Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam
lượt xem 5
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng các luận cứ khoa học và hình thành mô hình lý thuyết cho việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Mục tiêu chính của luận án là xem xét, phân tích hoạt động sử dụng vốn của NHTM dưới góc độ các quan hệ kinh tế và pháp lý.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam
- Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh doanh tiền tệ và ngân hàng (NH) là lĩnh vực kinh doanh đặc thù của ngân hàng thương mại (NHTM). Hoạt động sử dụng vốn của NHTM không chỉ có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại của một NHTM mà còn là kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ của Chính phủ và ngân hàng nhà nước (NHNN). Hoạt động sử dụng vốn của NHTM có liên quan trực tiếp đến sự an toàn của toàn hệ thống NH. Trong thời gian qua, nhiều vụ án hình sự trong lĩnh vực NH đã cho thấy một số vấn đề phát sinh liên quan đến quy định pháp luật và việc thực thi, tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm và là nhu cầu của nhiều chủ thể sau: Nhu cầu từ các NHTM Trong thời gian qua, tình trạng sở hữu chéo1 trong lĩnh vực NH diễn ra khá rầm rộ ở Việt Nam đã tạo nên tình trạng vốn ảo trong hệ thống NH và dẫn đến nhiều hệ lụy cho nền kinh tế. Những vụ án lớn trong lĩnh vực NH được xét xử trong các năm vừa qua tại Việt Nam đã cho thấy thiệt hại cho NH là quá lớn khi bản thân NH quản lý không tốt, quản lý tùy tiện nguồn vốn của NHTM. Chính vì vậy, các NHTM cần chấn chỉnh lại hoạt động sử dụng vốn của mình để duy trì nhiềm tin của người gửi tiền, để thu hút sự đầu tư của các nhà đầu tư, những người góp vốn để thành lập và quản lý ngân hàng. Nhu cầu từ phía xã hội Thứ nhất, lĩnh vực kinh doanh NH liên quan đến nhiều hoạt động của nền kinh tế thông qua việc nắm giữ và cung ứng nguồn vốn. Đặc biệt, kinh doanh NH liên quan và cung cấp vốn cho nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như kinh doanh chứng khoán, bất động sản (BĐS), xây dựng, đầu tư, v.v… nhất là ở khía cạnh nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn. Thứ hai, nguồn vốn cho NH hoạt động phần lớn là nguồn vốn của xã hội, được người dân tin tưởng gửi vào NH. NH là chủ thể đi vay và cho vay lại, chỉ có một phần nhỏ vốn của NH là vốn của chủ sở hữu. Người dân khi đã gửi tiền vào NH sẽ không có cơ hội cũng như không có điều kiện kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn này. Nhu cầu từ cơ quan quản lý nhà nước 1 Sở hữu chéo là việc đồng thời hai doanh nghiệp có sở hữu phần vốn góp, cổ phần của nhau (Khoản 2 Điều 16 Nghị định 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 2014) 1
- Nghiên cứu về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM dưới góc độ pháp luật đã, đang và sẽ là xu hướng của các nhà hoạch định chính sách cũng như của các học giả Việt Nam. Đây vừa là công việc mang tính cấp bách vừa là công việc mang tính lâu dài. Luận án này được thực hiện trong bối cảnh Việt Nam đã và đang cơ cấu lại các TCTD, đang tìm cách đưa ra giải pháp đổi mới và hoàn thiện hệ thống các VB QPPL về hoạt động NH bao gồm: ban hành chuẩn mực an toàn vốn phù hợp với Basel II, đổi mới, hoàn thiện các quy định an toàn hoạt động của TCTD, đặc biệt là các tỷ lệ về khả năng chi trả để hạn chế và kiểm soát có hiệu quả các rủi ro trong hoạt động của các TCTD, ban hành các nguyên tắc, chuẩn mực quản trị rủi ro đối với các TCTD. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.2.1.1 Các công trình nghiên cứu về kinh tế có liên quan đến đề tài Bài viết của tác giả Hao Liu xem xét mối quan hệ giữa các thay đổi trong cơ chế hoạt động của ngân hàng và khủng hoảng tài chính bằng cách nghiên cứu sự thay đổi về chính sách của 137 quốc gia và đặc biệt là các quốc gia thuộc nhóm Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD Organization for Economic Cooperation and development). Matthias Lehmann tiến hành phân tích nguyên tắc Volcker Rule hay còn gọi là Ring-Fencing, tức là nguyên tắc tách biệt các hoạt động của NH để đảm bảo an toàn đồng vốn của NH trước các hoạt động mang lại rủi ro2. Trong bài viết “Chức năng của vốn của ngân hàng” 3, tác giả Ing. Martin Svitek đã liệt kê và phân tích các chức năng của vốn NH như sau: chức năng bù đắp các tổn thất, thiệt hại (loss-absorbing function), chức năng tạo niềm tin cho người gửi tiền (confidence function), chức năng tài chính (financial function), chức năng giới hạn (restrictive function). Trong 182 trang luận án tiến sĩ kinh tế “Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào”4, nghiên cứu sinh người Lào Kongchampa Ounkham nghiên cứu chính tập trung vào các quy định và thực tiễn quản trị NHTM tại Lào để nghiên cứu tuy luận án được thực hiện bằng tiếng Việt. 1.2.1.2 Các công trình nghiên cứu về quy định pháp luật: 2 Matthias Lehmann (2014), Volcker Rule, Ring-Fencing or Separation of Bank Activities:Comparison of Structural Reform Acts Around the World, LSE Law, Society and Economy Working Papers 25/2014, London School of Economics and Political Science Law Department, p. 2 3 Ing. Martin Stivek, Function of capital of bank, Narodna Banka Slovenska, Biatec, Rocnik 9, 5/2001, p.37-40: Owing to its importance, capital has become a central point of the world of banking 4 Kongchampa Ounkham (2016), “Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào”, trường Đại học kinh tế TP.HCM, người hướng dẫn: PGS.TS Trần Huy Hoàng 2
