Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của Luận án này nhằm phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS của đại biểu Quốc hội Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Chính trị học: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH *** THÁI NGỌC CHÂU HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 9310201 Nghệ An, 2021
- Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Đinh Thế Định 2. PGS.TS Đinh Trung Thành Phản biện 1: PGS.TS ………… Trường ……………… Phản biện 2: PGS.TS Học viện ……………… Phản biện 3: PGS.TS Trường ………… Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp trường; họp tại Trường Đại học Vinh vào hồi ngày tháng 03 năm 2021. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia, 31 Tràng Thi, Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội. - Trung tâm Thông tin - Thư viện Trường Đại học Vinh 182, Lê Duẫn, Vinh, Nghệ An.
- A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực tiễn hơn 75 năm hoạt động của Quốc hội Việt Nam cho thấy, việc thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát là vấn đề rất quan trọng, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thực thi nghiêm minh, các cơ quan nhà nước thực hiện đúng và có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt cho nhân dân thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát quản lý công và bổ sung cho hoạt động lập pháp. Thời gian qua, hoạt động giám sát (HĐGS) của Quốc hội và ĐBQH có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động, đạt được những kết quả tích cực. Bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục, giải quyết triệt để. Bối cảnh mới của thế giới và đất nước đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung, nâng cao chất lượng, hiệu quả HĐGS của ĐBQH nói riêng. Với những lý do trên, NCS chọn vấn đề “Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng HĐGS của ĐBQH, luận án đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS của ĐBQH Việt Nam trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến HĐGS của ĐBQH, rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Thứ hai: Làm rõ những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam. Thứ ba: Đánh giá thực trạng HĐGS của ĐBQH Việt Nam. Thứ tư: Đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS của ĐBQH Việt Nam trong thời gian tới.
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu HĐGS của ĐBQH với tư cách là chủ thể giám sát độc lập, bao gồm các hoạt động chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. - Về phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu HĐGS của ĐBQH Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tập trung vào giai đoạn từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 (Luật số 87/2015/QH13) được thực hiện (từ 1/7/2016) cho đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước, về tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung và về HĐGS của ĐBQH nói riêng. - Tham khảo các lý thuyết chính trị về tổ chức nhà nước và HĐGS. Đặc biệt, tham khảo mô hình, phương thức giám sát của nghị viện một số nước như Anh, Ba Lan, Thụy Ðiển, Trung Quốc, Nhật Bản... 4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tác giả sử dụng hai nhóm phương pháp nghiên cứu chính: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phương pháp phân tích hệ thống chính trị, phương pháp phân tích cấu trúc chức năng... Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp chung, liên ngành và chuyên ngành khác như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, so sánh, định tính, định lượng. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp khảo sát thực tế và điều tra xã hội học, phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp phân tích mô hình thực tiễn...
- Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, phương pháp nghiên cứu dự báo, đưa ra những kiến nghị, giải pháp có tính khả thi. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về mặt lý luận Thứ nhất, luận án góp phần bổ sung lý luận về HĐGS của ĐBQH Việt Nam, làm rõ khái niệm HĐGS, vai trò, nội dung, quy trình HĐGS của ĐBQH cũng như các điều kiện bảo đảm HĐGS của ĐBQH. Thứ hai, qua nghiên cứu HĐGS của nghị sĩ một số nước trên thế giới, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 5.2. Về mặt thực tiễn Thứ nhất, luận án đánh giá khách quan thực trạng hoạt động giám sát của ĐBQH Việt Nam, nhất là giai đoạn từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Luật số 87/2015/QH13) được thực hiện cho đến nay. Thứ hai, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS, nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam. Thứ ba, luận án phục vụ cho việc tham khảo, nghiên cứu lý luận và giảng dạy về tổ chức hoạt động giám sát của ĐBQH. Đồng thời, rút ra kinh nghiệm trong việc tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 6.1. Câu hỏi nghiên cứu Thứ nhất: HĐGS của ĐBQH Việt Nam dựa trên cơ sở lý luận nào? Thứ hai: Thực trạng HĐGS của ĐBQH Việt Nam hiện nay như thế nào? Thứ ba: Yêu cầu đối với HĐGS của ĐBQH Việt Nam trong thời gian tới như thế nào? Thứ tư: Giải pháp nào để tăng cường HĐGS của ĐBQH Việt Nam? 6.2. Giả thuyết nghiên cứu ĐBQH là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất cấu thành Quốc hội. Các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội đều do ĐBQH thực hiện. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, ĐBQH trong HĐGS được Hiến pháp và pháp luật quy định khá cụ thể. Tuy nhiên, thực trạng HĐGS của ĐBQH Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập,
- chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và mong muốn của cử tri. Các giải pháp mà luận án đưa ra nếu được nhận thức và vận dụng vào thực tiễn một cách phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các công trình khoa học của tác giả, luận án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết.
