Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O<br />
<br />
C¤NG TR×NH §¦îC HOµN THµNH t¹i<br />
<br />
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n<br />
<br />
Trêng ®¹i häc Kinh tÕ Quèc d©n<br />
<br />
<br />
<br />
PHAN THÞ THU H¦¥NG<br />
<br />
NGHI£N CøU øNG DôNG<br />
TµI KHO¶N VÖ TINH DU LÞCH ë CÊP TØNH, THµNH PHè<br />
(MINH HäA T¹I ThõA THI£N HUÕ)<br />
<br />
Ngêi híng dÉn khoa häc:<br />
1. PGS.TS. TRẦN THỊ KIM THU<br />
2. PGS.TS. PHẠM TRUNG LƯƠNG<br />
<br />
Ph¶n biÖn 1:<br />
<br />
Ph¶n biÖn 2:<br />
Chuyªn ngµnh: KINH TÕ HäC (THèNG K£ KINH TÕ)<br />
M· sè: 62310101<br />
<br />
Ph¶n biÖn 3:<br />
<br />
LuËn ¸n ®îc b¶o vÖ tríc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp<br />
Trêng §¹i häc kinh tÕ quèc d©n<br />
Vµo håi:<br />
<br />
ngµy<br />
<br />
th¸ng<br />
<br />
Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i:<br />
- Th viÖn Quèc gia<br />
Hµ Néi - 2016<br />
<br />
- Th viÖn §¹i häc kinh tÕ quèc d©n<br />
<br />
n¨m 201...<br />
<br />
1<br />
PHẦN MỞ ĐẦU<br />
<br />
2<br />
Như đã đề cập ở trên, việc áp dụng TKVTDL đã triển khai ở qui mô quốc gia. Tuy nhiên ở<br />
<br />
1. Tính cấp thiết của đề tài<br />
<br />
qui mô cấp tỉnh là vấn đề mới và kết quả áp dụng TKVTDL ở cấp tỉnh có ảnh hưởng rất lớn đến<br />
<br />
1.1. Ý nghĩa nghiên cứu<br />
<br />
việc áp dụng TKVTDL ở cấp quốc gia. Chính vì vậy việc nghiên cứu ứng dụng TKVTDL ở cấp<br />
<br />
Du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam,<br />
<br />
tỉnh không chỉ có ý nghĩa về lý luận mà còn có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn.<br />
<br />
cũng như ở nhiều địa phương trong cả nước. Theo Tổng Cục Du lịch (TCDL), (2012), “rất nhiều<br />
<br />
1.2. Thực trạng về việc lập tài khoản vệ tinh du lịch cấp tỉnh<br />
<br />
địa phương tại Việt Nam đã xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn và là hướng ưu tiên trong<br />
<br />
Trong quá trình nghiên cứu ứng dụng TKVTDL ở các quốc gia, do những lợi ích mang lại trong<br />
<br />
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Với lợi thế là một điểm đến hấp dẫn, an toàn<br />
<br />
việc xác định tác động của du lịch đối với nền kinh tế, việc nghiên cứu về TKVTDL cho cấp khu vực,<br />
<br />
cho du khách trong và ngoài nước, ngành du lịch Việt Nam cũng như hoạt động du lịch tại các địa<br />
<br />
vùng, địa phương được các quốc gia nhấn mạnh. Canada là trong những quốc gia tiên phong trong việc<br />
<br />
phương trong thời gian qua đã có bước phát triển nhanh và khá vững chắc, số lượng khách du lịch<br />
<br />
phát triển TKVTDL cấp tỉnh, một số các quốc gia và vùng cũng xây dựng tính toán tác động du lịch ở<br />
<br />
quốc tế và nội địa tăng cao; thu hút đầu tư mạnh mẽ trong và ngoài nước; cơ sở hạ tầng và cơ sở<br />
<br />
phạm vi khu vực, vùng.<br />
<br />
vật chất phục vụ cho ngành du lịch được mở rộng, nhiều khu, điểm du lịch mới ra đời”.<br />
Tuy nhiên cho đến nay, do hạn chế của công tác thống kê du lịch, đặc điểm về sự phát triển<br />
cũng như các kết quả của hoạt động kinh doanh du lịch và sự đóng góp của du lịch vào phát triển<br />
kinh tế - xã hội ở phạm vi cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cấp tỉnh) còn<br />
chưa được phản ánh một cách kịp thời và đầy đủ. Do đó, chính quyền địa phương, cơ quan quản<br />
lý ngành du lịch, các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân thiếu những thông tin chính xác để<br />
<br />
Việc ước tính kết quả kinh doanh du lịch cấp vùng đã được tiến hành ở một số quốc gia như<br />