- “Quản trị ngân hàng thương mại” của Peter.S Rose5 cung cấp các kết quả nghiên cứu về việc quản lý nguồn vốn của NHTM, tác động của chính sách và các quy định đối với hoạt động của NH, phân tích và đánh giá hoạt động của NH, hoạt động đầu tư của NHTM. Sách “Principles of banking”6 của Hiệp hội NH Mỹ đã trình bày những nguyên tắc cơ bản trong giao dịch NH, các hoạt động của các NH từ việc quản lý điều hành các tài sản đến việc quản lý điều hành các nguồn vốn nợ. 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 1.2.2.1. Các nghiên cứu về kinh tế có nội dung liên quan đề tài Đây là một đề tài liên quan đến lĩnh vực NH, một lĩnh vực đặc thù của nền kinh tế. Chính vì vậy, các đề tài nghiên cứu về kinh tế nói chung, về NH nói riêng là đối tượng tham khảo chính của luận án này. “Quản trị ngân hàng” của tác giả Hồ Diệu 7 ra đời trong bối cảnh sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á (1997-1998) và cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001- 2002). Tác giả Hồ Diệu không đi sâu vào cơ cở lý thuyết quản trị mà chỉ tập trung xử lý những vấn đề cơ bản trong quản trị các mặt hoạt động đặc trưng của NH. Sách của tác giả Nguyễn Văn Tiến về “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng”8 đã làm rõ những vấn đề về lý luận như những đặc thù trong kinh doanh NH, những loại rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, rủi ro thanh toán quốc tế. Tiến sĩ Trương Quang Thông trong công trình: “Quản trị ngân hàng thương mại”9, đã lý giới thiệu những thay đổi quan trọng của khung pháp lý điều chỉnh về hoạt động của NH Việt Nam từ 2005 đến 2009, cũng như phân tích những hạn chế của khung pháp lý điều chỉnh trong giai đoạn này. Những luận án và các công trình nghiên cứu khác về kinh tế có nội dung liên quan đến đề tài: Nghiên cứu của Phan Thị Hằng Nga tập trung đánh giá năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam trên cơ sở khung an toàn CAMEL10. Tiến sĩ Hạ Thị Thiều Dao đã 5 Peter S. Rose (2004, xuất bản lần thứ 4), Quản trị ngân hàng thương mại, Sách tham khảo, do Nguyễn Huy Hoàng và cộng sự dịch sang tiếng Việt, Hà Nội, tr. 36 6 American Bankers Association (2007) (Tái bản lần thứ 9), Các nguyên tắc trong hoạt động giao dịch ngân hàng tại Mỹ (Principles of banking), do nhóm tác giả Nguyễn Hữu Thu hiệu đính bản dịch, 12-2017 7 Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, Nxb Thống kê 8 Nguyễn Văn Tiến (2005), Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống kê 9 Trương Quang Thông (chủ biên) (2010), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính 10 CAMEL chính là viết tắt từ chữ cái đầu của các chữ tiếng Anh Capital, Asset quality, Management, Earnings, và Liquidity ( Vốn, chất lượng tài sản, quản trị, thu nhập và tính thanh khoản) 3
- thực hiện nghiên cứu “25 nguyên tắc giám sát ngân hàng theo Basel II và việc tuân thủ ở Việt Nam”11. 1.2.2.2. Các nghiên cứu về luật có nội dung liên quan đề tài: Giáo trình Luật ngân hàng của trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh12 đã cung cấp cho nghiên cứu sinh những kiến thức nền tảng về đặc điểm của hoạt động NH, các nguyên tắc của luật NH, pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng đặc điểm và bản chất của tín dụng NH. Tác giả Nguyễn Xuân Bang trong bài viết “Một số vấn đề pháp lý về các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng” tập trung phân tích bản chất của việc nhà nước đưa ra các hạn chế trong hoạt động của TCTD. Tác giả Phạm Thị Giang Thu, một cách độc lập hoặc cùng tham gia nghiên cứu chung với các tác giả khác, đã có nhiều bài viết về lĩnh vực tài chính NH. Trong đó, có một số bài viết liên quan trực tiếp đến đề tài của nghiên cứu sinh như sau: (i) Bài báo “Một vài ý kiến về pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các ngân hàng thương mại”13 có nội dung liên quan một phần với đề tài của nghiên cứu sinh; (ii) Bài báo “Những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại” của hai tác giả là Phạm Thị Giang Thu và Nguyễn Ngọc Lương14 đã tập trung phân tích những hạn chế, những vướng mắc trong quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của các NHTM thông qua việc đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá. Bài viết thứ hai của hai tác giả trên “Một số vấn đề cần quan tâm khi ban hành luật các tổ chức tín dụng sửa đổi” tập trung phân tích các nguyên tắc và vấn đề khi ban hành luật các TCTD sửa đổi15. Trong bài viết “Cơ sở pháp lý của việc ngân hàng tham gia vào thị trường tài chính hiện nay”16, tác giả Phạm Thị Giang Thu đã kiến nghị mở rộng quyền tự do kinh doanh của NH trong việc tham gia thị trường tài chính. Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Tuyến về “Xác định giới hạn can thiệp của nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ở 11 Hạ Thị Thiều Dao (2010), “25 nguyên tắc giám sát ngân hàng theo Basel II và việc tuân thủ ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Hiệu lực của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam, Nxb Tài chính, 2010 12 Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật ngân hàng (tái bản), Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr1-454 13 Phạm Thị Giang Thu (2013), “Một vài ý kiến về pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các ngân hàng thương mại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1 (250) -2013, tr28-34 14 Phạm Thị Giang Thu và Nguyễn Ngọc Lương (2014), “Những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14(270) T7/2014, tr 53-56 15 Phạm Thị Giang Thu, Nguyễn Ngọc Lương (2010), “Một số vấn đề cần quan tâm khi ban hành luật các tổ chức tín dụng sửa đổi”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2010, tr.3-10, 18 16 Phạm Thị Giang Thu (2007), “Cơ sở pháp lý của việc ngân hàng tham gia vào thị trường tài chính hiện nay”, Tạp chí luật học, số 12/2007, tr. 57-66 4