- B. NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được công bố trong và ngoài nước 1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội Các tác giả John Dewey (trong cuốn Công chúng và các vấn đề liên quan), Robert A.Dahl (trong cuốn Dân chủ và các nhà bình luận) và Michael Mann (trong cuốn Các nguồn sức mạnh của xã hội) đều thống nhất cho rằng, để hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước và đạt được mục tiêu dân chủ, bình đẳng xã hội, cần phải kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước. Các tác giả khẳng định, chỉ thông qua hoạt động giám sát quá trình thực thi pháp luật, các thành viên nghị viện mới có thể phát hiện được các hạn chế của pháp luật, nhất là việc áp dụng pháp luật của cơ quan hành pháp. Ricardo Pelizzo - Rick Stapenhurst trong Các công cụ giám sát của nghị viện: Báo cáo điều tra thực chứng đã phân tích các công cụ giám sát của nghị viện các quốc gia, đánh giá về mối quan hệ giữa công cụ giám sát và những khía cạnh khác nhau trong đời sống chính trị quốc gia, đặc biệt mối quan hệ giữa công cụ giám sát và mức độ dân chủ. Các tác giả Walter Oleszek (trong bài viết “Giám sát quốc hội: Tổng quan”) và Ricardo Pelizzo - Rick Stapenhurst (trong Các công cụ giám sát của nghị viện: Báo cáo điều tra thực chứng) khẳng định mục tiêu cơ bản của giám sát quốc hội là để các quan chức hành pháp có trách nhiệm trong thực thi quyền hạn được giao, đồng thời phân tích các công cụ giám sát của nghị viện các quốc gia, đánh giá về mối quan hệ giữa công cụ giám sát và những khía cạnh khác nhau trong đời sống chính trị quốc gia, đặc biệt mối quan hệ giữa công cụ giám sát và mức độ dân chủ. Vấn đề hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội cũng được các tác giả đề cập trong các công trình tiêu biểu khác như: Đàm phán chính trị của Jane Mansbridge-Cathie Jo Martin, Điều
- tra và Giám sát của Quốc hội: nghiên cứu điển hình và phân tích của Stanley M. Brand và Lance Cole. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về quyền giám sát và hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội Liên quan đến các nội dung về quyền giám sát và HĐGS của Quốc hội và ĐBQH có các công trình tiêu biểu như: ấn phẩm Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn; sách Kiểm soát quyền lực nhà nước của PGS, TS Nguyễn Đăng Dung; sách Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp của Nguyễn Sĩ Dũng và Vũ Công Giao; “Về hoạt động giám sát của Quốc hội” của tác giả Nguyễn Thái Phúc; Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới của tác giả Đặng Đình Tân; “Giám sát xã hội trong Nhà nước pháp quyền” của tác giả Vũ Anh Tuấn; “Nâng cao hiệu quả giám sát là đòi hỏi của cử tri” của tác giả Nguyên Nhung; “Phát huy quyền làm chủ của nhân trong kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thế Trung; Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nguyễn Sỹ Dũng; “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động chất vấn của ĐBQH”, tham luận của tác giả Đinh Xuân Thảo tại Hội thảo Pháp luật về ĐBQH trong giai đoạn hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn; “Mấy vấn đề về vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân và bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám sát” của tác giả Tác giả Trần Đình Huề; “Những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện về điều kiện hoạt động của ĐBQH” của Bùi Ngọc Thanh, v.v.. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã tập bàn về nội dung, quy trình, thủ tục và điều kiện bảo đảm hoạt HĐGS của Quốc hội và ĐBQH. 1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội và đại biểu Quốc hội Liên quan đến cơ chế kiểm soát quyền lực của nhà nước có các nghiên cứu như: Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay của Đào Trí Úc - Võ Khánh Vinh; Kiểm soát quyền lực nhà nước: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay của Trịnh Thị Xuyến; Hoàn thiện các quy định của pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn của ĐBQH của Lê Thanh Vân; Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà
- nước ở Việt Nam của Nguyễn Quang Anh; Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay của Vũ Thị Hồng Trang. Tăng cường giám sát quyền lực nhà nước là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết, một giải pháp quan trọng nhằm đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam. Liên quan đến nội dung này có các nghiên cứu như: “Đổi mới và tăng cường giám sát quyền lực nhà nước” của Trần Đình Nghiêm; Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước của Trương Thị Hồng Hà; “Công tác giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân dân- Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân” của Nguyễn Khắc Bộ, v.v.. 1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 1.2.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố liên quan đến đề tài Thứ nhất, phân tích, góp phần làm rõ chức năng giám sát của cơ quan dân cử. HĐGS tập tập trung vào những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đòi hỏi, xã hội quan tâm và ngày càng trở nên công khai, minh bạch hơn. Thứ hai, khẳng định quyền lực nhà nước là vấn đề rất quan trọng; kiểm soát quyền lực nhà nước là một hệ thống những cơ chế được thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả. Thứ ba, khẳng định HĐGS của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH, HĐND, các Ban của HĐND, đại biểu HĐND thời gian qua đạt được nhiều kết quả quan trọng. Thứ tư, chỉ rõ kết quả HĐGS của Quốc hội, HĐND đã có tác động tích cực, góp phần phát hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, hạn chế cả về chính sách pháp luật và tổ chức quản lý điều hành, qua đó đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Thứ năm, các công trình nghiên cứu bước đầu đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về HĐGS của ĐBQH Việt Nam, nêu những khái niệm và các yếu tố tác động đến hiệu quả HĐGS của ĐBQH. 1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tập tiếp tục nghiên cứu Thứ nhất, luận án cần phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực
- tiễn và cơ sở pháp lý về HĐGS của ĐBQH Việt Nam; làm rõ vai trò, ý nghĩa của HĐGS của ĐBQH; xác định đối tượng, nội dung, quy trình HĐGS của ĐBQH; phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH trong quá trình thực hiện chức năng giám sát; các điều kiện bảo đảm HĐGS của ĐBQH. Thứ hai, luận án có nhiệm vụ phân tích, đánh giá thực trạng HĐGS của ĐBQH Việt Nam từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 được thực hiện, trong đó tập trung vào giai đoạn từ khi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 (Luật số 87/2015/QH13) có hiệu lực. Thứ ba, trên cơ sở lý luận và từ thực trạng HĐGS của ĐBQH Việt Nam, đề xuất quan điểm và giải pháp tăng cường HĐGS của ĐBQH Việt Nam trong thời gian tới. Kết luận chương 1 Các công trình nghiên cứu đã đề cập khá toàn diện về HĐGS của Quốc hội và ĐBQH từ các góc độ tiếp cận khác nhau, bước đầu trình bày cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về vai trò HĐGS của ĐBQH Việt Nam; đánh giá, so sánh thực trạng HĐGS của nghị sĩ một số nước trên thế giới và ĐBQH Việt Nam; đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả HĐGS của ĐBQH. Tuy vậy, HĐGS của ĐBQH chưa được các tác giả nghiên cứu sâu cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt chưa đưa ra được các giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH Việt Nam. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM 2.1. Khái niệm và vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 2.1.1. Khái niệm giám sát và hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 2.1.1.1. Khái niệm giám sát Giám sát là một chức năng cơ bản của Quốc hội, đó là việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện
- nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. 2.1.1.2. Hoạt động giám sát và quyền giám sát của đại biểu Quốc hội - Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội HĐGS của Quốc hội được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của từng ĐBQH. ĐBQH là một chủ thể giám sát độc lập, đại biểu giám sát đối tượng, vấn đề cụ thể với những hoạt động, hình thức giám sát cụ thể. Giám sát của ĐHQH được cụ thể hóa bằng các HĐGS hay nói cách khác, để thực hiện quyền giám sát của mình, ĐBQH tiến hành các HĐGS theo quy định của pháp luật. - Quyền giám sát của đại biểu Quốc hội Quyền giám sát của ĐBQH là quyền được theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh và việc xử lý các vấn đề liên quan theo thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền, ích chính đáng của người dân, của xã hội và của đất nước. 2.1.2. Vai trò hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 2.1.2.1. Giám sát để thực hiện vai trò đại diện quyền lực của nhân dân HĐGS của ĐBQH có cơ sở chính trị quan trọng xuất phát từ sự ủy quyền của cử tri. ĐBQH là người thay mặt nhân dân kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước và những người có trọng trách trong bộ máy nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 2.1.2.2. Giám sát để góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước Tất cả HĐGS của Quốc hội, UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội đều do từng ĐBQH thực hiện. HĐGS của ĐBQH đóng góp quan trọng vào hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, theo dõi, xem xét và kiểm tra việc thực hiện quyền lực của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. 2.1.2.3. Giám sát để góp phần kiểm soát quản lý công Quốc hội là một trong những chủ thể kiểm soát quản lý công qua việc thực hiện quyền giám sát. HĐGS của Quốc hội nói chung và của ĐBQH nói riêng là một trong những thành tố quan trọng trong hoạt động kiểm soát đối với quản lý công ở mọi nền hành chính hiện đại. 2.1.2.4. Giám sát để bổ sung cho hoạt động lập pháp Lập pháp và giám sát là các chức năng cơ bản của Quốc hội. Nếu như lập pháp nhằm hoạch định, quyết định các chính sách của quốc