Australia, Đan Mạch, Phần Lan và Na Uy, trong đó hệ thống TKVTDL cấp vùng, TKQG đã được phát<br />
triển dựa trên hệ thống đầu vào – đầu ra, sử dụng mô hình bảng IO để tính toán các chỉ tiêu tài khoản sản<br />
xuất và thu nhập, việc làm được tạo ra ở các địa phương trong vùng.<br />
Các sáng kiến về TKVTDL vùng (RTSA – Regional Tourism Satellite Account) đã được thực<br />
hiện thành công ở các vùng khác nhau của Tây Ban Nha cũng như nhiều nước khác như Wales trong<br />
Vương Quốc Anh). Như vậy, TKVTDL đang phát triển như là sản phẩm độc lập bằng cách sử dụng thông<br />
<br />
xây dựng các chính sách và kế hoạch hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong lĩnh vực du lịch.<br />
<br />
tin thống kê có liên quan, hình thành nên một RTSA có qui mô cơ bản, với những điều chỉnh cần thiết cho<br />
<br />
Chính vì vậy yêu cầu về việc có được hệ thống số liệu thống kê du lịch ở cấp tỉnh, phản ánh đầy<br />
<br />
việc cung cấp phương pháp ước lượng các khái niệm có liên quan để nghiên cứu tác động kinh tế du lịch ở<br />
<br />
đủ, đúng bản chất hoạt động du lịch để qua đó đánh giá đúng được tác động của hoạt động du lịch<br />
<br />
cấp vùng, lãnh thổ.<br />
<br />
đối với phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương ngày càng được quan tâm, chú trọng. Trong<br />
<br />
Tuy nhiên, việc thiếu một khung lý luận thống kê đã dẫn đến sự không thống nhất về phương pháp<br />
<br />
Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến 2030, “Chương trình xây dựng<br />
<br />
tiếp cận, phương pháp thực hiện và kết quả là nảy sinh nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện RTSA ở<br />
<br />
cơ sở dữ liệu về thống kê du lịch và áp dụng Tài khoản vệ tinh du lịch (TKVTDL) được xác định<br />
<br />
các quốc gia. Năm 2009, việc hình thành mạng lưới quốc tế về kinh tế khu vực được hình thành, theo sáng<br />
<br />
là một trong những chương trình ưu tiên hàng đầu của ngành du lịch trong giai đoạn phát triển<br />
<br />
kiến của UNWTO, nhằm trao đổi kiến thức và kinh nghiệm trong phân tích kinh tế du lịch ở cấp khu vực.<br />
<br />
đến năm 2020”.<br />
<br />
Các chương trình thực hiện bao gồm nghiên cứu và phân tích đóng góp của ngành du lịch, với sự nhấn<br />
<br />
Du lịch được coi là ngành kinh tế tổng hợp, liên quan đến hoạt động của nhiều ngành kinh<br />
tế khác trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân, vì vậy việc đo lường hoạt động du lịch không thể<br />
chính xác nếu tuân thủ theo qui định thống kê hiện nay trong Hệ thống TKQG. Vấn đề này không<br />
chỉ tồn tại ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Giải pháp cho vấn đề này được<br />
người Pháp khởi xướng từ những năm 80 của Thế kỷ XX, chính là ý tưởng về xây dựng Tài<br />
khoản vệ tinh. Tài khoản vệ tinh có tính độc lập nhưng vẫn có sự liên kết với Hệ thống TKQG,<br />
giúp xác định các ngành “ẩn” trong hệ thống các tài khoản gốc và do vậy, du lịch ở nhiều quốc<br />
gia đã nhanh chóng sử dụng công cụ mới này. Mặc dù đã có sự thành công ở nhiều quốc gia trong<br />
việc áp dụng TKVTDL, nhưng các công cụ thống kê trong lĩnh vực này luôn cần phải liên tục cập<br />
nhật, để thích ứng với những thay đổi về kinh tế và phù hợp với điều kiện hạ tầng thông tin thống<br />
kê của từng quốc gia nói riêng và trên thế giới nói chung.<br />
<br />
mạnh vào sự phát triển của các TKVTDL cấp khu vực.<br />
<br />
Tại Việt Nam, trong những năm qua, công tác thống kê du lịch còn nhiều hạn chế từ nhận<br />
thức đến phương pháp thống kê; sự thiếu nhất quán trong tổ chức thống kê du lịch giữa cấp quốc<br />
gia và cấp địa phương, v.v. Điều này thể hiện ở việc công bố số liệu thống kê về du lịch của các<br />
địa phương so với cả nước còn chưa đúng về bản chất. Ví dụ, tại Cổng thông tin điện tử Chính<br />
phủ, Thành phố Hồ Chí Minh, (2015), UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã công bố “Lượng<br />
khách du lịch quốc tế đến thành phố năm 2014 là 4,4 triệu lượt khách chiếm 56% lượng khách du<br />
lịch quốc tế đến Việt Nam”. Đây cũng là tình trạng chung của phần lớn địa phương trong cả nước trong<br />
thống kê du lịch.<br />
Ở phạm vi quốc gia, số liệu thống kê về lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam cũng chưa hoàn<br />
toàn chính xác do chưa loại trừ được khách quốc tế vào Việt Nam trong ngày ở các cửa khẩu đường bộ<br />
<br />
3<br />
<br />
4<br />
<br />
với mục đích thương mại; lượng khách quốc tế vào Việt Nam với tư cách là người lao động tại các khu<br />
<br />
Một trong những câu hỏi mà các nhà nghiên cứu và quản lý đặt ra là: “Làm thế nào để phản ánh<br />
<br />
công nghiệp; lượng khách quốc tế vào Việt Nam với mục đích thăm thân mà không sử dụng các dịch vụ<br />
<br />
một cách đầy đủ và toàn diện hoạt động du lịch?”. Do vậy đến nay đã có rất nhiều công trình<br />
<br />
du lịch; v.v.. Cùng với đó là số liệu thống kê về lượng khách du lịch quốc tế đi lại giữa các địa phương và<br />
<br />
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.<br />
<br />
lượng khách du lịch nội địa cũng chỉ là ước tính dựa trên ý chí chủ quan của cơ quan quản lý nhà nước về<br />
du lịch ở trung ương do không đủ nguồn lực cho việc điều tra ở cấp địa phương. Điều này cũng cho thấy<br />
“lỗ hổng” trong việc kết nối thống kê về du lịch giữa cấp địa phương và cấp trung ương.<br />
<br />
Thực trạng công tác thống kê trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định đúng bản<br />
chất, vai trò của ngành du lịch trong hệ thống các ngành kinh tế; sự đóng góp của ngành du lịch<br />
đối với phát triển kinh tế - xã hội và qua đó ảnh hưởng đến việc xây dựng và ban hành các chính<br />
sách liên quan đến phát triển du lịch ở phạm vi quốc gia cũng như của từng địa phương.<br />
Để từng bước khắc phục tình trạng trên, trong những năm qua, được sự quan tâm của Chính<br />
phủ, các cơ quan ban ngành, được sự hỗ trợ của dự án EU, TCDL đã triển khai đề án áp dụng<br />
TKVTDL tại Việt Nam, một số nội dung liên quan đến công tác thống kê du lịch đang từng bước<br />
được hoàn thiện theo hướng ứng dụng các tiêu chuẩn quốc tế. Trong khuôn khổ Đề án của TCDL<br />
về ứng dụng TKVTDL ở Việt Nam, một số nghiên cứu đã được triển khai thử nghiệm ở cấp quốc<br />
gia trên cơ sở nguồn số liệu năm 2008.<br />
Việc ứng dụng TKVTDL ở cấp quốc gia đã có một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên việc<br />
triển khai ứng dụng lập TKVTDL cấp tỉnh với những đặc thù riêng song phù hợp với các tiêu chí<br />
chung ở cấp trung ương để tiến tới kết nối hệ thống TKVTDL các địa phương như một cấu thành<br />
của TKVTDL Việt Nam vẫn chưa được thực hiện cho đến thời điểm này. Nếu việc nghiên cứu<br />
lập TKVTDL cấp tỉnh, chưa được thực hiện thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc triển khai ứng dụng<br />
có hiệu quả TKVTDL cấp quốc gia. Bên cạnh đó, như đã đề cập ở trên, việc ứng dụng lập<br />
TKVTDL cấp tỉnh là một yêu cầu cấp thiết ở các địa phương trong cả nước nhằm xác định đúng<br />
vai trò của ngành du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội và qua đó có những định hướng xây<br />
dựng và ban hành các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển du lịch địa phương.<br />
Như vậy có thể thấy việc thực hiện nghiên cứu vấn đề này sẽ có ý nghĩa rất lớn không chỉ<br />
đối lớn đối với các địa phương mà còn đối với ngành du lịch trong việc hoàn thiện công tác thống<br />
kê du lịch từ trung ương đến địa phương, qua đó xác định đúng hơn về bản chất đóng góp hoạt<br />
động du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội ở cấp tỉnh và trên phạm vi quốc gia, là cơ sở để<br />
hoạch định chính sách phát triển du lịch ở cấp tỉnh hiện nay.<br />
Ngoài ra nghiên cứu này cũng có ý nghĩa trong việc hoàn thiện hệ thống tài khoản thống kê<br />
ở Việt Nam trên bình diện quốc gia và địa phương.<br />
1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu<br />
Trên thế giới, ngay từ những năm 70, đã khẳng định vai trò của du lịch đối với nền kinh tế<br />
và nội dung này luôn là vấn đề được các giới nghiên cứu và các nhà quản lý thực tiễn quan tâm.<br />
<br />
Các công cụ phân tích quan trọng nhất được phát triển trong vài thập kỷ qua để đo nhu cầu<br />
và tính toán tác động trực tiếp của du lịch của đối với nền kinh tế có thể điểm qua gồm:<br />
- Tài khoản vệ tinh du lịch (TSA);<br />
- Mô hình Input-output (I-O);<br />
- Ma trận hạch toán xã hội (SAM);<br />
- Mô hình Cân bằng chung (CGE);<br />
Các mô hình trên được coi là những công cụ trong việc mở rộng kiến thức về tác động kinh<br />
tế du lịch cho một quốc gia, mỗi mô hình, mỗi phương pháp sử dụng ở trên có những ưu và<br />
nhược điểm riêng, tuy nhiên theo Agustin (2013), “TKVTDL được đánh giá là một trong những<br />
phương pháp tốt nhất để đo đóng góp của du lịch đối với nền kinh tế quốc gia, vùng, lãnh thổ”.<br />
Các tính năng, ưu điểm của TKVTDL tạo ra được sự quan tâm ngày càng tăng trong việc mở<br />
rộng các khái niệm TKVTDL, định nghĩa, phạm vi và khuôn khổ cho các quốc gia, khu vực địa<br />
phương trong việc đánh giá vai trò của ngành du lịch (Calvin Jones, 2014).<br />
Theo UNWTO, (2008) cho rằng TKVTDL là một phương pháp đặc biệt, cách tiếp cận độc<br />
đáo của nó xuất phát từ sử dụng các nguyên tắc và cấu trúc của hệ thống quốc tế thông qua các<br />
TKQG để đo lường tác động kinh tế trực tiếp của ngành du lịch. Các TKVTDL bao gồm một tập<br />
hợp các bảng liên quan đến nhau phản ánh các hình thức khác nhau của tiêu dùng du lịch trong<br />
một quốc gia, vùng lãnh thổ và những đóng góp trực tiếp vào GDP, việc làm và các biện pháp<br />
kinh tế vĩ mô khác của một nền kinh tế đang xem xét. Vì vậy, hai tổ chức quốc tế chính thức là<br />
Liên hợp quốc và UNWTO trong những năm qua đã từng bước khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ<br />
các quốc gia hoàn thiện công tác xây dựng TKVTDL ở quốc gia mình. Các giải pháp được các tổ<br />
chức tiếp nhận và chia sẻ tri thức bao gồm các hướng dẫn của UNWTO trong việc hỗ trợ tài liệu<br />
hướng dẫn, cũng như thường xuyên tổ chức các hội thảo chia sẻ kinh nghiệm của các nước đi đầu<br />
trong việc xây dựng TKVTDL.<br />
Sự đa dạng của các trường phái đặt ra thách thức cho việc xây dựng một mô hình hóa quá<br />
trình tiếp thu tri thức. Tuy nhiên cũng nhìn nhận rằng các trường phái trên không mâu thuẫn mà<br />
thực sự bổ sung cho nhau. TKVTDL sử dụng khuôn khổ cơ bản của TKQG và thường xuyên sửa<br />
đổi nó để đưa ra những tính năng đầy đủ. Tuy nhiên như đã đề cập ở trên, cho đến nay chưa có<br />
được câu trả lời cho TKVTDL hoàn chỉnh và hiện mới có 4 phiên bản TSA đã được soạn thảo,<br />
bao gồm: i) phiên bản Thống kê Canada, ii) phiên bản của UNWTO; iii) Phiên bản OECD; iv)<br />
phiên bản của WTTC. Tất cả 4 phiên bản có một khối lượng dữ liệu chung, nhưng cũng nhiều sự<br />
khác biệt. Do vậy TKVTDL luôn là chủ đề của các cuộc thảo luận và tham khảo ý kiến, và có khả<br />
<br />
5<br />
<br />
6<br />
<br />
năng được cải tiến hơn nữa trong những phương pháp tiếp cận và thu hẹp sự khác biệt giữa các<br />
<br />
lịch nội địa, là tài liệu tham khảo để các quốc gia thực hiện trong điều kiện thực tế của mình, khi mà tỉ lệ<br />
<br />
phiên bản trên.<br />
<br />
khách du lịch nội địa ngày càng tăng.<br />
<br />
Qua nghiên cứu tổng quan, có thể nhận thấy hiện có khá nhiều tài liệu và công trình khoa<br />
<br />
Agustin Canada, (2013), Region Tourism Satellite Account, (RTSA- Tài khoản vệ tinh du lịch<br />
<br />
học nghiên cứu liên quan đến TKVTDL, TKVTDL tính toán trên phạm vi quốc gia và cho từng<br />
<br />
vùng, khu vực), nội dung tài liệu được coi là khung lý luận về RTSA, bao gồm các quy định cụ thể và các<br />
<br />
vùng, lãnh thổ cụ thể (nhiều quốc gia đã tính TKVTDL đối tỉnh, thành phố, bang, vùng..). Tuy<br />
nhiên, từ những góc độ khác nhau, các nghiên cứu đã đề cập và giải quyết việc thu thập, tính toán<br />
và phân tích tác động kinh tế của du lịch trên cơ sở phương pháp luận của Hệ thống TKQG SNA<br />
ở các phạm vi và mức độ khác nhau. Có thể điểm qua một số các công trình tiêu biểu như sau:<br />
<br />
yếu tố cơ bản cần có để tiếp cận với mô hình TKVTDL ở phạm vi khác với quốc gia. Mục đích của bài<br />
viết là phác thảo cho một RTSA như là một điểm khởi đầu cho sự phát triển của hệ thống đo lường kinh tế<br />
du lịch tại các địa phương, mang lại sự đồng nhất, và so sánh liên vùng với nhau.<br />
Ngoài ra, luận án đã tham khảo việc xây dựng TKVTDL địa phương của Canada, Australia, Đan<br />
Mạch, Hoa Kỳ,.. Các quốc gia trên đã xây dựng TKVTDL cấp tỉnh và cấp bang dựa trên hướng dẫn của<br />
<br />
1.3.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài<br />
<br />
UNWTO. Đó là cơ sở để tham khảo mô hình, kinh nghiệm cũng như những đánh giá mang tính toàn diện<br />
<br />
- Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) cùng với Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế<br />
<br />
hoạt động du lịch ở phạm vi cấp tỉnh tại Việt Nam hiện nay.<br />
<br />
(OECD), (2001) giới thiệu cuốn “Tourism Satellite Account: Recommended Methological<br />
<br />
1.3.2. Các công trình nghiên cứu trong nước<br />
<br />
Frameword’’. (Tài khoản vệ tinh du lịch: Khuyến cáo về khung lý luận), cuốn tài liệu này hướng<br />
<br />
Tại Việt Nam hiện nay, đã có hệ thống chỉ tiêu chung đánh giá sự phát triển hàng năm, do<br />
<br />
dẫn cho các nước biên soạn TKVTDL. Nội dung chủ yếu phản ánh những vấn đề mang tính lý<br />
<br />
TCTK biên soạn và tổ chức điều tra thông tin. Hệ thống này cũng được hoàn thiện cả về lý luận,<br />
<br />
thuyết bao gồm các khái niệm liên quan đến cầu và cung hoạt động du lịch, đặc biệt đề xuất 10<br />
<br />
phương pháp tính và hệ thống chỉ tiêu, cách thức tiến hành điều tra hàng năm cho phù hợp với sự<br />
<br />
bảng TKVTDL để các nước có thể dựa vào đó tiến hành biên soạn TKVTDL của nước mình.<br />
<br />
phát triển chung của toàn xã hội, phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi hội nhập với WTO,<br />
<br />
- UNWTO (2005), đưa ra chuẩn thống kê du lịch trong cuốn “Tourism Sattellite Account”<br />
<br />
APEC, … phù hợp với xu hướng chung của thế giới.<br />
<br />
(Tài khoản vệ tinh du lịch), tài liệu khuyến khích các nước thành viên nghiên cứu triển khai áp<br />
<br />
Thủ tướng Chính phủ, “Quyết định số 43/2010/QĐ – TTg về Hệ thống chỉ tiêu thống kê<br />
<br />
dụng nhằm đảm bảo tính so sánh quốc tế của thống kê du lịch thế giới. Do trình độ phát triển của<br />
<br />
quốc gia”, trong đó có bao gồm danh mục các chỉ tiêu thống kê hoạt động kinh doanh du lịch đối<br />
<br />
các nước là khác nhau, cơ sở hạ tầng thông tin thống kê khác nhau nên việc triển khai áp dụng<br />
<br />
với cấp tỉnh, thành phố, và cấp quốc gia, (bao gồm 7 nhóm chỉ tiêu thuộc lĩnh vực du lịch). Các<br />
<br />
cũng đạt ở các mức độ khác biệt. Tại từng quốc gia hầu như đều có xây dựng hệ thống chỉ tiêu<br />
<br />
chỉ tiêu này do Cục Thống kê cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức, thực hiện và công bố.<br />
<br />
thống kê riêng cho ngành du lịch và trong hệ thống đó cũng được chia thành nhiều loại: hệ thống<br />
<br />
Trong những năm qua, TKVTDL cũng đã được quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học,<br />
<br />
chỉ tiêu báo cáo tình hình hoạt động của ngành trong sự phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống<br />
<br />
cơ quan TCDL trong việc quản lý ngành, do vậy đã có một số công trình nghiên cứu về<br />
<br />
chỉ tiêu thống kê phục vụ công tác quản lý ngành, hệ thống chỉ tiêu thống kê phục vụ công tác<br />
<br />
TKVTDL, các tập huấn về công tác thống kê du lịch ở Việt Nam theo hướng ứng dụng TKVTDL<br />
<br />
nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành…và do vậy có sự khác biệt giữa các quốc gia với nhau về<br />
<br />
do UNWTO đề xuất.<br />
<br />
dữ liệu thống kê hoạt động du lịch.<br />
<br />
- TCDL, (2014) đã ban hành “Thông tư 27/2014/TT-BVHTTDL về qui định chế độ báo<br />
<br />
UNWTO, (1993) đã xuất bản cuốn International Recommendations for Tourism Statistic (IRTS-<br />
<br />
cáo thống kê tổng hợp áp dụng cho cơ quan quản lý du lịch cấp tỉnh bao gồm hệ thống các chỉ<br />
<br />
1993) (Những khuyến nghị quốc tế đối với thống kê du lịch - 1993) và (2008) International<br />
<br />
tiêu thống kê Ngành hiện nay được tổng hợp và pháp lý hoá”. Tuy nhiên hệ thống các chỉ tiêu này<br />
<br />
Recommendations for Tourism Statistic (IRTS - 2008) (Những khuyến nghị quốc tế đối với thống kê du<br />
lịch - 2008): Đây là hai tài liệu có sự kế thừa, sửa đổi và bổ sung về các khái niệm có liên quan đến thống<br />
kê du lịch, phương pháp xác định các chỉ tiêu thống kê trong du lịch đã được UNWTO thông qua. Đây là<br />
cơ sở khoa học và thực tiễn cho một số quốc gia nghiên cứu trong việc vận dụng TKVTDL vào quốc gia<br />
mình nhằm đảm bảo tính hiện đại, hòa nhập và có thể so sánh ở phạm vi quốc tế.<br />
EUROSTAT, (2008), Domestic tourism manual, (Hướng dẫn về khách du lịch nội địa). Nội dung<br />
của tài liệu này chủ yếu giới thiệu và hướng dẫn các phương pháp thu thập thông tin du lịch nội địa thông<br />
qua điều tra hộ gia đình và một số vấn đề liên quan. Tài liệu này đi sâu vào công tác thống kê khách du<br />
<br />
còn khá mới mẻ đối với các địa phương trong việc tổ chức tổng hợp số liệu thống kê. Các chỉ tiêu<br />
được đề xuất cho cơ quan thống kê du lịch địa phương theo thông tư này là sẽ là cơ sở thuận lợi<br />
trong việc triển khai áp dụng TKVTDL tại Việt Nam, cũng như có thể sử dụng để tính toán<br />
TKVTDL ở cấp tỉnh hiện nay.<br />
- TS. Trần Thị Kim Thu, (2006), ĐH KTQD Hà Nội, Sách chuyên khảo, “Nghiên cứu thống kê hiệu<br />
quả hoạt động kinh doanh du lịch”. Nội dung cuốn sách có đề cập đến các chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt<br />
động của các đơn vị kinh doanh du lịch và phương pháp tổng hợp, tính toán các chỉ tiêu đó. Tuy vậy, hoạt<br />
động của các đơn vị này không chỉ phục vụ khách du lịch mà cả những người không phải khách du lịch.<br />
<br />
7<br />
<br />
8<br />
<br />
Như vậy, tài liệu này chưa bóc tách riêng phần phục vụ cho khách du lịch chưa đề cập đến kết quả và hiệu<br />
<br />
Nam”, Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Thống kê, Đại học Kinh tế quốc dân. Nội dung của Luận án<br />
<br />
quả của riêng hoạt động du lịch.<br />
<br />
dựa trên hệ thống TKVTDL do UNWTO đề xuất và tham khảo kinh nghiệm của một số nước<br />
<br />
Nguyễn Lê Anh, (2012), “Phương pháp thống kê kết quả hoạt động kinh doanh du lịch tại<br />
<br />
trong việc biên soạn TKVTDL, luận án đã tiến hành biên soạn TKVTDL cho Việt Nam trong<br />
<br />
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Thống kê, ĐH KTQD. Nội dung của luận án đã hệ<br />
<br />
giai đoạn đầu. Trên cơ sở số liệu thu được và một số giả thiết, luận án tiến hành tính toán thử<br />
<br />
thống hóa và làm rõ các khái niệm, đặc điểm của hoạt động kinh doanh du lịch là căn cứ cho việc<br />
<br />
nghiệm 5 trong số 6 bảng TKVTDL đã đề xuất phạm vi cả nước (cấp quốc gia), qua đó khẳng<br />
<br />
hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê hoạt động kinh doanh du lịch tại Việt Nam. Đặc biệt, trong<br />
<br />
định những đóng góp quan trọng của hoạt động du lịch Việt Nam trong nền kinh tế quốc dân. Tuy<br />
<br />
tài liệu này tác giả đã đề xuất và thiết kế phương án điều tra, tổng hợp chỉ tiêu khách du lịch nội<br />
<br />
nhiên nội dung tính tổng chi tiêu của khách du lịch được luận án phân loại trên cơ sở hình thức<br />
<br />
địa. Nội dung của luận án được coi là tài liệu quan trọng trong việc tổ chức thu thập thông tin số<br />
<br />
chuyến đi của khách (khách theo tour và khách tự tổ chức), không sử dụng cách phân loại như<br />
<br />
liệu liên quan đến hoạt động du lịch, là cơ sở để tính toán và lập các bảng TKVTDL ở Việt Nam<br />
<br />
UNWTO đề xuất là phân loại khách trong ngày (khách tham quan) và khách lưu trú. Ngoài ra nội<br />
<br />
nói chung và cấp tỉnh, thành phố nói riêng.<br />
<br />
dung tính chi tiêu du lịch theo từng sản phẩm được tác giả tính trên cơ sở số liệu tổng chi tiêu của<br />
<br />
- Trung tâm công nghệ thông tin du lịch, TCDL, (2008) đã xuất bản cuốn “Tài khoản vệ<br />
<br />
khách sau khi trừ cho doanh thu của các đại lý du lịch và dịch vụ lữ hành nhân với cơ cấu chi tiêu.<br />
<br />
tinh du lịch - Đề xuất hệ thống phương pháp luận’’, Tài liệu này là bản dịch từ cuốn “Tourism<br />
<br />
Việc tính toán ở trên không phản ánh đúng và làm giảm tổng mức chi tiêu của khách theo từng<br />
<br />
Satellite Account: Recommended Methological Frameword’ của UNWTO cùng với OCED, xuất<br />
<br />
sản phẩm du lịch.<br />
<br />
bản năm 2001, là tài liệu hướng dẫn của UNWTO cho các quốc gia nghiên cứu triển khai<br />
TKVTDL ở phạm vi quốc gia.<br />
- Trần Trí Dũng, Đề tài NCKH Cấp Bộ, Trung tâm thông tin du lịch, TCDL (2008),<br />
<br />
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan TKVTDL, cũng như tham khảo quá trình xây dựng, triển<br />
khai TKVTDL trên thế giới, bao gồm phạm vi quốc gia và vùng lãnh thổ, luận án rút ra kết luận<br />
như sau:<br />
<br />
“Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu ngành du lịch”. Nội dung của đề tài trình bày hệ thống<br />
<br />
(1) Hệ thống các khuyến nghị về TKVTDL do UNWTO đề xuất, kinh nghiệm của các quốc<br />
<br />
chỉ tiêu thống kê du lịch của ngành theo hướng áp dụng TKVTDL, đề xuất hệ thống biểu mẫu<br />
<br />
gia trong việc áp dụng TKVTDL, cũng như các công trình nghiên cứu trong nước khẳng định (i)<br />
<br />
báo cáo và tổng hợp thống kê cho toàn ngành, cơ quan quản lý du lịch địa phương, cũng như các<br />
<br />
vai trò quan trọng của TKVTDL đối với nền kinh tế và (ii) công tác thống kê du lịch ở các quốc<br />
<br />
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, lữ hành. Tuy vậy, phương pháp tính toán các chỉ<br />
<br />
gia cũng như ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều hạn chế về phương pháp luận, phạm vi tính<br />
<br />
tiêu vẫn chưa giải quyết một cách đầy đủ và có hệ thống.<br />
<br />
toán.<br />
<br />
- Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Tạp chí kinh tế Đối ngoại, số 21 – 2006, “Hệ thống Tài khoản<br />
<br />
(2) Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới dừng lại ở việc chia sẻ tri thức cho các<br />
<br />
vệ tinh du lịch – Công cụ quan trọng đánh giá và phân tích hoạt động ngành du lịch’’. Nội dung<br />
<br />
quốc gia, vùng lãnh thổ, và chủ yếu được thực hiện ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát<br />
<br />
của bài báo tập trung giới thiệu về TKVTDL và xác định vai trò quan trọng của TKVTDL, là<br />
<br />
triển, nơi mà hạ tầng thông tin thống kê khá ổn định. Trong khi đó, ở Việt Nam lại có sự khác biệt<br />
<br />
công cụ quan trọng và hữu hiệu trong việc đánh giá và phân tích một cách chính xác kết quả hoạt<br />
<br />
về hạ tầng thông tin, công tác tổ chức, thu thập nguồn dữ liệu thông tin thống kê du lịch còn hạn<br />
<br />
động kinh doanh của ngành du lịch, vai trò vị trí của ngành du lịch trong sự phát triển của nền<br />
<br />
chế. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam trong thời gian qua đã tiếp cận, nghiên cứu ở nhiều<br />
<br />
kinh tế quốc dân.<br />
<br />
góc độ khác nhau, phần nào đã xới lên được những nội dung cần thiết trong việc áp dụng<br />
<br />
- Trung tâm thông tin du lịch, thuộc TCDL, (2011), đã xây dựng “Đề án triển khai áp dụng<br />
TKVTDL tại Việt Nam, giai đoạn 2012-2015”. Nội dung báo cáo cũng đưa ra một số khó khăn<br />
ảnh hưởng đến tiến trình triển khai, ứng dụng TKVTDL tại Việt Nam. Với mục tiêu đẩy nhanh<br />
tiến trình áp dụng TKVTDL vào công tác thống kê hoạt động kinh doanh du lịch ở Việt Nam<br />
<br />
TKVTDL, tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào ở Việt Nam hiện nay nghiên cứu về ứng dụng<br />
TKVTDL để tính toán tác động du lịch ở phạm vi cấp tỉnh.<br />
Qua tổng quan vấn đề nghiên cứu và so sánh với nghiên cứu trong khuôn khổ nội dung của<br />
luận án có thể xác định được những điểm khác biệt bao gồm:<br />
<br />
hiện nay, tuy nhiên khó khăn trong công tác triển khai TKVTDL được xác định là cần phải có<br />
<br />
Thứ nhất, về phạm vi nghiên cứu:<br />
<br />
thêm nhiều nghiên cứu về phương pháp luận, nội dung và phương pháp tính toán hệ thống chỉ<br />
<br />
- Phạm vi về thời gian: các số liệu được sử dụng cho nghiên cứu là cập nhật tại thời điểm<br />
<br />
tiêu thống kê ngành, để phù hợp trong điều kiện hiện tại.<br />
Nguyễn Thị Tuyết Nhung, (2011), “Nghiên cứu thống kê tài khoản vệ tinh du lịch ở Việt<br />
<br />
năm 2013;<br />
- Phạm vi về không gian: được xác định là phạm vi cấp tỉnh, việc tính toán thử nghiệm trên<br />
<br />