhanh, hiệu quả để phát huy vai trò truyền hình lập pháp trong bối cảnh bùng nổ thông tin là vấn đề rất quan trọng. 2.2.2. Vấn đề đặt ra trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - Vấn đề liên quan đến bồi dưỡng các kiến thức chính trị, pháp luật cho đội ngũ cán bộ truyền hình lập pháp. Nhiều hạn chế, bất cập trong việc sản xuất, thực hiện các chương trình truyền hình, nhất là các chương trình truyền hình trực tiếp có nguyên nhân liên quan đến sự kém hiểu biết về chính trị, pháp luật, Quốc hội và HĐLP… - Vấn đề liên quan đến cơ chế đãi ngộ, cải thiện điều kiện làm việc và trang thiết bị tác nghiệp. Kết quả phân tích cho thấy nhiều hạn chế thiếu sót trong sản xuất, truyền tải các chương trình, sản phẩm truyền hình lập pháp có một phần nguyên nhân liên quan đến chế độ thù lao, trang thiết bị tác nghiệp, điều kiện làm việc. 2.2.3. Vấn đề liên quan đến tính tương tác của truyền hình với hoạt động lập pháp của Quốc hội Kết quả phân tích thực trạng cũng cho thấy chất lượng, sức hấp dẫn và tính cạnh tranh của nhiều sản phẩm truyền hình lập pháp chủ yếu mới ở mức trung bình. Nguyên nhân chủ yếu được cho là tính tương tác của các chương trình này chưa cao, thậm chí là thấp, đơn điệu. Cần thiết phải sáng tạo, chuyển tải ngày càng nhiều hơn các chương trình truyền hình lập pháp có tính tương tác cao là một trong các vấn đề chủ yếu đang đặt ra cần khắc phục để có thể phát huy vai trò truyền hình lập pháp 2.2.4. Nguyên nhân * Nguyên nhân của những ưu điểm
  18. 16 Có thể khẳng định rằng: quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo và quản lý báo chí là điều kiện tiên quyết đem lại bước phát triển mạnh mẽ và những thành tựu như đã kể trên của kênh Quốc hội TV và VTV1. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước tiếp tục coi trọng và khẳng định tầm quan trọng của báo chí đối với sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt, tư duy của Đảng về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của báo chí trong đời sống chính trị-xã hội thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng. Đảng ta thực hiện phương châm lãnh đạo chủ yếu về mặt đường lối, nhưng không xa rời nguyên tắc Đảng lãnh đạo báo chí. Nhà nước quản lý báo chí bằng pháp luật nhưng đảm bảo dân chủ rộng rãi, lại luôn theo dõi, lắng nghe ý kiến phản hồi của nhân dân về báo chí, của bản thân các cơ quan báo chí về những vấn đề liên quan đến hoạt động báo chí. Đội ngũ cán bộ báo chí có bản lĩnh vững vàng, ngày càng nâng cao trình độ nghề nghiệp; năng động, nhạy bén với cái mới đã giúp Kênh Quốc hội TV và VTV1 không chỉ đứng vững trước thử thách của cơ chế thị trường mà còn từng bước thích ứng với nó, tranh thử thời cơ để có bước phát triển vượt bậc về trình độ nghề nghiệp, trình độ quản lý kỹ thuật và công nghệ cũng như mô hình hoạt động. * Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót Một là, cơ chế phát ngôn thông tin của các ngành, các địa phương chậm được triển khai. Hai là, việc bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục đạo đức, phẩm chất người làm báo chưa được quan tâm thường xuyên. Ba là, sự phát triển quá nhanh về số lượng cùng những phát sinh trong quá trình vận động của hệ thống báo chí khiến các cơ quan chức năng bị động trước nhiều vấn đề phát sinh trong lãnh đạo, quản lý báo chí. Bốn là, Kênh Quốc hội TV và VTV1 chưa thực sự đủ mạnh để thực hiện chức năng Giám sát và phản biện xã hội mà Đảng và nhân dân mong đợi. Tiểu kết chương 2 Khi luận chứng cho thực trạng vai trò của truyền hình với HĐLP của Quốc hội Việt Nam, NCS đã thực hiện các phân tích của mình theo hướng chủ yếu vào làm rõ các nội dung vai trò của truyền hình lập pháp đã được đề cập trong tiết 1.3 của chương 1. Các nội dung đó bao gồm: thứ nhất, vai trò của truyền hình trong cung cấp thông tin cho các nhà HĐLP; thứ hai, vai trò của truyền hình trong truyền tải các thông tin HĐLP đến với cử tri, với tính cách là công chúng của truyền hình lập pháp; thứ ba, vai trò của truyền hình trong quy trình lập pháp của Quốc hội Việt Nam.
  19. 17 Các nội dung trên đây được phân tích dựa trên số liệu thu được từ khảo sát các sản phẩm truyền hình lập pháp đã thực hiện trên VTV 1, Quốc hội TV, các số liệu điều tra bằng bảng hỏi do NCS thực hiện và các ý kiến phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia, các nhà HĐLP giầu kin nghiệm. Các số liệu đó đều là trung thực, tin cậy, được phân tích xử lý bằng các phương pháp phù hợp. Nhờ đó, thực trạng vai trò truyề hình với HĐLP, HĐLP với truyền hình đã được nhận diện một cách đúng dắn, đầy đủ theo đúng tiếp cận nghiên cứu của một luận án báo chí học. Bên cạnh đó, nhiệm vụ chủ yếu của chương hai là nhằm phân tích làm rõ nguyên nhân của ba nhóm vấn đề đặt ra cũng được hoàn thành. Đây là những cơ sở, tiền đề để nghiên cứu sinh đề xuất, luận chứng cho các giải pháp chủ yếu và khuyến nghị khoa học nhằm phát huy vai trò truyền hình với HĐLP trong chương tiếp theo của luận án. Chương 3 GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ TRUYỀN HÌNH VỚI HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Các giải pháp chủ yếu 3.1.1. Nhóm giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo, năng lực quản lý điều hành của tổ chức Đảng và cơ quan chủ quản báo chí truyền hình hoạt động lập pháp - Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước theo phương châm phát triển đi đôi với quản lý tốt. Trong việc phát huy vai trò của truyền hình với HĐLP, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý được thực hiện chủ yếu thông qua vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, năng lực quản lý của cơ quan chủ quản truyền hình. - Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện quy hoạch hệ thống báo chí truyền hình lập pháp trong quan hệ hữu cơ, đồng bộ với hệ thống báo chí truyền thông lập pháp của Quốc hội. Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong mỗi cơ quan báo chí truyền thông, truyền hình lập pháp. - Thứ ba, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực chiến đấu của cấp ủy và tổ chức đảng trong cơ quan báo chí truyền hình lập pháp trong việc nắm bắt, dự báo tình hình, đề xuất, lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo bám sát định hướng thông tin, giữ vững mục tiêu xây dựng, bảo về nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
  20. 18 - Thứ tư, đề xuất, áp dụng quy định chặt chẽ trong việc chọn, bổ nhiệm Ban biên tập, nhất là Tổng biên tập để đảm bảo vừa chọn đúng người có trình độ chính trị vững vàng, có nghiệp vụ báo chí giỏi, vừa phải có khả năng quản lý tốt để thực hiện nghiêm chỉnh tôn chỉ mục đích của mỗi tờ báo. - Thứ năm, nâng cao ý thức tự giác, vai trò chủ động, tự chịu trách nhiệm trong môi trường hoạt động thường có tính độc lập của phóng viên, nhân viên tác nghiệp…đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, cơ quan chủ quản đối với việc chấp hành các quy định về nghề nghiệp, nêu cao ý thức chính trị, đạo đức của người làm báo. Đồng thời xúc tiến xây dựng những quy định về chế độ đãi ngộ, tạo động lực thúc đẩy nâng cao bản lĩnh chính trị, tính tự giác và phát huy cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ đảng viên là phóng viên, nhân viên tác nghiệp. - Thứ sáu, phát huy vai trò cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm tra, giám sát các cơ quan báo chí thực hiện Luật báo chí và Luật xuất bản, Luật tiêp cận thông tin, tham mưu cho cấp uỷ Đảng, cho chính quyền về những vấn đề mới nảy sinh để có biện pháp xử lý kịp thời. Cơ quan chủ quản báo chí cần nâng cao trách nhiệm quản lý của mình. Nâng cao ý thức trách nhiệm và vai trò của người làm báo và của mỗi cơ quan báo chí trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng đối với báo chí, truyền thông và xuất bản. Tóm lại, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước với những biện pháp cụ thể, những cơ chế, chính sách hợp lý và hiệu quả sẽ giúp cho báo chí truyền hình lập pháp có điều kiện ngày càng nâng cao vai trò, vị thế của mình trong HĐLP, góp phần quan trọng vào phục vụ đất nước trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.1.2. Nhóm giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa các chủ thể lập pháp với truyền hình lập pháp - Giải pháp bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghiệp vụ báo chí cho Đại biểu quốc hội Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy, kỹ năng báo chí của một số Đại biểu Quốc hội còn hạn chế vì thế cần tăng cường bồi dưỡng kiến thức về báo chí, truyền hình, hình thành ở các đại biểu kỹ năng tiếp xúc và làm việc với báo chí và nhà báo. - Giải pháp phát triển hoạt động truyền thông của Quốc hội Chú trọng phát triển hoạt động truyền thông của Quốc hội trong quan hệ hữu cơ với hoạt động của báo chí truyền thông thông qua các hoạt động cụ thể sau: một là, Quốc hội cung cấp gói dịch vụ cho truyền thông đại chúng; hai là, Quốc hội
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2