- gia thì giám sát chính là sự bảo đảm để các chính sách đã được Quốc hội hoạch định, quyết định được thực thi, tuân thủ trên thực tiễn cuộc sống đúng với mục tiêu mà các nhà lập pháp đã đề ra, bảo đảm cho ý chí, lợi ích, quyền lực của cử tri mà mình đại diện. 2.2. Nội dung, quy trình và điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 2.2.1. Nội dung hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội 2.2.1.1. Chất vấn Hiến pháp quy định chất vấn là hình thức giám sát trực tiếp và phổ biến của Quốc hội, đồng thời là quyền của ĐBQH. Chất vấn tuy là quyền cá nhân của ĐBQH nhưng khi thực hiện quyền này thì được xem là một trong những HĐGS của Quốc hội. Đây có thể coi là công cụ giám sát mạnh nhất, thuận tiện, dễ sử dụng và rất phù hợp với điều kiện hoạt động của ĐBQH hiện nay. 2.2.1.2. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật Giám sát văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là hình thức giám sát mà thông qua đó, các chủ thể giám sát xem xét các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội hay không, để từ đó có các biện pháp cụ thể như: “quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó”. HĐGS văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hoạt động được Quốc hội thực hiện nhằm bảo vệ tính tối thượng của Hiến pháp và các văn bản pháp luật mà Quốc hội, UBTVQH đã ban hành. 2.2.1.3. Giám sát việc thi hành pháp luật HĐGS thi hành pháp luật của ĐBQH là một hoạt động giám sát chuyên đề, tức là việc đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá vấn đề hoặc hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương. ĐBQH có quyền giám sát mọi vấn đề liên quan đến việc thực thi Hiến pháp, luật, nghị quyết và hoạt động của bất kỳ cơ quan nhà nước, tổ chức, công dân nào ở địa phương. ĐBQH có thể thực hiện HĐGS trong một số lĩnh vực và đối với những trường hợp cần thiết. 2.2.1.4. Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân
- ĐBQH có trách nhiệm tổ chức để tiếp công dân, giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Đồng thời, ĐBQH có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị đến trình bày và cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan; xem xét, xác minh vấn đề mà ĐBQH quan tâm. 2.2.2. Quy trình hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội ĐBQH thực hiện quyền giám sát dưới nhiều hình thức khác nhau như: tham gia HĐGS của Đoàn ĐBQH tại địa phương; tham gia Đoàn giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu; tự mình tiến hành HĐGS dưới các hình thức: chất vấn tại kỳ họp Quốc hội hoặc phiên họp của UBTVQH trong khoảng thời gian giữa hai kỳ họp; giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, v.v.. Với mỗi hình thức giám sát, pháp luật đều có quy định về quy trình, thủ tục tiến hành cụ thể. Trên cơ sở đó, đại biểu có thể lựa chọn, quyết định triển khai hoạt động giám sát một cách chủ động, linh hoạt nhất tùy thuộc vào điều kiện hoạt động của mình. 2.2.3. Điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Để Quốc hội và ĐBQH thực hiện được vai trò, sứ mệnh của mình, thực hiện được những quyền năng do pháp luật quy định, trong đó có quyền giám sát, cần phải có những điều kiện cần thiết nhằm bảo đảm cho HĐGS của ĐBQH thực thi hiệu quả. Những điều kiện đó là: bảo đảm về chính trị; chế độ bầu cử; cách thức thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước; bảo đảm tính độc lập của ĐBQH; bảo đảm về pháp lý; bảo đảm về năng lực giám sát của ĐBQH. Đồng thời, HĐGS của ĐBQH chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: bộ máy chuyên gia, giúp việc; nguồn thông tin; điều kiện cơ sở vật chất, tài chính, v.v.. 2.3. Hoạt động giám sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam 2.3.1. Hoạt động giám sát của nghị sĩ một số nước trên thế giới 2.3.1.1. Quan niệm về vai trò giám sát và quy định về hoạt động giám sát của nghị sĩ Các nước trên thế giới nhìn chung rất coi trọng vai trò, ý nghĩa của hoạt động lập pháp nói chung và HĐGS nói riêng, trong đó có HĐGS của các nghị sĩ.