- Việt Nam”17 đã cung cấp 3 kết quả nghiên cứu về những nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ khi xác định giới hạn hợp lý của sự can thiệp từ phía nhà nước đối với giao dịch thương mại của NH;Phương thức can thiệp của nhà nước đối với hoạt động giao dịch thương mại của NH; Mức độ can thiệp của nhà nước đối với hoạt động giao dịch thương mại của các NH. Bài viết tiếp theo của tác giả Nguyễn Văn Tuyến là “Các giải pháp hoàn thiện pháp luật ngân hàng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”18 đã đề cập đến các giải pháp sau: hoàn thiện các quy định về ngân hàng trung ương; hoàn thiện các quy định về tổ chức cung ứng dịch vụ NH. Có bốn luận án tiến sĩ liên quan hết sức chặt chẽ với đề tài của nghiên cứu sinh. Trong đó có 2 luận án tiến sĩ luật học và 2 luận án tiến sĩ kinh tế: Luận án tiến sĩ kinh tế của Vũ Hoàng Nam (2015) “Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam”19; Luận án tiến sĩ luật học của Ngô Quốc Kỳ “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”20; luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Đức Trung lại chọn chủ đề “Bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trên cơ sở áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn quốc tế Basel” để tiến hành nghiên cứu; Luận án Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam của Nguyễn Ngọc Lương (2017) 21. Trên cơ sở các nhận định sơ bộ về các công trình nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài như trên, nghiên cứu sinh có một số nhận xét tổng quát như sau: Thứ nhất, các luận án, bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan chặt chẽ hay liên quan gần đến đề tài của nghiên cứu sinh phần lớn nghiên cứu dưới khía cạnh kinh tế. Chưa kể, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài khá ít, không nghiên cứu tình hình sử dụng vốn hoặc hệ thống pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam mà chỉ đề cập đến luật của chính nước mà tác giả là công dân hoặc nơi mà tác giả đang nghiên cứu học tập. Thứ hai, một số công trình nghiên cứu thật sự chỉ có ý nghĩa giúp nghiên cứu sinh có được nguồn số liệu về lĩnh vực ngân hàng. 17 Nguyễn Văn Tuyến (2003), “Xác định giới hạn can thiệp của nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2003 18 Nguyễn Văn Tuyến (2007), “Các giải pháp hoàn thiện pháp luật ngân hàng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Tạp chí luật học số 12/2007, tr.75-82. 19 Vũ Hoàng Nam (2015), luận án tiến sĩ kinh tế: Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam, người hướng dẫn: PGS.TS. Kiều Hữu Thiện, TS. Đào Minh Phúc 20 Ngô Quốc Kỳ (2003), luận án tiến sĩ luật học: Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Mơ, TS. Dương Đăng Huệ 21 Nguyễn Ngọc Lương (2017), luận án tiến sĩ luật học Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Giang Thu, TS.Nguyễn Văn Tuyến, tr 1-176 5
- Thứ ba, nhiều nghiên cứu được tiến hành trước thời điểm Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 ra đời. Thứ tư, những vấn đề sau còn chưa được đi sâu nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu trên: Các nghiên cứu đã qua chưa lý giải và nêu được khái niệm về hoạt động sử dụng vốn của NHTM, chưa đi sâu nghiên cứu về khung pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM nói chung. Cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu so sánh, đối chiếu những điểm tương đồng và khác biệt liên quan đến pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở các quốc gia như Trung Quốc, Singapore, Thụy Sĩ và Mỹ. Thứ năm, ở cấp độ luận án tiến sĩ, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM tại Việt Nam được nghiên cứu một cách hệ thống và có sự kết hợp giữa cách tiếp cận song song kinh tế và luật. 1.3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án này là hệ thống pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM Việt Nam. Trong đó, chủ yếu là các QPPL về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM tại Việt Nam, thực tiễn áp dụng các QPPL đó. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài sẽ được thực hiện trong giới hạn sau: Về nội dung: Trong phạm vi luận án này, nghiên cứu sinh chỉ tập trung nghiên cứu về vốn ở khía cạnh kinh tế của NHTM, không tập trung nghiên cứu về nguồn vốn con người của các NHTM. Luận án khảo sát khung pháp lý điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM mà không tập trung vào các nghiệp vụ NH. Các hoạt động của NHTM được đề cập và phân tích trong luận án sẽ chỉ là những hoạt động nội bảng, không phải là hoạt động ngoại bảng (off-balance sheet). Loại vốn của các NHTM được đề cập và phân tích trong luận án chủ yếu là vốn tự có và vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong đó, nghiên cứu sinh chủ yếu đề cập phân tích nhiều quy định liên quan đến vốn tự có. Luật nước ngoài được sử dụng để tham khảo, so sánh chủ yếu sẽ là luật của Mỹ, Thụy Sĩ, Trung Quốc và Singapore. Về thời gian: Luận án lấy bối cảnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM hiện nay (2018) để nghiên cứu. Việc đề cập đến khung pháp lý về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM 6
- trong những giai đoạn trước đây không nằm ngoài mục đích so sánh và phân biệt để làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn. 1.4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu Hoạt động sử dụng vốn của NHTM là gì và tại sao cần có khung pháp luật phù hợp với các nguyên tắc kinh tế, pháp luật để điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam? Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu tổng quát trên, luận án được thực hiện để giải quyết ba câu hỏi nhỏ sau: Câu hỏi 1: Vì sao phải dùng pháp luật để điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM? Câu hỏi 2: Khung pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay như thế nào? Câu hỏi 3: Những nguyên tắc kinh tế và pháp luật nào tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM Việt Nam? 1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu Để giải đáp thỏa đáng các câu hỏi nghiên cứu trên, nghiên cứu sinh đề ra các giả thuyết nghiên cứu sau: Giả thuyết 1: Pháp luật là công cụ hữu hiệu hơn các quy phạm xã hội khác trong việc điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam. Trái ngược với xu thế chung là giảm thiểu thủ tục hành chính, tự do hóa kinh doanh, bãi bỏ các loại giấy phép, hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua hoạt động cấp tín dụng, hoạt động đầu tư vẫn còn cần phải được giám sát chặt chẽ với các hình thức và công cụ phù hợp, đa dạng. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sử dụng vốn của các NHTM vẫn cần có sự điều tiết của nhà nước bằng pháp luật. Giả thuyết 2: Dù đã được cập nhật, sửa đổi, bổ sung, cải thiện liên tục, đáp ứng yêu cầu điều tiết của NHNN nói riêng, của NN nói chung nhưng pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM hiện còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ, cần được đánh giá đầy đủ về mặt nguyên nhân, cách thức thực hiện để có các kiến nghị và điều chỉnh cho phù hợp. Giả thuyết 3: Pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM ở Việt Nam hiện chưa phù hợp các nguyên tắc kinh tế, pháp luật để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế. 1.4.3. Lý thuyết nghiên cứu 1.4.3.1. Lý thuyết về pháp luật Về nền tảng lý thuyết, luận án sử dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lenin về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật để luận giải về sự cần thiết phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Bên cạnh đó, tác giả 7
- Phạm Duy Nghĩa đã nhận định rằng nghiên cứu pháp luật phải gắn liền với nghiên cứu chính sách22. Tác giả Đinh Dũng Sỹ cũng cho rằng không có pháp luật phi chính sách hay pháp luật ngoài chính sách23. Các lý thuyết về pháp luật liên quan chặt chẽ đến luận án này bao gồm lý thuyết về quyền tự do kinh doanh, lý thuyết về tự do hợp đồng (HĐ), lý thuyết về quyền sở hữu, lý thuyết về hiệu quả điều chỉnh của pháp luật. 1.4.3.2. Lý thuyết về kinh tế: Các lý thuyết kinh tế được sử dụng trong luận án này bao gồm lý thuyết về các loại rủi ro, lý thuyết về kinh tế có và không có điều tiết của nhà nước; lý thuyết về kinh tế học vĩ mô tổng hợp, lý thuyết về chi phí giao dịch. 1.4.4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu khoa học phải có phương pháp nghiên cứu phù hợp. Để thực hiện luận án này, nghiên cứu sinh sẽ thực hiện các phương pháp sau: Phương pháp phân tích- tổng hợp: Phương pháp phân tích được sử dụng thường xuyên, phổ biến, được tiến hành đầu tiên và cũng là phương pháp quan trọng nhất trong luận án. Phương pháp này được áp dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận án này. Phương pháp tổng hợp giúp nghiên cứu sinh tìm hiểu các VB QPPL, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này. Liên quan khía cạnh kinh tế: Phương pháp phân tích được nghiên cứu sinh triển khai theo hai hướng là phân tích định tính và phân tích định lượng. Phân tích định tính được tiến hành khi đề cập đến khả năng chịu đựng rủi ro của NH; khi nghiên cứu quy luật, mối quan hệ giữa các sự việc và hiện tượng liên quan hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Phương pháp định tính gắn liền với quy trình quy nạp từ những kiến thức, số liệu, biểu mẫu, thông tin và hồ sơ vụ việc sẵn có. Phương pháp so sánh pháp lý: Việc so sánh quy định pháp luật giữa các quốc gia về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM, so sánh phương pháp và cách thức sử dụng vốn của NHTM ở Việt Nam và ở một số quốc gia, của NHTM với các TCTD khác để có những chọn lựa được những hoạt động sử dụng vốn nào, các QPPL nào phù hợp cho các NHTM ở Việt Nam. Phương pháp Socrates: Hay còn gọi là phương pháp bác bỏ bằng logic (elenchus), phương pháp loại bỏ các giả thuyết. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở phần câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu và tiến hành giải quyết, trả lời trong toàn bộ luận án. 1.4.5. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu 22 Phạm Duy Nghĩa (2014), Phương pháp nghiên cứu luật học, Nxb Công an nhân dân, tr.78 23 Đinh Dũng Sỹ (2008), “Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật trong hoạt động lập pháp”, [https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/09/16/1673/], truy cập ngày 10-5-2018 8
- Luận án không hướng đến “du nhập” tất cả các ưu điểm của hệ thống pháp luật nước ngoài về hoạt động sử dụng vốn của NHTM mà chỉ chọn lọc những quy định nào phù hợp với thực tiễn và tình hình riêng của Việt Nam. Bên cạnh đó, kinh tế và pháp luật là hai vấn đề có liên quan chặt chẽ, gắn bó với nhau. Trường phái kinh tế luật sử dụng những lý thuyết và phương pháp kinh tế để tư duy về luật pháp, khác biệt với tư duy truyền thống trong luật học. kinh tế luật như một lĩnh vực trong đó nhiều trường phái kinh tế đưa ra những luận điểm giải quyết các bài toán của luật pháp24. 1.5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 1.5.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng các luận cứ khoa học và hình thành mô hình lý thuyết cho việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Mục tiêu chính của luận án là xem xét, phân tích hoạt động sử dụng vốn của NHTM dưới góc độ các quan hệ kinh tế và pháp lý. Mục tiêu chi tiết - Làm rõ cơ sở lý luận về vốn và hoạt động sử dụng vốn của NHTM. - Xác định khái niệm và nội hàm của hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Từ đó, luận án sẽ định hình khung pháp luật phù hợp để điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM - Giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến nhu cầu, mục đích cần có sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động sử dụng vốn của NHTM - Phân tích, nhận định, đánh giá việc ban hành, tuân thủ các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM - Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động sử dụng vốn của NHTM tại Việt Nam qua các thời kỳ và so sánh với pháp luật nước ngoài. - Đề xuất những giải pháp và quy định phù hợp để tổ chức giám sát, duy trì trật tự kinh tế trong lĩnh vực NH, trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM. - Xác định giới hạn can thiệp của nhà nước đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM - Xác định các chuẩn mực và tiêu chí để điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. - Xác lập cơ chế kiểm tra, xử lý các vi phạm về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. - Nhận diện các chủ thể quản lý hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. 24 Vũ Ngọc Anh (2010), tlđd 63, tr.34 9
- - Luận án sẽ làm rõ thực trạng hoạt động sử dụng vốn của các NHTM và cơ sở lý luận có liên quan để từ đó chọn lựa những quy định phù hợp để đề xuất, kiến nghị cho phù hợp với đặc thù của Việt Nam. - Nghiên cứu xu hướng phát triển của nền kinh tế và xã hội trong thời gian tới để dự đoán sự thay đổi trong nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM - Nhận diện những nguyên tắc, tiêu chí cần được tuân thủ và bảo đảm khi hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM 1.5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với những mục tiêu nghiên cứu như trên, luận án sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm rõ bản chất pháp lý của hoạt động sử dụng vốn của NHTM - Đánh giá thực trạng hoạt động sử dụng vốn của các NHTM và cơ sở lý luận có liên quan. - Đưa ra các nhận định và phân tích riêng về quy định liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. - Khẳng định sự cần thiết có sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM và đề ra phương hướng/ giải phá p hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. - So sánh với cách thức, thực trạng cũng như những quy định của một số nước để thấy được sự tương đồng và khác biệt - Nhận diện và làm rõ nguyên nhân những ách tắc về nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng cho khu vực sản xuất kinh doanh. 1.6. Những điểm mới của luận án Trên cơ sở phân tích các lý thuyết về kinh tế và pháp luật cùng với việc sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu hiện đại, cách tiếp cận giữa lĩnh vực kinh tế và luật, luận án có những đóng góp mới về mặt khoa học như sau: Về mặt lý luận: Thứ nhất: Luận án đã xây dựng và bổ sung vào hệ thống lý luận khái niệm về hoạt động sử dụng vốn của NHTM Việt Nam tại mục 2.1.2.1 của luận án này, làm rõ nội hàm và hình thức của pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM Việt Nam tại mục 2.3 của luận án này. Thứ hai: luận án đã phân tích và chứng minh tính đặc thù về vốn của NHTM so với vốn của các chủ thể kinh doanh khác trong nền kinh tế tại mục 2.1.1 của luận án. Từ đó, nghiên cứu sinh nhấn mạnh tính cần thiết phải có các quy định đặc thù của pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM Việt Nam. Thứ ba: Nghiên cứu sinh đã tổng hợp và phân tích các nguyên tắc cần phải được tuân thủ trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM tại mục 2.1.2.3 của luận án để làm nền tảng cho việc đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn 10
- của NHTM. Luận án đã xác định khi can thiệp vào hoạt động sử dụng vốn của NHTM, nhà nước nên thực hiện trên 2 nguyên tắc sau: nguyên tắc hỗ trợ và nguyên tắc tương hợp. Theo đó, nguyên tắc hỗ trợ là tạo điều kiện cho hoạt động sử dụng vốn và hoạt động của NHTM hiệu quả hơn; nguyên tắc tương hợp là phải sử dụng những biện pháp nào phù hợp với thị trường và nền kinh tế Việt Nam để thúc đẩy hoạt động sử dụng vốn của NHTM hiệu quả hơn. Thứ tư: Luận án đã đưa ra gợi ý về các tiêu chí để NHNN căn cứ vào để xem xét việc chấp thuận cho NHTM góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác tại mục 3.5.2 của luận án này. Thứ năm, luận án làm rõ cấu thành tội phạm liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM trong hoạt động cấp tín dụng tại mục 4.4 của luận án này. Thứ sáu: Luận án đã xác định các luận cứ khoa học, đề xuất các giải pháp cụ thể phù hợp với điều kiện của Việt Nam để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các NHTM hoạt động, cho cơ quan hữu quan trong việc kiểm tra, giám sát tại mục 3.5 (các bất cập và kiến nghị liên quan quy định về hoạt động sử dụng vốn của NHTM để cấp đầu tư) và 4.5 (các bất cập và kiến nghị liên quan quy định về hoạt động sử dụng vốn của NHTM để cấp tín dụng) Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở phân tích việc các án lệ hiện nay ở Việt Nam, nghiên cứu sinh nhận thấy phần lớn các án lệ hiện hành chỉ liên quan đến ngành luật dân sự, hình sự, liên quan rất ít đến lĩnh vực tài chính NH và không có án lệ cụ thể nào về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. 1.7. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của luận án Thứ nhất, luận án phân tích các nguyên tắc liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Thứ hai, luận án sẽ làm rõ khái niệm pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM, phân tích các thành phần chính trong pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM và hình thức của pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Thứ ba, luận án sẽ nhận định, lý giải, phân tích, bình luận các quy định hiện hành về hoạt động sử dụng vốn để đầu tư, cấp tín dụng. Thứ tư, luận án đối chiếu, so sánh quy định hiện hành của Việt Nam về hoạt động đầu tư, cấp tín dụng của NHTM với các quy định hiện hành, kinh nghiệm của một số quốc gia, thông lệ quốc tế trong hoạt động có liên quan. Thứ năm, luận án trình bày các định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. 11
- Thứ sáu, luận án đề xuất phương hướng hoàn thiện cơ cấu tín dụng, cơ cấu đầu tư của các NHTM, cách thức để thực hiện quy định về việc cấp tín dụng cho các dự án đáp ứng yêu cầu về môi trường, cách thức phân định giữa tín dụng tiêu dùng và tín dụng cho kinh doanh BĐS. Bên cạnh kết quả đó, luận án này hướng đến đạt được các kết quả nghiên cứu sau: Kết quả mang tính học thuật Luận án sẽ xây dựng các luận cứ khoa học, hình thành mô hình lý thuyết cho việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM, xem xét, phân tích hoạt động sử dụng vốn của NHTM dưới góc độ các quan hệ kinh tế và pháp lý. Luận án này dự kiến là nguồn tài liệu tham khảo cho các sinh viên và những ai có quan tâm trong việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy về lĩnh vực này. Các kết quả nghiên cứu của luận án được kỳ vọng sẽ có giá trị tham khảo thêm cho các nghiên cứu sinh, những học viên cao học, các sinh viên đại học sau này. Kết quả mang tính ứng dụng - Luận án sẽ nhận diện mức độ can thiệp phù hợp của nhà nước vào hoạt động sử dụng vốn của NHTM. - NHNN sẽ kiểm soát hiệu quả mức cung ứng tiền tệ và tín dụng phục vụ mục tiêu chung của quốc gia. - Các NHTM sẽ có được cơ sở pháp lý ổn định về hoạt động sử dụng vốn để tuân thủ, để xây dựng cơ chế kiểm soát nội bộ tương thích. - Các cơ quan nhà nước có thể tham khảo để bổ sung, sửa đổi, ban hành các quy định cho phù hợp. - Các cơ quan nhà nước có thể tham khảo khi tiến hành việc kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn của các NHTM - Các NHTM có thể tham khảo để áp dụng trong hoạt động quản trị hoạt động sử dụng vốn của chính các NHTM Luận án này được kỳ vọng sẽ thực sự rất có ý nghĩa thực tiễn và khoa học, là tài liệu tham khảo cho những cá nhân cùng có quan tâm đến chủ đề này 12
- Kết luận chương 1 Về tính cấp thiết, hoạt động sử dụng vốn của NHTM luôn nhận được sự quan tâm của nhà nước, các NHTM và của toàn xã hội. Đặc biệt, trong tình hình mới và xu thế hội nhập quốc tế, tính cấp thiết này trở nên rõ ràng hơn. Trong chương 1, nghiên cứu sinh đã nêu và phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu tại Việt Nam và ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án, trình bày phương pháp nghiên cứu của đề tài luận án, đặt ra các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu tại chương 1 cho thấy các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài phần lớn chưa tập trung nghiên cứu riêng về pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM tại Việt Nam. Các công trình đã qua chủ yếu chỉ giải quyết một số khía cạnh kinh tế và pháp luật liên quan đến từng hoạt động sử dụng vốn của các NHTM tại Việt Nam, hoặc chỉ đề cập đến pháp luật Việt Nam và chưa tham khảo kinh nghiệm nước ngoài và/ hoặc ngược lại. Nhiều công trình nghiên cứu chưa có sự nghiên cứu một cách hệ thống, tập trung riêng về pháp luật liên quan đến chính hoạt động sử dụng vốn của NHTM tại Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu “Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam” sẽ vừa có tính kế thừa các công trình nghiên cứu trước vừa mang tính đặc thù do có sự kết hợp giữa lĩnh vực luật, kinh tế và đặt trong bối cảnh tình hình mới trên cơ sở đảm bảo sự cân bằng quyền lợi của NHTM, của người dân, người gửi tiền và nhu cầu kiểm soát của nhà nước. Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam” sẽ kết hợp cách tiếp cận kinh tế, chính sách và pháp lý để phân tích, bình luận, đánh giá và có một số kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Nghiên cứu sinh xác định việc thực hiện luận án này nhằm trình bày các kết quả nghiên cứu về pháp luật liên quan hoạt động sử dụng vốn của NHTM, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM, góp phần kiến nghị giải quyết những vấn đề phát sinh từ thực tiễn như đầu tư và cấp tín dụng chưa đúng của các NHTM nhằm gia tăng sự an toàn và giảm thiểu rủi ro trong quá trình sử dụng vốn của NHTM. Trong số các phương pháp được sử dụng trong luận án, phương pháp so sánh được thực hiện không chỉ nhằm mục đích tham khảo kinh nghiệm trong phạm vi của vài quốc gia như Mỹ, Thụy Sĩ và Trung Quốc mà của những quốc gia khác khi cần thiết. Việc nghiên cứu các quy định pháp lý của các quốc gia về hoạt động sử dụng vốn sẽ được thực hiện theo từng mảng vấn đề, không trình bày theo từng quốc gia. Phương pháp này được thực hiện trong tất cả các chương trong luận án, đặc biệt khi cần đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. 13
- CHƯƠNG 2 LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN VÀ ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2.1. Lý luận về hoạt động sử dụng vốn của NHTM 2.1.1. Lý luận về vốn của ngân hàng thương mại Về mặt kinh tế, trong hoạt động NH, vốn được hiểu là toàn bộ giá trị tiền tệ mà NH huy động và tạo lập được để phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu sinh lợi25. Vốn của NHTM, đặc biệt là vốn huy động từ công chúng có tính chất hai chiều ngược nhau: được gửi vào NHTM và được dùng để cấp tín dụng cho các chủ thể khác hoặc cho chính chủ thể gửi tiết kiệm vào NHTM. Về mặt pháp lý, mối quan hệ giữa vốn tự có, vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu có thể được thể hiện như sau: Theo Điều 4 Luật các TCTD năm 2010, vốn tự có = [vốn điều lệ (vốn của các chủ sở hữu và được ghi vào điều lệ của NHTM) + các quỹ dự trữ+ các tài sản nợ khác theo quy định]. Về kế toán, theo quy định tại Điều 66 của Thông tư số 200/2014/TT-BTC, ngày 22- 12-2014, hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp, hiệu lực từ ngày 5-2-2015, vốn chủ sở hữu là phần tài sản thuần của doanh nghiệp còn lại thuộc sở hữu của các cổ đông, thành viên góp vốn (chủ sở hữu). Vốn chủ sở hữu được phản ánh theo từng nguồn hình thành như: Vốn góp của chủ sở hữu; Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh; Chênh lệch đánh giá lại tài sản. NHTM cũng là một loại hình doanh nghiệp nên vẫn phải tuân theo quy định trên. Cụ thể hơn, “vốn chủ sở hữu là giá trị vốn của doanh nghiệp, được tính bằng số chênh lệch giữa giá trị tài sản của doanh nghiệp trừ (-) đi nợ phải trả. Về nguồn gốc hình thành, vốn của NHTM gồm có vốn tự có, vốn huy động và các loại khác. Tóm lại, về nguồn gốc hình thành, vốn của NHTM gồm có vốn chủ sở hữu và vốn nợ; căn cứ vào nguồn huy động, vốn của NHTM gồm có nguồn vốn bên trong (vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ) và nguồn vốn bên ngoài (vốn huy động từ công chúng). Về mặt ý nghĩa, trong “Quản trị ngân hàng thương mại”, P.S.Rose26 nhận định, vốn của NHTM có mấy ý nghĩa sau đây: (i) Vốn là tấm đệm để chống lại rủi ro phá sản, (ii) về mặt luật pháp, vốn là điều kiện để NHTM được cấp phép hoạt động; (iii) Vốn là phương tiện để ngân hàng kinh doanh. Như vậy, theo Peter Rose tại mục (ii) vốn là yêu 25 Lê Hải Trung (2014), “Làm rõ khái niệm vốn kinh tế và vai trò trong hoạt động quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng”, Tạp chí ngân hàng số 11, tháng 6/2014, tr.16 26 Peter S. Rose (2004), tlđd 12, tr.36 14
- cầu, điều kiện mà các NHTM phải có để được chấp thuận cho tham gia vào hoạt động kinh doanh. Về mặt chức năng, trong bài viết “Function of capital of bank”27, tác giả Ing. Martin Svitek đã liệt kê và phân tích 4 chức năng của vốn NH như sau: chức năng loss- absorbing function (bù đắp các tổn thất, thiệt hại), confidence function (chức năng tạo niềm tin cho người gửi tiền), financial function (chức năng tài chính), restrictive function (chức năng giới hạn). 2.1.2. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM 2.1.2.1. Khái niệm, đặc trưng và bản chất của hoạt động sử dụng vốn của NHTM Hoạt động sử dụng vốn của NHTM là những hoạt động phân bổ nguồn vốn của NHTM để thực hiện hai hoạt động chính là đầu tư, cấp tín dụng và không bao gồm các hoạt động cung ứng dịch vụ nhằm thu phí dịch vụ. Hoạt động sử dụng vốn là các hoạt động liên quan đến việc ban hành các quyết định kinh doanh của NHTM trong hai hoạt động chính là đầu tư và cấp tín dụng. Đặc trưng của hoạt động sử dụng vốn của NHTM xuất phát từ đặc trưng của việc tạo lập vốn của NHTM, từ tính chất kinh tế và pháp lý của vốn của NHTM, từ đặc trưng của NHTM so với các doanh nghiệp khác trong xã hội. Về tính chất kinh tế: hoạt động sử dụng vốn của NHTM là hoạt động kinh doanh, cung cấp vốn cho nền kinh tế, là sợi dây gắn kết giữa NH và doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và nền kinh tế. Về tính chất pháp lý: Vì NHTM là chủ thể chịu sự quản lý của trực tiếp của NHNN nên hoạt động sử dụng vốn của NHTM cũng như hoạt động huy động vốn của NHTM cũng phải chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan này. Bản chất của hoạt động sử dụng vốn của NHTM: Hoạt động sử dụng vốn của NHTM (với tính chất là một chủ thể kinh doanh tiền tệ) rất khác với với hoạt động sử dụng vốn của các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường (sau đây gọi là doanh nghiệp kinh doanh ở những lĩnh vực khác). Ý nghĩa của hoạt động sử dụng vốn của NHTM Chính vì tính chất kinh tế nêu trên nên hoạt động sử dụng vốn của NHTM có ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM có những ý nghĩa cụ thể sau: (i) đối với nền kinh tế, hoạt động sử dụng vốn của NHTM tạo ra luồng tài chính luân chuyển trong nền kinh tế, kích thích kinh tế phát triển, (ii) đối với các doanh nghiệp, hoạt động sử dụng vốn của NHTM cung cấp nguồn lực tài chính cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, (iii) đối với chính NHTM, hoạt động sử dụng vốn của NHTM tạo ra nguồn thu nhập, lợi nhuận cho chính NHTM. 27 Ing. Martin Stivek (2001), tlđd 10, p.37-40 15
- 2.1.2.2. Mục đích của hoạt động sử dụng vốn của NHTM Trước đây, các NH đứng trên phương diện là doanh nghiệp, mục tiêu của nhiều NH là tối đa hóa lợi nhuận. Chính vì các NHTM đặt mục tiêu này lên trên nên đã chi phối đến chiến lược và cơ hội kinh doanh. Qua thời gian, mục tiêu này đã không còn phù hợp nữa. Mục đích hoạt động sử dụng vốn trong thời đại mới đã hướng hoạt động sử dụng vốn của NHTM sang một trang mới. 2.1.2.3. Các nguyên tắc liên quan hoạt động sử dụng vốn của NHTM Nguyên tắc là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm28. Các quy định về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế và thực thi khác nhau theo thời gian nhưng phải dựa trên nền tảng và “trung thành” với những nguyên tắc cơ bản sẽ được phân tích sau đây: Nguyên tắc tự do kinh doanh và tự do hợp đồng; Nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững; Nguyên tắc tránh xung đột lợi ích 2.2. Điều chỉnh bằng pháp luật hoạt động sử dụng vốn của các NHTM 2.2.1. Nhu cầu điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM bằng pháp luật Nhu cầu từ phía nhà nước: Việc thiết lập pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM được rõ ràng, chặt chẽ sẽ tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động của NHTM đi đúng hướng, đúng chủ trương, chính sách của Đảng, đảm bảo an toàn đồng vốn của người dân và toàn xã hội. Nhu cầu từ các NHTM Các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn nếu rõ ràng sẽ khiến các NHTM yên tâm hơn khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Họ sẽ biết cái gì được làm, không được làm, làm như thế nào khi sử dụng vốn của NHTM. Nhu cầu từ phía xã hội Như đã phân tích ở mục 1.1. Nhu cầu này xuất phát từ lý do hoạt động sử dụng vốn của NHTM liên quan đến hầu hết mọi hoạt động của nền kinh tế thông qua việc nắm giữ và cung ứng nguồn vốn. Kế đến, nguồn vốn cho NH hoạt động phần lớn là nguồn vốn của xã hội, NH chỉ là chủ thể đi vay và cho vay lại, chỉ có một phần nhỏ vốn của NH là vốn của chủ sở hữu. Nhu cầu từ xã hội này còn bao gồm cả nhu cầu được hội nhập quốc tế. 2.2.2. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM Thứ nhất, pháp luật là phương tiện để NN quản lý, điều tiết nền kinh tế, quản lý các NHTM, quản lý hoạt động sử dụng vốn của NHTM. 28 Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1988), tlđd 67, tr.721 16
- Thứ hai, pháp luật có vai trò tạo ra khuôn mẫu, chuẩn mực cho các NHTM trong hoạt động sử dụng vốn; cho các cơ quan nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. 2.2.3. Giới hạn cho việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. Dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuyến (2003) về “Xác định giới hạn can thiệp của nhà nước đối với giao dịch thương mại của NH trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”29, nghiên cứu sinh xác định giới hạn sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của các NHTM chỉ nên ở tầm vĩ mô và bằng các biện pháp vĩ mô. Khi can thiệp vào hoạt động sử dụng vốn của NHTM, nhà nước nên thực hiện trên 2 nguyên tắc sau: nguyên tắc hỗ trợ và nguyên tắc tương hợp. Theo đó, nguyên tắc hỗ trợ là tạo điều kiện cho hoạt động sử dụng vốn hiệu quả hơn; nguyên tắc tương hợp là phải sử dụng những biện pháp nào phù hợp với thị trường để thúc đẩy hoạt động sử dụng vốn hiệu quả. 2.3. Hình thức của pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của các NHTM 2.3.1. Văn bản quy phạm pháp luật Về mặt hệ thống, các VB QPPL điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực NH nói chung, trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM nói riêng bao gồm: văn bản luật, văn bản dưới luật. 2.3.2. Hình thức án lệ Các án lệ của Việt Nam hiện nay là “sản phẩm” của TANDTC (dù việc giải quyết đã phát sinh từ trước đó) nên các án lệ hiện nay mang đậm nét của việc định hướng xét xử, án mẫu và áp dụng thống nhất pháp luật, chưa phải là tạo ra một án lệ hoàn toàn mới để giải quyết một vấn đề mới phát sinh trong cuộc sống. Chính vì vậy, các án lệ ở Việt Nam hiện nay thiên về án lệ nhằm giải thích nhưng lại có tính chất bắt buộc. Bên cạnh VB QPPL và án lệ thì còn có hai điều mà còn có quan điểm tranh cãi là quy định nội bộ và bộ quy tắc ứng xử của các NHTM có phải là hình thức thể hiện của “pháp luật” hay không. 2.3.3. Quy định nội bộ của NHTM Quy định nội bộ của NHTM bao gồm Điều lệ hoạt động của các NHTM, quy chế hoạt động của NHTM do chính NHTM ban hành, quy trình cấp tín dụng, v.v…. Tuy nhiên, quy định nội bộ của NHTM có 2 loại: có quy định nội bộ của NHTM được nhà nước trao nhiệm vụ cho NHTM ban hành và quy định nội bộ không được nhà nước trao nhiệm vụ ban hành. Thực tiễn cho thấy, các NHTM phải ban hành những quy định để cụ thể hóa những yêu cầu, nguyên tắc luật định. Đối với những vấn đề nào mà thông 29 Nguyễn Văn Tuyến (2003), tlđd 29 17
- qua VB QPPL nhà nước trao nhiệm vụ cho các NHTM ban hành quy định chi tiết thì mới có giá trị pháp lý. Tóm lại, tuy có nhiều hình thức pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM nhưng trong đó, VB QPPL có giá trị pháp lý cao nhất, kế đến mới là án lệ. Việc tìm hiểu các quy định pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM có bao gồm cả các quy định nội bộ của các NHTM hiện vẫn còn có nhiều tranh luận khác nhau. Tuy nhiên, có một điều vẫn không thể phủ định là nhà nước có thừa nhận và xem nó là một cơ sở quan trọng để xem xét trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, là “cánh tay nối dài” của các QPPL do nhà nước ban hành. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam cần đặc biệt lưu ý ban hành thêm và rõ ràng hơn những quy định nội bộ về quy trình duyệt, cấp và kiểm soát việc cấp tín dụng của các NHTM. Điều này xuất phát từ nhu cầu phân định trách nhiệm và minh bạch hóa quy trình duyệt, cấp và kiểm soát hoạt động sử dụng vốn của NHTM thông qua việc cấp tín dụng. Có như thế, vốn của NHTM mới “chảy trong sự minh bạch”. 2.4. Các tiêu chí đánh giá chất lượng pháp luật liên quan hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại Việc đánh giá chất lượng pháp luật hiện hành về sử dụng vốn của NHTM phục vụ cho việc sửa đổi, loại bỏ những QPPL không phù hợp, còn chồng chéo, những QPPL làm gia tăng chi phí tuân thủ (compliance cost) và cuối cùng là nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Các tiêu chí này bao gồm: Tiêu chí đảm bảo tính hiệu quả,Tiêu chí đảm bảo tính hệ thống, Tiêu chí đảm bảo giảm thiểu chi phí tuân thủ; Tiêu chí phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và nhà nước; Tiêu chí phù hợp với thông lệ và điều ước quốc tế; Tiêu chí các quyền lợi, lợi ích cần được đảm bảo khi hoàn thiện pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại 18
- KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Kết quả nghiên cứu của chương này được thể hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất, trong chương này, nghiên cứu sinh đã làm rõ cơ sở lý luận về vốn và hoạt động sử dụng vốn của NHTM, các nguyên tắc làm nền tảng cho hoạt động sử dụng vốn của các NHTM. Trong chương này, khái niệm, ý nghĩa, cơ cấu vốn của NHTM được phân tích ở nhiều khía cạnh: kinh tế, pháp luật, kế toán, chuẩn mực quốc tế. Thứ hai, trong chương 2 này, nghiên cứu sinh đã làm rõ nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của NHTM: nhu cầu từ cơ quan nhà nước; Nhu cầu từ các NHTM; nhu cầu từ phía xã hội. Thứ ba, pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM ngày càng có tầm quan trọng đặc biệt. Điều này thể hiện ở các lý do sau: Pháp luật đóng vai trò tạo ra khuôn mẫu, chuẩn mực cho các NHTM trong hoạt động sử dụng vốn; cho các cơ quan nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn của các NHTM; cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã đánh dấu sự phá sản của học thuyết kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ nên nhu cầu cần có sự điều tiết bằng pháp luật đối với hoạt động ngân hàng càng tăng cao; các quy phạm khác để điều chỉnh hoạt động sử dụng vốn của NHTM (như đạo đức) không thể thay thế hoàn toàn sự tồn tại của pháp luật. Thứ tư, dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuyến (2003) về “Xác định giới hạn can thiệp của nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”30, nghiên cứu sinh xác định giới hạn sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động sử dụng vốn của các NHTM chỉ nên ở tầm vĩ mô và bằng các biện pháp vĩ mô. Thứ năm, pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của NHTM hiện không chỉ bao gồm các QPPL được thể hiện ở nhiều luật, nghị định, thông tư trong lĩnh vực NH. Khi ban hành các quy định nội bộ, các NHTM được xem là các chủ thể được nhà nước trao nhiệm vụ quy định về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Khi ban hành án lệ trong hệ thống NH, TANDTC sẽ thực hiện nhiệm vụ mà nhà nước trao cho. Thứ sáu, trong chương này, nghiên cứu sinh đã phân tích các tiêu chí đánh giá chất lượng pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Các tiêu chí này bao gồm: tiêu chí đảm bảo tính hiệu quả, tiêu chí đảm bảo tính hệ thống, tiêu chí đảm bảo giảm thiểu chi phí tuân thủ; tiêu chí phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và nhà nước; tiêu chí phù hợp với thông lệ và điều ước quốc tế. Thứ bảy, trong chương này, nghiên cứu sinh đã dùng lý thuyết về tự do kinh doanh, tự do HĐ để phân tích về hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Từ đó, nghiên cứu 30 Nguyễn Văn Tuyến (2003), tlđd 30 19
- sinh kết luận rằng, tự do kinh doanh, tự do HĐ trong hoạt động NH của các NHTM hoàn toàn khác với các ngành nghề khác. Các hoạt động NH của NHTM chỉ giới hạn trong giấy phép của NHNN cấp cho các NHTM. Thứ tám, không phải khi là doanh nghiệp xã hội thì các doanh nghiệp mới phải có trách nhiệm với xã hội. Các doanh nghiệp như NHTM dù không phải là doanh nghiệp xã hội cũng phải góp phần vào việc phát triển bền vững của nền kinh tế. Thứ chín, quan hệ liên quan đến hoạt động sử dụng vốn của NHTM có liên quan đến 2 nhóm quan hệ pháp luật sau: Quan hệ giữa NHTM và người gửi tiền; quan hệ giữa NHTM và người nhận cấp tín dụng từ NHTM. Chủ thể là người gửi tiền vào NHTM không được can thiệp vào hoạt động sử dụng vốn của NHTM do đây là hai loại quan hệ hợp đồng độc lập với nhau. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 267 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn