intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

59
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT, đặc biệt làm rõ vai trò và những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển CNHT; Luận án phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong phát triển CNHT. Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam, là một nước đang phát triển, đang trong tiến trình đẩy  nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để  xây dựng và  phát triển nền kinh tế  thị  trường  định hướng xã hội chủ  nghĩa thì phát  triển công nghiệp hỗ  trợ  (CNHT) có vai trò quan trọng trong chiến lược   phát triển đất nước. Trong những năm gần đây, một số nước trên thế  giới  và ở Việt Nam đã chứng minh, sự phát triển đúng hướng của ngành CNHT  là một trong những tiền đề  quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển  nền kinh tế quốc dân; phát triển CNHT là nhân tố đóng vai trò quyết định   tới sự phát triển của các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, CNHT ở Việt Nam   còn khá non trẻ, quy mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp, chưa đáp ứng được nhu   cầu của các ngành công nghiệp. Để  phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu  cầu phát triển kinh tế  ­ xã hội nói riêng, quá trình hội nhập quốc tế  nói  chung, phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì lựa chọn   phát triển CNHT trở thành một vấn đề mang tính khách quan và thiết thực.  Đây là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, với ý nghĩa đó tác   giả chọn đề  tài: “Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp   ở Việt Nam” làm luận án tiến sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT, đặc  biệt làm rõ vai trò và những tiêu chí đánh giá mức độ  phát triển CNHT;  Luận án phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số  ngành công  nghiệp ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân   và những vấn đề  đặt ra trong phát triển CNHT. Từ  đó đề  xuất một số  quan điểm và giải pháp chủ  yếu nhằm phát triển CNHT trong một số  ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án chủ yếu tập trung vào những nhiệm vụ cơ bản sau: ­ Luận giải những vấn đề lý luận chung về CNHT. Đặc biệt làm rõ  vai trò của CNHT. ­ Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển CNHT của một số quốc gia. Từ  đó rút ra một số bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam. ­   Phân   tích,   đánh   giá   thực   trạng   CNHT   trong   một   số   ngành   công   nghiệp  ở  Việt Nam từ  năm 2006 đến năm 2013. Từ  đó chỉ  ra những kết  quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với phát  triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
  2. 2 ­ Đề  xuất một số  quan điểm và giải pháp chủ  yếu nhằm phát triển  CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án Đối tượng nghiên cứu của Luận án là CNHT trong một số  ngành  công nghiệp ở Việt Nam, cụ thể là tập trung nghiên cứu CNHT ở 03 ngành   chủ yếu là xe máy, dệt may và điện tử dưới góc độ kinh tế chính trị. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án  ­ Về  không gian: Luận  án nghiên cứu CNHT trong một số  ngành  công nghiệp Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu CNHT của 03 ngành  xe máy, dệt may, điện tử trên phạm vi cả nước. ­ Về thời gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công  nghiệp ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ  sở  lý luận của chủ  nghĩa Mác ­  Lênin, đặc biệt là lý luận về  phân công lao động và chuyên môn hóa sản   xuất. Luận án sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết   kinh doanh (business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanh  nghiệp công nghiệp (industrial cluster) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên   cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu ­ Tác giả  sử  dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch  sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận. ­   Ngoài   ra,   trong   quá   trình   nghiên   cứu,   tác   giả   còn   sử   dụng   các  phương pháp cụ thể như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương  pháp lôgic ­ lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,  thống kê...  5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ­ Làm rõ nội hàm và các nhân tố ảnh hưởng tới CNHT.  ­ Những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của CNHT.   ­ Luận giải rõ vai trò mang tính hai mặt của phát triển CNHT đối với  nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. ­ Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT ngành xe máy, dệt may điện  tử 2006 ­ 2013.  ­ Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát  triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020.
  3. 3   6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở  đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục, nội dung luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.   NHỮNG  CÔNG   TRÌNH   KHOA   HỌC   ĐÃ   ĐƯỢC   NGHIÊN   CỨU  LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Một số công trình khoa học của nước ngoài  Gồm 16 công trình khoa học được nghiên cứu theo 4 nhóm: (1) Nhóm  công trình khoa học lý luận chung về  CNHT và vai trò của CNHT; (2)   Nhóm công trình nghiên cứu về  phát triển các ngành CNHT; (3) Nhóm  công   trình   nghiên   cứu   về   giải   pháp   phát   triển   CNHT.   (4)   Nhóm   công  nghiên cứu về CNHT với phát triển nền kinh tế nói chung. 1.1.2. Một số công trình khoa học nghiên cứu trong nước: Gồm 33 công trình được nghiên cứu theo 4 nhóm (như nêu tại Tiểu   mục 1.1.1) Những kết quả  nghiên cứu của các công trình khoa học trên là tài  liệu có giá trị tham khảo tốt cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. 1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC   NGHIÊN CỨU 1.2.1. Đánh giá chung về những kết quả của các công trình khoa  học đã nghiên cứu Các công trình khoa học đã nghiên cứu cấu trúc ngành CNHT, làm rõ  một số  đặc điểm của CNHT trong bối cảnh hội nhập kinh tế  quốc tế.   Phân tích các nhân tố ảnh hưởng, vai trò và sự  cần thiết phát triển CNHT   trong nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế.  Các nghiên cứu cũng trình bày kinh nghiệm của một số  nước trong   phát triển CNHT; tổng quan thực trạng ngành CNHT trong quá trình phát  triển của một số ngành công nghiệp và chỉ rõ ưu điểm, thành tựu, hạn chế,  những nguyên nhân của hạn chế,... qua đó rút ra một số kinh nghiệm, gợi ý  cho quá trình hoạch định cơ chế, chính sách phát triển CNHT ở Việt Nam.  1.2.2. Những vấn đề còn trống cần tiếp tục nghiên cứu Mặc dù có khá nhiều công trình nghiên cứu, điều tra, khảo sát về  CNHT, song  ở  tầm vĩ mô, các công trình khoa học nghiên cứu vẫn chưa  luận giải rõ và đề  cập đến: (i) Nội hàm của CNHT dưới góc độ  kinh tế  chính trị; (ii) Vai trò của  CNHT đối với nền kinh tế  nói chung và ngành 
  4. 4 công nghiệp Việt Nam nói riêng; (iii) Đánh giá thực trạng CNHT trong một  số  ngành công nghiệp xe máy, dệt may và điện tử; (iv) Những thuận lợi,   khó khăn và nhân tố mới ảnh hưởng đến phát triển CNHT hiện nay ở Việt   Nam; (v) Giải pháp nhằm phát triển CNHT ngành xe máy, dệt may và điện   tử. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ  2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ  Từ quan niệm về công nghiệp hỗ trợ của các nhà nghiên cứu,  tác giả  luận  án cho rằng: CNHT  là một ngành kinh tế  kỹ  thuật, bao gồm các   ngành sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ ki ện máy móc,   thiết bị, nguyên vật liệu đã qua chế  biến và các dịch vụ  hỗ  trợ  sản xuất   theo các quy trình nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng.  Từ phân tích trên có thể hiểu nội hàm của CNHT như sau: (i) Là một   ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù thuộc ngành công nghiệp, nảy sinh từ phân  công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ở giai đoạn cao, phổ biến. (ii) Có  sự  kết hợp nhân tố  con người và máy móc trong môi trường làm việc có  tính chuyên môn hóa cao và trình độ nhất định. (iii) Tính liên kết ngành rất   cao, rất đa dạng với công nghệ cao phục vụ lượng lớn các ngành lắp ráp.   (iv) Thể  hiện quy luật liên kết, mối quan hệ lợi ích kinh tế  giữa các chủ  thể sản xuất, giữa tính độc lập và tính phụ thuộc trong quá trình sản xuất  sản phẩm, giữa công nghiệp chính và CNHT, giữa công ty mẹ  và công ty   con,   giữa   người   nhận   vốn   và   người   đầu   tư   vốn...(v)   Gồm   những   sản   phẩm trung gian, gắn liền và phụ thuộc với sản phẩm công nghiệp chính. 2.1.2. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ Về  tính đa cấp và liên kết : Trong quá trình sản xuất công nghiệp  luôn có sự đan xen, tác động lẫn nhau; sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất  của ngành này lại là sản phẩm hỗ trợ hay sản phẩm đầu vào, quá trình sản   xuất cho ngành khác. Sự đan xen, tác động lẫn nhau như thế sẽ tiếp tục cho  đến khi có được sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh cuối cùng. Tính đa cấp của   CNHT kéo theo sự  phân chia khá rõ ràng trong các thành phần tham gia  CNHT và xuất hiện nhà cung cấp lớp I, lớp II, lớp III..., trên cùng là nhà lắp  ráp sản phẩm cuối cùng. Từ đó xuất hiện phổ biến trong các hình thức tổ  chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu phụ/vệ  tinh, liên doanh, liên  kết trong một mạng lưới tổ  chức sản xuất ph ối h ợp, th ống nh ất và có   tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chính và các doanh nghiệp sản   xuất hỗ trợ. 
  5. 5 Về công nghệ: Để có một sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh khi đưa ra thị  trường, quá trình sản xuất luôn đòi hỏi sự đa dạng về công nghệ và trình độ  công nghệ. Các sản phẩm hỗ trợ đều đòi hỏi mức độ, trình độ  công nghệ  khác nhau, liên quan nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau, từ những sản phẩm  có mức độ  công nghệ cao, phức tạp cho tới những sản phẩm gia công cơ  khí... Thường những bộ  phận tinh xảo, có giá trị  gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ  thuật, công nghệ  rất cao sẽ  do những nhà cung cấp lớn có trình độ  công   nghệ cao đảm nhận.  Về  thị  trường:  Thị  trường CNHT ngày càng mở  rộng, dung lượng  thị trường không chỉ đáp ứng trong nội bộ ngành mà còn đáp ứng nhu cầu  liên ngành, đa ngành và không giới hạn không gian địa lý, quan trọng là các  sản phẩm có mối liên kết và nằm trong chuỗi giá trị  với độ  tinh xảo,  chuyên môn hóa cao, có khả  năng cạnh tranh đáp  ứng được nhu cầu của   các nhà lắp ráp. Các nước có ngành CNHT phát triển, sau khi đảm bảo  cung cấp sản phẩm cho công nghiệp trong nước có thể  xuất khẩu sang  nước khác. Người tiêu dùng cuối cùng của các ngành CNHT là các nhà lắp  ráp sản phẩm công nghiệp, do vậy, thị trường của CNHT không rộng như  sản xuất sản phẩm phục vụ  nhu cầu tiêu dùng cuối cùng. Đây là thách  thức lớn trong quá trình phát triển CNHT. Sản phẩm CNHT có thể  linh  hoạt thay đổi phục vụ  linh phụ  kiện cho nhiều hãng lắp ráp sản xuất  CNHT trở  nên hấp dẫn và  ổn định hơn nếu doanh nghiệp sản xuất sản   phẩm CNHT đáp  ứng được nhu cầu của khách hàng dài hạn, “thị  trường  chuyên biệt” hay “thị trường đặc thù”. Về nguồn nhân lực: CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình  độ  cao; các nhà vận hành máy móc, kiểm soát viên về  chất lượng sản  phẩm, các kỹ thuật viên và các kỹ sư có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao,   được đào tạo theo tiểu chuẩn, trình độ  lành nghề, chuyên môn sâu. Do  vậy, điểm làm nên điều khác biệt chính là đội ngũ nhân công có tay nghề  cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành, cải tiến máy móc, phát   minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả  công việc. Có  thể nói rằng, sự thành công của các doanh nghiệp trong ngành CNHT phụ  thuộc rất lớn vào đội ngũ kỹ sư và chuyên gia.  Về  đối tượng tham gia: Với đặc thù sản xuất ra các linh phụ kiện  phục vụ nhiều ngành công nghiệp lắp ráp, đã thu hút số  lượng lớn doanh   nghiệp với quy mô khác nhau tham gia; trong đó doanh nghiệp lớn thuộc  nhóm đối tượng lớp 1, các lớp khác chủ yếu là DNNVV. Phát triển CNHT  là cơ sở quan trọng và là tiền đề cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào   hệ  thống phân công lao động quốc tế  nói chung, hệ  thống sản xuất của   các công ty đa quốc gia nói riêng để  tiếp nhận công nghệ, nâng cao khả  năng cạnh tranh của sản phẩm, đem lại giá trị gia tăng cao; thu hút đầu tư 
  6. 6 nước ngoài và là cơ sở tạo lập một nền công nghiệp phát triển bền vững  trong nước với một hệ thống các doanh nghiệp tham gia.  2.1.3. Những nhân tố  chủ  yếu  ảnh hưởng tới công nghiệp hỗ  trợ Thứ  nhất: Môi trường kinh tế  vĩ mô và cơ  chế  chính sách của Nhà  nước  Thứ  hai: Các quan hệ  liên kết khu vực và toàn cầu,  ảnh hưởng của   các tập đoàn đa quốc gia Thứ ba: Hội nhập kinh tế quốc tế Thứ tư: Các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn  Thứ năm: Dung lượng thị trường Thứ sáu: Tiến bộ khoa học công nghệ và năng lực nội địa hóa Thứ bảy: Nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực Thứ tám: Hệ thống thông tin  Thứ chín: Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm  2.1.4. Tiêu chí đánh giá mức độ  phát triển của công nghiệp hỗ  trợ * Quy mô doanh nghiệp công nghiệp hỗ  trợ: Đây là tiêu chí quan  trọng đánh giá sự phát triển của CNHT. Số lượng doanh nghiệp CNHT cao   thể hiện sự tham gia của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này cao, khả năng  cung cấp các yếu tố  đầu vào cho các ngành công nghiệp chính phát triển.   Các DNNVV có những  ưu điểm riêng và thích hợp với lĩnh vực CNHT,  việc đánh giá quy mô doanh nghiệp CNHT chỉ  là việc xem xét khả  năng  đáp ứng yêu cầu cung cấp linh phụ kiện cho doanh nghiệp lắp ráp. * Trình độ  công nghệ  và tỷ  lệ  nội địa hóa: Tiêu đánh giá sự  thay  đổi về chất của phát triển CNHT thông qua việc đáp ứng yêu cầu về chất  lượng sản phẩm, thời gian, yêu cầu của khách hàng khi có sự  thay đổi.  Điều này giúp cho các doanh nghiệp CNHT nâng cao năng lực cạnh tranh  và tồn tại như  một vệ  tinh của TNCs và MNCs. Phát triển CNHT đồng  nghĩa việc gia tăng tỷ  lệ  nội địa hoá sản phẩm và hệ  quả  là giảm nhập   siêu. Trong xu thế  toàn cầu hóa, mỗi doanh nghiệp, quốc gia không tự  mình sản xuất mọi loại sản phẩm, linh kiện. Việc nâng cao tỷ  lệ  nội địa   hóa, sẽ tăng tính chủ động trong cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện và các  sản phẩm trung gian cho ngành lắp ráp và cho nền kinh tế.  * Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ:  nghĩa là  sản lượng, doanh thu, chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, điều kiện mua  bán, khả năng tạo ra năng suất, chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh và  khả  năng chiếm lĩnh thị  phần của sản phẩm hỗ  trợ   đó trên thị  trường.  Việc nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng KH ­ CN trong ngành CNHT  
  7. 7 có tính chất dẫn dắt sự  phát triển khu vực hạ  nguồn, góp phần thay đổi  căn bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn, tạo điều   kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp phát triển. * Mức độ đáp ứng yêu cầu của ngành công nghiệp hạ nguồn: Để  đánh giá mức độ, tiềm năng phát triển của CNHT cũng như  xem xét quá   trình hình thành, phát triển CNHT có đúng hướng không, chúng ta phải xét  đến mức độ, khả  năng đáp  ứng yêu cầu về  số  lượng, chất lượng, chủng   loại đặc biệt là tiêu chuẩn kỹ thuật của CNHT đối với ngành công nghiệp   chính. Hiện nay, còn tình trạng công ty lắp ráp thiếu hụt các loại linh kiện   và phải bù đắp bằng cách nhập khẩu thì các nhà sản xuất trong nước không  dám bỏ  vốn đầu tư  mua công nghệ  sản xuất linh kiện phụ  trợ  đạt tiêu  chuẩn của công ty lắp ráp. * Trình độ nguồn nhân lực: CNHT là khu vực chuyển giao và tiếp  nhận công nghệ  mới, nên đòi hỏi trình độ  của người lao động cũng phải  biến đổi theo cho phù hợp, mặt khác đây cũng là khu vực mà lao động thực  sự  được khuyến khích sáng tạo. Chính vì thế, khi phân tích sự  phát triển  toàn diện và bền vững của CNHT, cần phân tích tỷ  lệ  lao động trình độ  cao trong doanh nghiệp, chỉ  số  về  trình độ  được đào tạo, khả  năng sử  dụng máy móc, thiết bị kỹ thuật và khả năng sử dụng công nghệ vào sản   xuất sản phẩm hỗ trợ và kỹ  năng lao động… đó là những tiêu chí cơ  bản   đánh giá tiềm năng và lợi thế trong phát triển CNHT 2.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ  TRỢ  ĐỐI VỚI  NỀN KINH TẾ  QUỐC DÂN NÓI CHUNG VÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP NÓI  RIÊNG 2.2.1.   Mối   quan   hệ   giữa   công   nghiệp   hỗ   trợ   với   ngành   công  nghiệp Trong phân công lao động:  CNHT ra đời và phát triển là do mối  quan hệ  và yêu cầu của phân công lao động xã hội; CNHT là một khâu   quan trọng trong hệ thống phân công lao động của doanh nghiệp được tách   rời ra.  Trong mối quan hệ phụ thuộc:  CNHT phụ thuộc vào sự phát triển  của các ngành công nghiệp chính; các ngành công nghiệp chính thúc đẩy sự  phát triển của CNHT. Trong mối quan hệ phát triển: Thúc đẩy CNHT phát triển, nghĩa là  xây dựng năng lực sản xuất và khả năng tham gia phân công lao động quốc   tế của nền công nghiệp quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế.   Sự  phụ  thuộc lúc này không còn  ở  quan hệ  một chiều, mà thực chất trở  thành quan hệ hợp tác hai chiều tương đối bình đẳng, bởi lẽ chính các nhà   sản xuất lắp ráp cũng sẽ  phụ  thuộc vào quốc gia đang sản xuất tích hợp   cho họ. Việc phát triển CNHT sẽ  phụ  thuộc rất lớn vào chiến lược phát 
  8. 8 triển công nghiệp của quốc gia đang ở giai đoạn nào, mức độ nào và nằm ở  đâu trong MLSX toàn cầu.  2.2.2. Vai trò có tính hai mặt của phát triển công nghiệp hỗ trợ Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng thực hiện có hiệu quả quá trình  xây dựng và phát triển nền kinh tế  thị trường;  hình thành cơ  cấu kinh tế  quốc dân theo hướng hợp lý, hiện đại; hạn chế  nhập siêu, đảm bảo tính   chủ  động cho nền kinh tế;  góp phần làm tăng sức cạnh tranh của sản   phẩm công nghiệp và của cả nền kinh tế; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao  động và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thúc đẩy  chuyên môn hóa sản xuất và gắn phân công lao động quốc gia vào hệ  thống phân công lao động quốc tế; giúp tiếp thu chuyển giao công nghệ và  là con đường nhanh nhất biến ngoại lực thành nội lực;  nhằm thu hút vốn  đầu tư nước ngoài; đảm bảo cung  ứng các linh phụ kiện phục vụ cho sự  hoàn chỉnh sản phẩm của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp; đảm  bảo cho các  doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hoạt động hiệu quả,  hoàn thành được kế hoạch sản xuất; và tạo giá trị gia tăng của sản phẩm  công nghiệp. Bên cạnh những vai trò tích cực của phát triển CNHT, có những hạn   chế không mong muốn, như: việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển  CNHT, sẽ  tạo ra nguy cơ phụ thuộc vào các nhà đầu tư  nước ngoài. Một  số ngành công nghiệp mất đi tính độc lập, do bị phụ thuộc vào chiến lược   phát triển và điều tiết thị  trường của các MNCs, các doanh nghiệp FDI.   Phân công lao động, chuyên môn hóa sâu sẽ cắt khúc các công đoạn, phân  chia lợi ích đối lập nhau giữa các công đoạn. Thị trường CNHT cũng sẽ có  những khuyết tật; có thể  gây ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài  nguyên và gây mất cân đối sản phẩm trong nền kinh tế. 2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN CNHT  TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Qua kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và Malaysia:   về xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách; về phát triển  doanh nghiệp nhỏ và vừa; về phát triển cụm liên kết ngành; về xây dựng  mối liên kết giữa các doanh nghiệp;  về  phát triển nguồn nhân lực chất  lượng cao; về xây dựng cơ sở dữ liệu và trao đổi thông tin...  có thể rút ra  cho Việt Nam một số bài học về phát triển CNHT:  Từ  phía Chính phủ:  Chính sách, chương trình hành động về  CNHT  phải  rõ ràng,  ổn định; các chương trình hành động toàn diện, cụ  thể  và  bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp; xác định cơ quan đầu mối phụ  trách CNHT trong cơ quan hành chính của Chính phủ. Xây dựng chính sách  phù hợp với thực tiễn, xoá bỏ khoảng cách giữa chính sách được ban hành  với việc thực thi chính sách; có các hành động quyết liệt, chế  tài nghiêm 
  9. 9 khắc việc thực thi sai chính sách. Nghiên cứu thành lập các quỹ  bảo lãnh  tín dụng tạo trung gian kết nối giữa ngân hàng với các DNNVV;  Ưu tiên  ngành CNHT, sản phẩm CNHT;  ưu đãi các TĐĐQG về  đất đai, hạ  tầng,  thuế. Tăng cường đào tạo, phát triển tài năng cho CNHT, thành lập các cơ  sở đào tạo, quỹ phát triển nhân lực, hỗ trợ chi phí đào tạo cán bộ khoa học  kỹ thuật, lao động kỹ năng cao và nhận thức cho cán bộ công chức. Từ  phía doanh nghiệp: Chủ  động đầu tư, đổi mới công nghệ, trang   thiết bị, nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp; tham   gia các chương trình đào tạo của ngành, địa phương, hiệp hội... hoặc thuê  các chuyên gia tổ  chức đào tạo  nguồn nhân lực chất lượng cao ngay tại  chỗ. Xây dựng mối liên kết, hợp tác chặt chẽ để  trở  thành doanh nghiệp  vệ tinh, sản xuất sản phẩm phụ trợ cho bản thân doanh nghiệp. Xây dựng  chiến lược về thương hiệu của doanh nghiệp.  Tham gia và cung cấp thông  tin, quá trình hoạt động của doanh nghiệp cho các cơ  quan, tổ  chức có   thẩm quyền để tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT quốc gia. Ngoài những bài học về thành công Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan  và Malaysia cũng có những bài học thất bại hoặc ít thành công trong phát  triển CNHT. Như: Thái Lan còn thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành, sự  hiểu   biết   của   doanh   nghiệp   về   chính   sách   của   Chính   phủ   Thái   Lan.  Malaysia thành lập “Công ty mỏ neo”, các doanh nghiệp đã thiếu sự nhiệt   tình, do cơ chế mỏ neo ­ cung  ứng của Malaysia có sự  đối xử  thiếu công   bằng giữa các ngành, các nhóm thương gia,... Việt Nam là nước đi sau, đây  là những kinh nghiệm để  Việt Nam nghiên cứu, lựa chọn phù hợp với  điều kiện, thực tiễn của đất nước nhằm phát triển CNHT hiệu quả. Chương 3 THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH  CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 ­ 2013  3.1.   NHỮNG   THUẬN   LỢI,   KHÓ   KHĂN   VÀ   NHÂN   TỐ   MỚI   ẢNH   HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ  TRỢ  TRONG MỘT SỐ  NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.1.1. Những thuận lợi và khó khăn Những thuận lợi: Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á ­ Thái Bình  Dương có điều kiện tự nhiên, kinh tế ­ xã hội thuận lợi; nguồn nhân lực dồi  dào, nguồn tài nguyên phong phú. Thời gian gần đây, Nhật Bản, Hàn Quốc  đã có sự chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng đã  dành sự  quan tâm cho sự  phát triển ngành CNHT thông qua việc ban hành  các Nghị  định, Quyết định về  CNHT, những cơ  chế  chính sách khuyến  khích, hỗ  trợ  lĩnh vực CNHT. Đi cùng với hệ  thống chính sách, hệ  thống   kết cấu hạ tầng cũng được hiện đại hóa và tương đối đồng bộ, có giá trị 
  10. 10 lâu dài; hệ thống doanh nghiệp sản xuất CNHT ở Việt Nam cũng có nhiều   chuyển biến so với thời gian trước; đồng thời, là sự quyết tâm rất cao trong   việc phát triển CNHT của lãnh đạo các bộ, ngành, các cấp, tạo điều kiện   thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai các dự án và tiếp tục cải thiện hơn   nữa môi trường đầu tư. Những khó khăn: Năm 2007, Việt Nam mới có Quy hoạch phát triển   CNHT đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Tuy nhiên, Quy hoạch chưa tập   trung, phân theo lộ trình và cụ thể hóa bằng các chế độ theo từng lĩnh vực  quản lý của các bộ, ngành. Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành  Quyết định 12/QĐ­TTg về chính sách phát triển một số ngành CNHT. Các  hỗ trợ ưu đãi và bảo lãnh tín dụng đầu tư cho doanh nghiệp trong lĩnh vực  CNHT gần như không có gì mới so với chính sách hỗ trợ DNNVV. Chính  sách phát triển các khu, cụm công nghiệp vẫn chỉ tập trung vào số  lượng,   thiếu quy hoạch đồng bộ  trên phạm vi cả  nước...  Ngành CNHT  ở  Việt  Nam còn yếu, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ  trợ còn rất ít,  công nghệ  lạc hậu,  nguồn nhân lực phục vụ  CNHT hạn chế...  nên  chưa  đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp. Mặc dù có  nhiều triển vọng, song do phát triển trên nền sản xuất khép kín, tỷ  trọng  doanh nghiệp nhà nước cao, công nghệ  lạc hậu, doanh nhân  thiếu  năng  động; với dung lượng thị  trường nhỏ, chưa đủ  quy mô sản xuất kinh tế,  giá thành sản xuất cao, sức cạnh tranh thấp nên thương hiệu và thị  phần  của CNHT Việt Nam còn nhiều giới hạn. 3.1.2.   Một   số   nhân   tố   mới   ảnh   hưởng   đến   phát   triển   công  nghiệp hỗ trợ của Việt Nam Việc thực hiện cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA):   Gia nhập AFTA, hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi,  có điều kiện thuận lợi hơn để  thâm nhập thị  trường của tất cả các nước  thành viên ASEAN. Tuy nhiên, việc xoá bỏ  các hàng rào thuế  quan và phi  quan thuế đã xoá bỏ sự bảo hộ của Chính phủ  đối với các doanh nghiệp,   buộc các doanh nghiệp phải tham gia thực sự  vào cuộc cạnh tranh khốc  liệt trên thị trường khu vực; cơ hội cho ngành CNHT càng bị thu hẹp hơn.  Việt Nam cần có chiến lược dài hạn xây dựng và phát triển ngành CNHT   để giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài và mang lại giá trị gia tăng cao cho  nền kinh tế.  Việc ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình   Dương (TPP): Với mục tiêu xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa giữa  các nước, TPP sẽ là con đường tốt nhất cho hàng hóa xuất khẩu của Việt  Nam tăng sức cạnh tranh về  giá khi tiếp cận thị  trường các nước đối tác  TPP, doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi   trong tiếp cận những mô  hình,  phương thức quản lý hiện đại và hiệu quả. Công nghệ, thiết bị, nguyên vật  liệu sẽ  phong phú, giá thấp hơn sản xuất trong nước. Tuy nhiên, các quy 
  11. 11 định kỹ thuật, quy tắc xuất xứ quy định về nguyên vật liệu để sản xuất ra  sản phẩm… có thể  là những rào cản đối với hàng hóa Việt Nam. Do vậy,   Việt Nam cần xây dựng ngành CNHT vững mạnh tham gia vào bức tranh   công nghiệp hóa trong khu vực.  Hợp tác công ­ tư (PPP): Trong Dự thảo của Nghị định về PPP, Bộ  Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ có 9 lĩnh vực đầu tư theo   hình thức PPP được ưu tiên. Ngoài các lĩnh vực liên quan đến hạ tầng cơ  sở, thì lĩnh vực đầu tư  hạ  tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công  nghiệp…cũng thuộc lĩnh vực ưu tiên đầu tư. Khi các dự án thuộc lĩnh vực  này được triển khai, CNHT nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung ở  nước ta sẽ có nhiều triển vọng phát triển. Các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm  được chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng do giao thông thuận tiện, các cảng   được bố trí hợp lý; tiết kiệm được chi phí sản xuất do được hưởng lợi từ  thành quả của các công trình xử lý nước thải, cơ  sở hạ tầng thương mại   được triển khai… Đây cũng chính là sự kỳ vọng để các ngành CNHT Việt  Nam phát triển trong tương lai gần. Hoạt động chuyển giá:  Hiện nay, lỗ  hổng  để  doanh nghiệp lợi  dụng chuyển giá là do CNHT của Việt Nam chậm phát triển, các doanh  nghiệp FDI thường nhập khẩu các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất   với giá cao hơn giá thực tế. Việc góp vốn bằng máy móc, trang thiết bị,   công nghệ  hiện  đại, tiên  tiến của  doanh  nghiệp  nước  ngoài,  do trong   nước chưa có đủ  năng lực và trình độ  thẩm định nên nhiều dự  án bị  đối  tác nước ngoài định giá thiết bị, công nghệ cao hơn thực tế... 3.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG NGÀNH CÔNG  NGHIỆP XE MÁY, DỆT MAY VÀ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh công nghiệp Việt Nam năm 2012  do Bộ  Công Thương phối hợp với UNIDO, từ  năm 2005 đến năm 2009,   Việt Nam tăng 15 bậc trong Bảng xếp hạng hiệu suất công nghiệp của  UNIDO (từ hạng 73 lên thứ hạng 58). Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF),  chỉ  số  cạnh tranh toàn cầu  của Việt Nam năm 2012/2013 xếp vị  trí thứ  75/144 quốc gia; 2013/2014 xếp vị trí thứ 70 trên 148 quốc gia.  Theo Tổng cục Thống kê, năm 2012 ­ 2013, giá trị  gia tăng công  nghiệp bình quân đạt 6,0%. Số  lượng doanh nghiệp ngành công nghiệp  năm 2000 là 10.938, trong đó số doanh nghiệp sản xuất các loại kinh kiện,   phụ   tùng   là   1.123   doanh   nghiệp;   đến   năm   2013   tăng   lên  1.383  doanh  nghiệp.   Tổng số  lao động ngành chế  tạo chế  biến năm 2005 là 5.031,2  nghìn, năm 2012 là 7.460,7 nghìn, đến năm 2013 là 7.654,6 nghìn lao động. 3.2.1. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp xe máy Ngành xe máy Việt Nam, xuất hiện từ những năm 1990, khởi đầu là  sự xuất hiện của các nhà lắp ráp nước ngoài. Theo Bộ Công thương, năm 
  12. 12 2013 khoảng 5 triệu xe được lắp ráp trong nước; dự kiến đến năm 2015,   lượng xe máy lưu hành trong cả  nước năm 2020 khoảng 33,5 triệu xe.   Năm   2011,   số   lượng   doanh   nghiệp   CNHT   xe   máy   khoảng   173   doanh  nghiệp, tổng nguồn vốn là 31.512 tỷ  đồng. Năm 2012 và 2013, số  lượng  doanh   nghiệp   sản   xuất   xe   máy   gần   như   không   tăng,   nhưng   các   doanh  nghiệp đã tăng cường đầu tư  mở  rộng quy mô sản xuất. Điển hình Liên  doanh Honda, tháng 12/2011 khởi công xây dựng nhà máy thứ  3 tại KCN   Đồng Văn 2 (Hà Nam), với vốn đầu tư hơn 120 triệu USD, đưa tổng công   suất cả  3 nhà máy lên 2,5 triệu chiếc/năm và tăng thêm khoảng 1.800 lao   động. Công ty Cơ  khí Mạnh Quang sản xuất phụ  tùng xe máy của Việt  Nam, đầu tư  mở  rộng thêm 2 nhà máy cùng hàng loạt máy móc chuyên   dụng hiện đại của nước ngoài, đưa doanh thu từ  nguồn bán phụ  tùng xe  máy lên khoảng 250 tỷ đồng/năm. Năm 2012, Bộ Công thương đã đề nghị  Chính phủ cho 6 dự án sản xuất phụ tùng xe máy được vay vốn đầu tư ưu   đãi từ  quỹ  đầu tư  phát triển; với tổng số  vốn dự án đầu tư  thiết bị  công   nghệ   của   các   dự   án   này   khoảng   13,5   triệu   USD.   Như   vậy,   số   doanh   nghiệp nội địa tham gia vào hệ  thống CNHT ngày càng tăng về  số  lượng  và  nâng  cao  dần   chất  lượng   các  linh  kiện   cung   ứng,  xuất  khẩu   ra   thị  trường thế giới. Các doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI đều đã có  những lô hàng xuất khẩu xe máy nguyên chiếc sang các thị  trường như  Châu Phi, châu Mỹ La Tinh… Năm 2011, lao động trong ngành CNHT xe máy khoảng 44.579 lao  động, công nghệ lắp ráp và chế tạo luôn được đầu tư, đổi mới; lực lượng  lạo động được đào tạo và nâng cao kỹ  năng. Năm 2012, tỷ  lệ nội địa hóa  ngành xe máy đạt từ 80 ­ 90%; năm 2013, một số dòng xe của Honda như  Future, SH vượt mức trên 90%. Thành công lớn nhất đối với ngành CNHT  sản xuất và lắp ráp xe máy của Việt Nam từ  chỗ  phải nhập khẩu 100%   linh phụ kiện của nước ngoài, giờ đây đã có thể tự sản xuất được khoảng  70% các loại linh kiện, phụ tùng, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản  phẩm xe máy sản xuất tại Việt Nam. Tuy nhiên, giá thành các linh kiện,  phụ kiện sản xuất trong nước vẫn còn cao, chất lượng chưa ổn định.  3.2.2. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp dệt may Giai đoạn từ  2002 ­ 2007, ngành dệt may Việt Nam có tốc độ  tăng   trưởng xuất khẩu đạt 20% năm. Năm 2012, Việt Nam vươn lên đứng thứ  5 trong số các nước xuất khẩu lớn trên thế giới. Năm 2013, ngành này đạt   khoảng 19 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu . Năm 2005, giá trị sản xuất công  nghiệp CNHT ngành dệt may đạt 8.934,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25,95%  ngành dệt may; năm 2013, đạt 99.671,9 tỷ  đồng, chiếm tỷ  trọng 32,5%  toàn ngành  dệt may.  Tính  đến cuối năm 2012, số   lượng doanh nghiệp   CNHT cho ngành dệt may khoảng 1.280 doanh nghiệp, chiếm 31,26% tổng   số  doanh nghiệp toàn ngành. Lao động trong lĩnh vực CNHT ngành dệt 
  13. 13 may đạt mức tăng trưởng 3,2%/năm giai đoạn 2006 – 2013. Với trên 209  nghìn lao động năm 2013 lĩnh vực CNHT ngành dệt may, chiếm 16,9%   trong tổng số  lao động toàn ngành. Tuy nhiên, chất lượng lao động của   ngành dệt may chưa cao: ngành dệt, lao động qua đào tạo chiếm 35,1%,  trình độ  cao đẳng trở  lên là 7%; ngành may, 18,24% tổng số  lao động có   trình độ  cao đẳng, đại học, 4,16% trên đại học. Sau hai năm triển khai  Chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015 và định  hướng đến năm 2020, ngành bông Việt Nam từng bước được khôi phục.   Diện tích trồng bông tăng dần theo vụ: vụ bông 2012/2013, diện tích trồng  12.000 ha, đạt 5.180 tấn bông xơ, tăng 10,4% so với mùa vụ trước. Hiện số lượng máy móc, thiết bị, trình độ công nghệ ngành dệt may  còn hạn chế  và lạc hậu. Các doanh nghiệp đầu ngành như  Công ty Cổ  phần Cơ  khí may Gia Lâm, Công ty Cổ  phần Cơ khí may Nam Định… đã  sản xuất một số  chi tiết phụ  tùng thay thế  và một số  máy móc phục vụ  ngành dệt may, nhưng do năng lực, thiết bị hạn chế, nên chưa đáp ứng kịp   yêu cầu phát triển nhanh của các doanh nghiệp dệt may; hầu hết thiết bị  công nghệ phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trong chuỗi giá trị toàn cầu của  hàng dệt may, Việt Nam mới chỉ  tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm   cuối cùng với lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Phần lớn  các nhà sản xuất sản phẩm dệt may của Việt Nam đang thực hiện các hợp  đồng ủy thác xuất khẩu CMT (gia công thuần túy). Việt Nam có tên trong  ́ ước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế  giới nhưng giá trị  thu về  top cac n thấp. 3.2.3. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điện tử Năm 1990, công nghiệp điện tử Việt Nam có vài chục doanh nghiệp,  đến nay đã có gần 500 doanh nghiệp, trong đó khoảng 1/3 là các doanh  nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng khoảng 250 ngàn lao động, đáp  ứng được nhu cầu trong nước với các loại sản phẩm điện tử, điện lạnh,  công nghệ  thông tin ­ viễn thông thông dụng với tốc độ  tăng trưởng bình  quân khoảng 20 ­ 30%/năm. Từ  năm 2011 ­ 2013, sản phẩm công nghệ  thông tin tăng trưởng từ  20% ­ 30%. Hiện nay, Việt Nam đang sản xuất  các sản phẩm hỗ trợ chủ yếu là mạch in, màn hình, vi mạch bán dẫn, các  bộ  cảm biến, các linh kiện, phụ  tùng cho thiết bị  viễn thông, thiết bị  truyền dẫn, bán dẫn, quang điện tử, vi điều khiển…Tổng doanh thu công  nghiệp điện tử Việt Nam tăng đều  năm sau cao hơn năm trước. Từ 34.782  tỷ  đồng năm 2005, 286.269 tỷ  đồng năm 2012 tăng lên 308.311 tỷ  đồng   năm 2013. Số lượng doanh nghiệp CNHT tăng lên năm 2006 có 120 doanh  nghiệp, năm 2010 là 372 doanh nghiệp. Đến năm 2013, lên tới 630 doanh  nghiệp. Vốn kinh doanh bình quân của các doanh nghiệp này năm 2005 là  21.735  tỷ  đồng, năm 2010  là 78.724  tỷ   đồng,  năm 2013 là  124.000   tỷ  đồng; tổng số lao động khoảng 240 nghìn người, giá trị tài sản cố định và  
  14. 14 đầu tư  tài chính dài hạn khoảng 60,5 nghìn tỷ  đồng, với tổng doanh thu  thuần đạt khoảng 286 nghìn tỷ đồng.  Năm 2005, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm trong ngành công nghiệp điện  tử  rất thấp khoảng 20%; chủ yếu là bao bì, linh kiện nhựa. Hiện nay, linh  kiện điện tử và các sản phẩm hỗ trợ của ngành công nghiệp điện tử  mới   được sản xuất ở Việt Nam, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm được tăng dần lên   do có thêm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Tỷ lệ nội  địa hóa của lắp ráp tivi trung bình khoảng 40%; các sản phẩm thuộc nhóm  gia   dụng   (máy   giặt,   tủ   lạnh,   điều   hòa)   khoảng   35%;   nhóm   nghe   nhìn   khoảng 30%. Theo điều tra của Tổng Công ty Điện tử  Tin học Việt Nam   (năm  2010),  tỷ   lệ   nội   địa   hoá   của  các   công   ty   liên  doanh   lớn   (SONY,   Toshiba, JVC, Deawoo) đạt khoảng 30%. Sau 5 năm gia nhập WTO, giá trị  xuất khẩu của nhóm các sản phẩm công nghệ thông tin không ngừng tăng  cao, năm 2011, đạt tới 6,8 tỷ USD và tiếp tục tăng trưởng mạnh năm 2012  và năm 2013. Về sản xuất linh kiện điện tử, từ năm 2007 tới 2013, các dự  án đầu tư vào lĩnh vực điện tử  đều có sản xuất linh kiện.  Về hàm lượng  giá trị lao động của người Việt Nam trong các sản phẩm điện tử bình quân  chỉ  chiếm 5% ­ 10% giá trị  sản phẩm. Đến nay, Việt Nam không có một  cơ sở sản xuất công nghiệp nào tham gia vào việc sản xuất vật liệu điện   tử, chỉ có ở dạng nghiên cứu cơ bản hoặc sản xuất theo mô hình phòng thí  nghiệm.  3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG  MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.3.1. Những thành tựu  Ngành CNHT Việt Nam đang từng bước phát triển. Hiện nay, có trên  60.000 doanh  nghiệp   đang phát  triển và hình  thành  các  cơ   sở  sản  xuất   nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, vật tư hỗ trợ để phục vụ cho nhu cầu lắp  ráp một số  mặt hàng công nghiệp để  phục vụ  nội địa và xuất khẩu. Các   doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có sự  đổi mới mạnh mẽ  về  công nghệ,   trang thiết bị, đầu tư  dây truyền máy móc gia công tiên tiến và hiện đại.   Trình độ của đội ngũ nhân lực, cả kỹ sư và công nhân được nâng cao. Chi   phí, hiệu quả  sản xuất, sự  chính xác của thời gian giao hàng được chú  trọng. Một số  doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đã bắt đầu bỏ  hình  thức sản xuất tích hợp theo chiều dọc trước đây và chuyển sang hình thức  đầu tư chiều sâu, chuyên môn hóa sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên  thị trường. Lĩnh vực sản xuất linh kiện kim loại đã đáp ứng được 85 ­ 90%  nhu cầu sản xuất xe máy; 40 ­ 60% cho sản xuất các loại máy nông nghiệp,   máy động lực và 40% cho máy xây dựng. Đưa tỷ lệ  nội địa hoá sản phẩm  một số ngành công nghiệp khá cao như ngành xe máy 70 ­ 90%, trang thiết  bị điện 80 ­ 90%. Các linh kiện điện tử đã xuất khẩu tới hơn 50 quốc gia và   vùng lãnh thổ  trên thế giới. Các loại sợi sản xuất trong nước đáp ứng khá  
  15. 15 tốt nhu cầu của doanh nghiệp... Có thể nói, công nghiệp Việt Nam đã phát  triển và có những đóng góp to lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội và  tăng thu hút FDI. Đặc biệt là chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của   CNHT và đã quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của ngành công nghiệp   mới này. Vì thế, CNHT bước đầu đã có sự  phát triển đáng khích lệ, góp  phần tích cực đảm bảo tính bền vững, ổn định và hiệu quả lâu dài. 3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Những hạn chế:  Số  lượng doanh nghiệp chuyên về  CNHT còn ít,  trình độ  còn thấp và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế  giới.  Sự  tăng trưởng nguồn vốn đầu tư  cho công nghiệp chế  tạo với sự  tăng trưởng giá trị sản xuất của ngành còn hạn chế, chưa tương xứng với   giá trị  sản xuất hàng năm. Hiện tại, các doanh nghiệp CNHT chủ  yếu là  DNNVV, quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ, phân tán; khả  năng cạnh tranh  kém, hoạt động chủ  yếu dưới dạng gia công, sản phẩm đơn giản, giá trị  gia tăng thấp; mức độ bền vững của các liên kết thị trường giữa các doanh  nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước cũng rất kém. Một số doanh  nghiệp Việt Nam đã đầu tư mua máy móc, dây chuyền thiết bị, công nghệ  tiên tiến của nước ngoài, nhưng việc làm chủ  các phần vận hành, bảo  dưỡng trang thiết bị  còn hạn chế. T ỷ  lệ  nội địa hóa  một số  ngành thấp,  chưa sản xuất các sản phẩm kỹ  thuật, công nghệ  cao.  Dung lượng thị  trường các ngành công nghiệp hạ nguồn hiện nay  ở Việt Nam nhỏ, chưa   hấp dẫn sản xuất CNHT. Năng lực kỹ thuật công nghệ, năng lực tổ chức  quản lý sản xuất của các doanh nghiệp CNHT còn thấp; việc áp dụng các   tiêu chuẩn quản lý hiện đại mang tính hình thức. Doanh nghiệp khó kiểm  soát chất lượng, tỷ  lệ  sản phẩm hỏng cao, dẫn đến giá thành sản phẩm  chưa thực sự  hấp dẫn được các nhà lắp ráp. Khả  năng  ứng dụng và tính  sáng tạo của nguồn nhân lực rất hạn chế.  Những nguyên nhân của hạn chế:  Việc hoạch định chính sách  ở  Việt Nam, ít có sự tham gia của các của các nhà tài trợ, các chuyên gia, các  nhà khoa học... Các định chế  trung gian để  hỗ  trợ  các doanh nghiệp trong   phát triển sản phẩm CNHT còn thiếu, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ tài   chính. Các quy định về quản lý hành chính còn rườm rà. Hạ tầng cung ứng  cho doanh nghiệp khi tham gia vào CNHT chưa tốt, thiếu thốn và đắt đỏ,   điều này sẽ làm chi phí sản xuất tăng lên, nhiều doanh nghiệp không dám  đầu tư. Các doanh nghiệp trong nước không đủ niềm tin và ý thức tích lũy  kỹ năng. Khả năng ứng dụng và tính sáng tạo của nguồn nhân lực còn hạn  chế. Thiếu nguồn nhân lực công nghiệp cao một phần do xã hội chưa quan  tâm đúng mức đối với các ngành CNHT, một phần do chất lượng đào tạo  hiện nay thiếu tính thực tiễn. Các kênh thông tin giữa các doanh nghiệp  FDI/nhà lắp ráp; các công ty nội địa, các tập đoàn lớn bên ngoài còn thiếu.   Chưa có cơ  sở  dữ  liệu quốc gia về  lĩnh vực này. Tính hợp tác ­ liên kết 
  16. 16 giữa các doanh nghiệp hỗ trợ với các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp, giữa  nhà lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ, giữa các nhà sản xuất hỗ trợ với  nhau còn yếu. Đặc biệt, thiếu sự  liên kết giữa khối doanh nghiệp trong   nước và khối doanh nghiệp FDI, phần nào hạn chế sự lan tỏa tích cực của  FDI vào Việt Nam. Các nhà cung cấp Việt Nam ít chịu hợp tác, liên kết với  các đối tác khác. Công tác hậu kiểm yếu, chưa được quan tâm,  dẫn đến  nhiều doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng  ưu đãi đầu tư, không thực hiện  cam kết đầu tư  hoặc giả  danh vào Việt Nam đầu tư, rồi vay nợ  làm ăn  thua lỗ, bỏ nhà máy, bỏ dự án về nước. 3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển công nghiệp hỗ trợ  trong một số ngành công nghiệp Việt Nam.  Một là, những vấn đề trong quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ  Hai là, những vấn đề về vốn, công nghệ trong phát triển CNHT Ba là, những vấn đề về nhân lực trong phát triển công nghiệp hỗ trợ Bốn là, những vấn đề  về  phát triển công nghiệp hỗ  trợ  khi tái cấu  trúc một số ngành công nghiệp ở Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn  cầu Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG  NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT  NAM ĐẾN NĂM 2020 4.1. QUAN ĐIỂM CƠ  BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ  TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Mối quan tâm hàng đầu hiện nay là đẩy mạnh công nghệ cao có tính  đổi mới và độc lập trong các SMEs. Các nước trên thế giới và khu vực đều  có xu hướng mở rộng thị trường, phát triển CNHT đạt  ở  mức độ  cao về  chuyên môn hóa và tham gia vào mạng lưới sản xuất trong khu vực và trên  thế giới. Một làn sóng mới về đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp  chế  tạo Nhật Bản, Hàn Quốc gia tăng. Trong tương lai không xa, ngành   CNHT sẽ trở thành trung tâm của nền công nghiệp. Các dịch vụ sản xuất,   linh kiện, phụ  tùng, xây dựng và vận hành các dây chuyền lắp ráp, vận  chuyển, phân phối sản phẩm như một chuỗi khép kín, mang tính toàn cầu.  Các chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu sẽ hình thành và phát triển.   4.1.1. Xu hướng phát triển các ngành công nghiệp và công nghiệp  hỗ trợ Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn năm 2030 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  XI, Đảng Cộng sản   Việt Nam khẳng định, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ 
  17. 17 bản trở  thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo đó, xu  hướng phát triển CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử như sau: CNHT xe máy Việt Nam, dự báo đầy triển vọng, nhiều nhà sản xuất  trong lĩnh vực CNHT xe máy của Việt Nam đã có những bước điều chỉnh  trong chiến lược sản xuất để  nắm bắt cơ hội tốt này. Các liên doanh sản  xuất xe máy ở  Việt Nam cũng không ngừng mở rộng nhà máy, nâng công  suất, tăng công suất sản xuất xe máy hiện có. Việc đầu tư lớn và mở rộng  sản xuất của doanh nghiệp xe máy trong nước đã chứng tỏ  thị  trưởng xe   máy  ở  Việt Nam vẫn tiềm năng trong chiến lược của những nhà đầu tư  ngoại quốc.   Ngành dệt may, phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa,  tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Đáp ứng được 80% nhu  cầu nội địa và tiến tới xuất khẩu sau năm 2020; đến năm 2030, ngành dệt  may sẽ  tập trung khâu thiết kế  mẫu mã đáp  ứng nhu cầu sản phẩm cao   cấp phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. CNHT ngành dệt may, tăng   cường thu hút đầu tư, sản xuất xơ, sợi, vải và các nguyên phụ  liệu ngành  dệt may, hướng tới nội địa hóa các lĩnh vực CNHT để thay thế hàng nhập  khẩu, nâng cao tính chủ động trong sản xuất và khả  năng cạnh tranh của  sản phẩm cuối cùng.   Ngành điện tử, xây dựng một số nhà máy sản xuất các thiết bị điện  tử y tế kỹ thuật cao, thiết bị cảnh báo điện tử. Đến năm 2020, nhóm ngành  sản phẩm ưu tiên là linh kiện điện tử phục vụ sản xuất và lắp ráp thiết bị  văn phòng, thiết bị viễn thông, đồ gia dụng, thiết bị nghe nhìn, cơ điện tử,   linh kiện điện tử. Đến năm 2030, nhóm ngành sản phẩm ưu tiên hệ thống  vi cơ điện tử (MENS), hệ thống NANO cơ điện tử (NEMS); vi mạch điện  tử phục vụ ngành công nghệ cao; mạch tích hợp, bộ nhớ dung lượng cao;  vật liệu bán dẫn, vật liệu từ tính phục vụ xuất khẩu. 4.1.2. Một số quan điểm cơ bản Nhận thức rõ vai trò phát triển CNHT, phải coi phát triển CNHT là   khâu đột phá, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp Phát triển CNHT  phải khai thác lợi thế  quốc gia, hướng vào xuất  khẩu, tham gia chuỗi giá trị  toàn cầu, với sự  tham gia của các thành phần  kinh tế Phát triển CNHT phải tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế  thị  trường, phù hợp với thông lệ  quốc tế, xây dựng nền kinh tế  xanh và  bền vững  Phải tăng cường vai trò của Nhà nước cho phát triển CNHT trong   một số ngành công nghiệp 
  18. 18 Phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp phải đảm bảo tái   cấu trúc ngành công nghiệp cũng như  tái cấu trúc nền kinh tế  Việt Nam   hiệu quả  4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ  TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 4.2.1. Nhóm các giải pháp chung phát triển công nghiệp hỗ  trợ   trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam 4.2.1.1. Xây đựng Quy hoạch phát triển cho ngành công nghiệp hỗ   trợ  Với  vai trò  quan trọng của  CNHT, việc xây dựng quy hoạch cho  ngành CNHT là cần thiết và cấp bách, đảm bảo sự phát triển CNHT đúng   định hướng, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Trên cơ  sở  Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt  Nam đã ban hành, Chính phủ cần xây dựng Quy hoạch phát triển các ngành  CNHT,  dựa trên tiềm năng,  lợi thế  so sánh; có lộ  trình, phương án quy  hoạch dài hạn; cụ thể  theo từng yêu cầu trong từng giai đoạn, cũng như ở  mỗi địa phương, mỗi ngành; có sự phối hợp chặt chẽ và đồng thuận giữa  các bên liên quan.  Trước mặt, cần tập trung vào một số giải pháp cụ  thể như: (i) tiếp   tục nâng cao nhận thức về  CNHT; xác định rõ phạm vi CNHT. (ii) Các   Bộ, ngành tích cực phối hợp xây dựng cơ  chế, chính sách phù hợp để  khuyến   khích   đầu   tư   phát   triển   CNHT;   phát   triển   vùng   nguyên   liệu,  nguồn nhân lực cho ngành CNHT. (iii) Các địa phương, rà soát, điều chỉnh  quy hoạch phát triển CNHT địa phương mình phù hợp với định hướng  phát   triển   ngành   CNHT,   ngành   công   nghiệp   cả   nước.   (iv)   Các   doanh  nghiệp căn cứ  Quy hoạch phát triển CNHT điều chỉnh Chiến lược và Kế  hoạch đầu tư  phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghi ệp. (v)   Bộ  Công thương  đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm toán … quy   hoạch phát triển của địa phương, của ngành, kịp thời có giải pháp hiệu  quả, khả thi; định kỳ tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm. 4.2.1.2. Hoàn thiện hệ  thống luật pháp và chính sách phát triển   công nghiệp hỗ trợ  Hoàn thiện  thể  chế  về  CNHT:  Khung pháp lý điều tiết hoạt động  của các chủ  thể  tham gia CNHT; thành lập cơ  quan đầu mối thống nhất  quản lý  ở  cấp vĩ mô và hiệp hội doanh nghiệp CNHT để  phối hợp,  liên  kết hoạt  động  ở  cấp vi mô.  Tạo thuận lợi về  quỹ   đất cho các doanh  nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, được thuê lâu dài và  ổn định. Xây   dựng các doanh nghiệp chủ  chốt  ở  một số  lĩnh vực cơ  khí chế  tạo, sản   xuất linh kiện theo hình thức thành lập mới, khi đi vào hoạt động có hiệu  quả thì sẽ triển khai cổ phần hóa. Điều chỉnh một số chính sách tài chính  
  19. 19 hiện hành liên quan đến phát triển CNHT, có sự   ưu tiên, trọng tâm từng   giai đoạn phát triển.  (1) Chính sách  ưu đãi về  thuế: Đối với thuế  xuất khẩu, thuế  nhập   khẩu: lĩnh vực CNHT cần được  ưu tiên tương tự  như  lĩnh vực “đặc biệt  khuyến khích đầu tư”, để  khi nhập khẩu hàng hóa được miễn thuế  nhập   khẩu.  Đối với thuế  giá trị  gia tăng (VAT): các sản phẩm, linh kiện được  các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hạ  nguồn chấp thuận và đặt  hàng; các dự  án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ  cao,  Chính phủ hỗ trợ thuế VAT thấp từ 5 ­7% (mức thuế quy định là 10%) và  có cơ chế miễn, giãn thuế VAT khi gặp điều kiện kinh tế khó khăn, nhằm  kích cầu đầu tư  và sử  dụng sản phẩm CNHT trong nước đối với một số  sản phẩm CNHT. Đối với thuế  thu nhập doanh nghiệp, được miễn thuế  TNDN trong 4 năm kể  từ  khi có thu nhập chịu thuế  và giảm 50% cho 9   năm tiếp theo. Đề xuất, ưu đãi tương tư đối với các doanh nghiệp nội địa  làm công việc hỗ trợ. Đối với thuế thu nhập cá nhân, người Việt Nam và  người nước ngoài làm việc tại Khu công nghiệp, Khu kinh tế được giảm  50% thuế  thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế  thu  nhập,... (2) Chính sách liên quan đến chi phí sản xuất: Các doanh nghiệp đầu  tư  trong lĩnh vực CNHT không thuộc Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt   khuyến khích đầu tư  (khoản A ­ Phụ lục I ­ Nghị định 108/2006/NĐ­CP),   vì vậy không thuộc nhóm đối tượng được hưởng các  ưu đãi về  thuế  sử  dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước theo quy   định của pháp luật về  đất đai và pháp luật về  thuế  (Điều 26, Nghị  định   108/2006/NĐ­CP). Đề  xuất bổ sung doanh nghiệp đầu tư  lĩnh vực CNHT  vào   Danh   mục   lĩnh   vực   hoặc   đặc   biệt   khuyến   khích   đầu   tư   để   được  hưởng ưu đãi này. (3) Chính sách tín dụng: Nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản để  thành lập hệ  thống ngân hàng phục vụ  các DNNVV, có cơ  chế  về  bảo   lãnh tín dụng, về thế chấp tài sản...    4.2.1.3. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp hỗ trợ với   hoạt động của các doanh nghiệp trong một số ngành công nghiệp  Đẩy mạnh việc giới thiệu nhu cầu phát triển và sử  dụng sản phẩm  hỗ  trợ, nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ, chợ  công nghiệp,  triển lãm, hội thảo chuyên đề về phát triển CNHT. Xây dựng các chương   trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược ­ các công ty, tập đoàn đa  quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng. Đổi mới  mô hình tổ  chức các Viện nghiên cứu chuyên ngành để  làm cầu nối giữa   nghiên cứu ­ thiết kế  ­  ứng dụng, gắn quá trình nghiên cứu với chuyển   giao đưa vào sản xuất. Đổi mới cơ  chế  tổ chức, hoạt động của các Hiệp  hội ngành nghề để đóng vai trò đại diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài   trợ  của Chính phủ  và của các tổ  chức, cá nhân trong và ngoài nước thực 
  20. 20 hiện các giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc tiến đầu tư, phát triển thị  trường, đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển CNHT. Nhà nước cần có  những chính sách tác động đến những yếu tố chi phối năng lực cạnh tranh,  tăng   trưởng,   tạo   môi   trường   thuận   lợi,   giảm   thiểu   rủi   ro   cho   doanh   nghiệp.  4.2.1.4. Đa dạng hóa công nghiệp hỗ trợ hướng vào sản phẩm có   giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để  hỗ  trợ  các  doanh nghiệp trong nước sản xuất các linh, phụ kiện công nghệ cao. Tăng  cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao.  Xúc tiến các  hoạt động CNHT mới giàu tiềm năng tăng trưởng, tạo việc làm và phát  triển công nghệ. Có những chính sách thích hợp, tập hợp các doanh nghiệp   này trong các KCN, khu CNHT tập trung, sử dụng chung hệ thống xử lý   chất thải. Không bố trí các KCN, khu CNHT gần các khu lịch, khu đông dân  cư, văn hóa,… Không phê duyệt, cấp phép xây dựng các dự  án đầu tư  và   triển khai xây dựng khi chưa có đánh giá tác động môi trường. Khuyến  khích các doanh nghiệp đưa tiêu chí về trình độ  công nghệ  và bảo vệ  môi   trường lên vị trí quan trọng khi xem xét lựa chọn; đầu tư đổi mới trang thiết  bị, áp dụng công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu chất thải, thực hiện sản   xuất sạch, kiểm soát các chất gây ô nhiễm môi trường không khí tại nơi  sản xuất. Xây dựng hệ  thống xử lý chất thải tập trung cho các KCN, khu  CNHT. Hoàn thiện việc xử  lý ô nhiễm với các dự  án liên quan đến các  ngành công nghiệp, các cơ sở CNHT phân tán. 4.2.1.5. Phát triển cụm liên kết ngành  gia tăng năng suất, nâng   cao sức cạnh tranh sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phải có chính sách cho việc phát triển cụm liên kết ngành  (CLKN), tăng cường nâng cao nhận thức về  CLKN, xây dựng và hoàn  thiện quy hoạch phát triển KCN ­ CCN của ngành, địa phương gắn với  định hướng chính sách phát triển CLKN. Lựa chọn lĩnh vực và xây dựng  một số  mô hình CLKN trong các ngành, lĩnh vực tiềm năng. Về  mô hình  CLKN, Việt Nam nên chọn mô hình tích hợp của Nhật Bản để  phát triển  CNHT gắn với CLKN trong sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có  vốn đầu tư  nước ngoài và doanh nghiệp nội địa sẽ  là một hướng đi đúng,  có triển vọng. 4.2.1.6. Thiết kế và quản trị cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ Cần có kế  hoạch tổng thể, dài hạn và có lộ  trình cụ  thể  xây dựng  CSDL về CNHT quốc gia. Tổng cục Thống kê (Bộ Kế  hoạch và Đầu tư)  chủ  trì xây dựng và đưa lên WEBSITE của Tổng cục Thống kê. Tuyên  truyền, vận động, hướng dẫn để  các doanh nghiệp lĩnh vực CNHT tích  cực tham gia đăng ký cập nhật dữ  liệu và quá trình hoạt động của mình   phục vụ  cho việc xây dựng CSDL về  CNHT quốc gia. Xây dựng cơ  chế 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1