- Pháp luật về nghị viện của các nước đều có các quy định chung về HĐGS của nghị viện và các chủ thể trong hệ thống tổ chức bộ máy của nghị viện, bao gồm các ủy ban và nghị sĩ. Các quy định pháp luật về HĐGS của nghị sĩ được ghi nhận trong Hiến pháp, luật của Quốc hội và cả những văn bản dưới luật. 2.3.1.2. Các hoạt động giám sát của nghị sĩ - Hoạt động chất vấn Nghị viện của những nước theo hệ thống dân chủ nghị viện đều quy định hình thức chất vấn hay hỏi đáp hoặc cả hai để tranh luận về hoạt động nói chung của Chính phủ. Chất vấn nhằm cung cấp thông tin và là một cơ hội để để các nghị sĩ phản biện, chỉ trích các hoạt động của các cơ quan hành pháp. Một số cuộc tranh luận có thể phải kết thúc bằng một cuộc bỏ phiếu về sự tín nhiệm mà Quốc hội dành cho Chính phủ. - Giám sát văn bản Quốc hội nhiều nước như Mỹ, Canada, Pháp và Quốc hội các nước Bắc Âu có quy định cụ thể về sửa đổi, huỷ bỏ các văn bản dưới luật trái với luật của Quốc hội và quy định trách nhiệm rà soát, hệ thống hóa, kiểm soát tính thống nhất của các văn bản dưới luật trong hệ thống pháp luật chung. Giám sát các văn bản luật được ban hành theo uỷ quyền ở Anh. Các luật gốc thường quy định cho phép các Bộ trưởng và các cơ quan có thẩm quyền ban hành các quy định có tính chất điều hành cụ thể, chi tiết về mặt hành chính. - Việc xử lý đơn thư kiến nghị của công dân và theo dõi, giám sát việc xử lý đơn thư của công dân Nghị viện nhiều nước thành lập Ủy ban dân nguyện (như Quốc hội Đức) hoặc cơ quan thanh tra Quốc hội (Quốc hội Đan Mạch). Những ủy ban phụ trách việc khiếu nại tố cáo của công dân giải quyết các khiếu nại của người dân đối với những cơ quan của chính phủ về những quyết định không đúng hoặc không công bằng, nhưng đôi khi cũng giải quyết cả những đề xuất của người dân. 2.3.1.3. Về hoạt động kiêm nhiệm của nghị sĩ Để bảo đảm các nghị sĩ tiến hành các HĐGS một cách công tâm, khách quan, không bị chi phối bởi các nhóm lợi ích và ảnh hưởng khác nhau, pháp luật nhiều nước tuy cho phép nghị sĩ có thể hoạt động
- kiêm nhiệm các ngành nghề khác nhưng quy định khá chặt chẽ các điều kiện kèm theo. 2.3.1.4. Về tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội Đối với những nước mà ở đó Đảng là lực lượng duy nhất lãnh xã hội, việc bảo đảm số ĐBQH là đảng viên luôn chiếm đa số là vấn đề mang tính nguyên tắc. Tuy vậy, để HĐGS của ĐBQH trở nên chủ động, tiến hành công việc một cách khách quan, độc lập, hiệu quả, nhiều nước rất chú trọng vấn đề tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội. 2.3.1.5. Về xem xét, xử lý việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của nghị sĩ Ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore… rất coi trọng xem xét, đánh giá HĐGS của các cơ quan và cá nhân nghị sĩ, đặt biệt xử lý nghiêm trách nhiệm đối với cơ quan hay cá nhân thực hiện chức năng giám sát. Theo đó, đối với cơ quan, cá nhân có trách nhiệm giám sát nhưng không thực hiện tốt HĐGS hoặc thiếu trách nhiệm sẽ bị truy cứu và xử lý trách nhiệm Ngược lại, nếu thực hiện tốt HĐGS, các nghị sĩ được ghi nhận, biểu dương, khen thưởng xứng đáng cả về vật chất và tinh thần. 2.3.1.6. Về việc giáo dục, nâng cao trình độ, hiểu biết về Quốc hội Để có được năng lực thể chế cho người dân nói chung và ĐBQH nói riêng, nhiều nước có chiến lược giáo dục, truyền thông thông qua việc cung cấp cho các đối tượng khác nhau các kiến thức về các vấn đề liên quan tới chính trị, nhà nước, pháp luật và những hiểu biết nhất định về nền dân chủ, về quyền, nghĩa vụ của công dân. 2.3.2. Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Thứ nhất, xác định giám sát là một chức năng cơ bản của Quốc hội, thực hiện quyền lực lập pháp kiểm soát quyền lực hành pháp; cần có các quy định chặt chẽ liên quan đến HĐGS của các nghị sĩ. Thứ hai, các HĐGS như chất vấn, giám sát văn bản, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân được thực hiện với nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để thu thập thông tin, đưa ra những kiến nghị, phản biện đối với Chính phủ. Thứ ba, cho phép các nghị sĩ duy trì nghề nghiệp riêng của mình (trừ các chính khách như Bộ trưởng, Thủ tướng, nghị sĩ không kiêm nhiệm các vị trí trong bộ máy hành pháp, tư pháp hoặc các cơ quan, doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách nhà nước). Thứ tư, chú trọng sử dụng đội ngũ giúp việc của nghị sĩ và các
- phương tiện thông tin, truyền thông. Thứ năm, thực hiện nghiêm việc việc xem, đánh giá HĐGS của nghị sĩ, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân nghị sĩ. Thứ sáu, tăng cường giáo dục, nâng cao trình độ, hiểu biết về Quốc hội. Ngoài ra, các nội dung khác như tỷ lệ đảng viên trong Quốc hội ở Singapore, việc kết hợp thực hiện giám sát của các cơ quan nhà nước với giám sát của các cơ quan đảng và giám sát của nhân dân ở Trung Quốc đều có giá trị tham khảo cho Quốc hội Việt Nam. Kết luận chương 2 HĐGS của ĐBQH là việc ĐBQH tiến hành các hoạt động cụ thể để theo dõi, xem xét, đánh giá việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và các cá nhân do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Với tư cách là một trong những chủ thể của HĐGS, ĐBQH tham gia vào HĐGS cùng với các thủ thể khác hoặc tiến hành các HĐGS độc lập, làm tiền đề cho HĐGS tối cao của Quốc hội. Với tư cách cá nhân, ĐBQH có thể tiến hành các HĐGS, gồm: chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Để ĐBQH thực hiện được vai trò, sứ mệnh, quyền năng của mình, trong đó có quyền giám sát, cần có những điều kiện bảo đảm cần thiết. Qua nghiên cứu HĐGS của Quốc hội và các nghị sĩ ở một số nước cho thấy, mặc dù HĐGS của Quốc hội, của nghị sĩ các nước có những điểm khác biệt so với Việt Nam, nhưng những kinh nghiệm của họ vẫn có giá trị tham khảo cho HĐGS của ĐBQH Việt Nam. Chương 3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức của Quốc hội và đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay 3.1.1. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội Việt Nam Các cơ quan của Quốc hội gồm có: Ủy ban thường vụ Quốc hội; Hội đồng Dân tộc; Ủy ban Pháp luật; Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính, Ngân sách; Ủy ban Quốc phòng và An ninh; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; Ủy ban về các Vấn đề Xã hội; Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Ủy ban Đối ngoại; Đoàn đại biểu Quốc hội; Tổng thư ký Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội; Các cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (Ban công tác đại biểu, Ban dân nguyện, Viện Nghiên cứu lập pháp). 3.1.2. Đại biểu Quốc hội Việt Nam ĐBQH Việt Nam là người được cử tri trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Các đại biểu được bầu chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và trước cử tri cả nước. Cơ cấu đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa: ĐB Quốc hội Tổng ĐB là dân ĐB là phụ nữ ĐB là ĐB trẻ (dưới ĐB có ĐB khóa số ĐB tộc thiểu số người ngoài 40 tuổi) trình độ tái cử đảng ĐH, trên ĐH Người Người % Người % Người % Người % Người % Người % XI 498 86 17,3 136 27,3 50 10,2 56 11,2 465 93,4 135 27,1 XII 493 87 17,7 127 25,8 43 8,7 68 13,8 473 96,0 136 27,6 XIII 500 78 15,6 122 24,4 42 8,4 62 12,4 491 98,2 167 33,4 XIV 494 86 17,3 133 26,8 21 4,2 71 14,3 488 98,8 160 32,3 3.2. Kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay 3.2.1. Việc thực hiện chất vấn Thời gian qua, HĐGS của ĐBQH dưới hình thức chất vấn không ngừng được đổi mới và hoàn thiện, trở thành hình thức kiểm soát quyền lực có hiệu quả. Không chỉ số lượng câu hỏi chất vấn được ĐBQH đặt ra ngày càng nhiều, thời lượng của các phiên họp chất vấn ngày càng kéo dài hơn trước mà các diễn đàn được tổ chức để đại biểu thực hiện quyền chất vấn cũng đa dạng, phong phú hơn, đồng thời, tính tranh luận trong hoạt động chất vấn ngày càng được tăng cường. Bên cạnh đó, hoạt động chất vấn của ĐBQH vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định như: Một là, còn có sự chênh lệch về tính tích cực trong hoạt động chất vấn giữa ĐBQH chuyên trách và ĐBQH kiêm nhiệm; giữa các ĐBQH kiêm nhiệm thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Một là, nội dung nhiều câu hỏi chất vấn của ĐBQH còn hạn chế; có hiện tượng ĐBQH hỏi ngoài phạm vi chất vấn; câu hỏi còn trùng lặp về nội dung, không đi thẳng vào trọng tâm vấn đề chất vấn. Bai là, vấn đề “hậu chất vấn” còn có những “khoảng trống”. Đây là vấn đề quan trọng, thiết thực nhất mà ĐBQH, cử tri và nhân dân cả nước mong mỏi, đòi hỏi sự “đeo bám” của ĐBQH theo những lời hứa,
- cam kết, giải trình của người trả lời chất vấn đối với những vấn đề mình đã nêu lên. 3.2.2. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật Thời gian qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đến nay, ĐBQH thông qua các ủy ban của Quốc hội đã tập trung giám sát việc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật đã được Quốc hội ban hành. HÐGS văn bản được thực hiện nghiêm theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; các cơ quan của Quốc hội chủ động đưa vào Chương trình công tác HÐGS văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực phụ trách. Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, HĐGS văn bản pháp luật của ĐBQH vẫn còn một số hạn chế sau: Một là, ĐBQH chưa thực hiện thường xuyên HĐGS VBQPPL với tư cách là một hoạt động độc lập. Hai là, Hiệu quả HĐGS ban hành VBQPPL của ĐBQH còn thấp. Ba là, quy định của pháp luật về HĐGS VBQPPL của ĐBQH chưa thực sự phù hợp. 3.2.3. Giám sát việc thi hành pháp luật Giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương của ĐBQH là một trong những HĐGS được ĐBQH thực hiện với tư cách một chủ thể giám sát độc lập. Tuy vậy, hoạt động này gặp nhiều khó khăn, không được tiến hành phổ biến ở địa phương và có nhiều hạn chế, cụ thể: Thứ nhất, ĐBQH chưa chủ động, tích cực xây dựng và triển khai thực hiện chương trình giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương. Thứ hai, HĐGS việc thi hành pháp luật tại địa phương của ĐBQH còn trùng lắp về phạm vi, nội dung, hình thức giám sát với HĐGS của Đoàn ĐBQH, HĐND các cấp và đại biểu HĐND các cấp. Thứ ba, pháp luật chỉ mới quy định thẩm quyền của ĐBQH mà chưa quy định các điều kiện bảo đảm thực hiện thẩm quyền một cách hiệu quả, thuận lợi. 3.2.4. Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân Các ĐBQH nhìn chung đã cố gắng hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri, giúp cử tri thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, các ĐBQH tích cực theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo của
- công dân trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tuy vậy, trên thực tế, HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri còn những hạn chế nhất định như: Thứ nhất, đa số ĐBQH mới chỉ chuyển đơn và gửi công văn đôn đốc việc xử lý, còn việc theo đến cùng một vụ việc ít được thực hiện. Thứ hai, cách thức triển khai thực hiện HĐGS việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cử tri còn hạn chế, bất cập. Thứ ba, các quy định pháp luật chưa phân định rõ thẩm quyền của ĐBQH trong giám sát đối với từng vấn đề cụ thể. Thứ tư, một số kiến nghị sau giám sát chưa được các cơ quan hữu quan nghiêm túc thực hiện, trong khi đó các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH cũng lại chưa thật tích cực đôn đốc, kiến nghị xử lý đối với người có trách nhiệm 3.3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội hiện nay 3.3.1. Thẩm quyền, quy trình, thủ tục giám sát của đại biểu Quốc hội có mặt chưa thực sự phù hợp với đặc điểm của Quốc hội Việt Nam Về cơ bản, pháp luật hiện hành quy định khá đầy đủ về HĐGS của ĐBQH. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế, bất cập, những vấn đề đặt ra liên quan đến pháp lý trong thẩm quyền giám sát cũng như pháp lý về quy trình, thủ tục giám sát cần tiếp tục khắc phục, giải quyết. 3.3.2. Bất cập giữa năng lực giám sát của đại biểu Quốc hội với yêu cầu, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội Để bảo đảm ĐBQH có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình nói chung và trong HĐGS nói riêng, yêu cầu ĐBQH cần có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ ĐBQH. Tuy nhiên, trên thực tế, trình độ của nhiều đại biểu còn hạn chế; tình trạng ĐBQH thiếu kỹ năng giám sát còn khá phổ biến; uy tín của nhiều ĐBQH chưa cao, do đó, người dân chưa kỳ vọng nhiều vào người đại diện của mình. 3.3.3. Bất cập giữa trách nhiệm và quyền lợi liên quan trong các quy định liên quan điều kiện, cơ sở vất chất, đội ngũ giúp việc cho hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Để phục vụ HĐGS, ĐBQH cần được cung cấp nhiều thông tin. Tuy nhiên, nội dung thông tin được cung cấp từ các cơ quan tham
- mưu, giúp việc của Quốc hội chủ yếu vẫn sử dụng nguồn nghiên cứu của Chính phủ, các cơ quan, tổ chức khác. Cơ quan thông tin, nghiên cứu của Quốc hội chủ yếu vẫn chỉ giữ vai trò đầu mối tổ chức cung cấp thông tin mà chưa thực sự nghiên cứu và xuất bản, cung cấp các tài liệu nghiên cứu bảo đảm tính khách quan, độc lập của Quốc hội, giúp các ĐBQH có được những thông tin chính xác, kịp thời. Bộ máy giúp việc của Quốc hội và các đoàn ĐBQH hiện nay chủ yếu để giúp việc hoạt động của các cơ cấu tập thể trong Quốc hội, bao gồm: Văn phòng Quốc hội, Ban thư ký giúp việc cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; Văn phòng Đoàn ĐBQH giúp việc cho Đoàn ĐBQH, còn thiếu bộ máy giúp việc cho các hoạt động của cá nhân ĐBQH, nhất là HĐGS. Mặc dù pháp luật đã quy định khá đầy đủ các chế độ tài chính của ĐBQH trong HĐGS. Tuy nhiên, trên thực tế, chế độ tài chính phục vụ HĐGS của ĐBQH chưa cụ thể; chưa có quy định về chế độ chi dành cho HĐGS của ĐBQH với tư cách chủ thể giám sát độc lập; tiền thù lao cho chuyên gia và bộ máy giúp việc chưa đáp ứng được yêu cầu. Kết luận chương 3 HĐGS của Quốc hội và ĐBQH trong thời gian qua có nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với tiến trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các quy định pháp luật về HĐGS của ĐBQH tiếp tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Có nhiều đổi mới cả về nội dung lẫn quy trình, phương thức thực hiện, nhờ đó, hiệu lực, hiệu quả HĐGS của ĐBQH từng bước được nâng lên. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động giám sát của ĐBQH thời gian qua vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần tiếp tục khắc phục, giải quyết. Thực trạng các yếu tố bảo đảm cho HĐGS của ĐBQH cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, bất cập trong HĐGS của ĐBQH. Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VIỆT NAM 4.1. Quan điểm tăng cường hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội Việt Nam
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 251 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn