intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945) - Sự hình thành và nghi thức tế tự

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:52

106
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước, tiếp tục đi sâu tìm hiểu cơ sở của sự ra đời, quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ trong lịch sử cũng như các đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, từ đó làm rõ ý nghĩa và vai trò của các công trình đàn miếu và nghi lễ đại tự đối với triều đại này trong lịch sử Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945) - Sự hình thành và nghi thức tế tự

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUỲNH THỊ ANH VÂN CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ (1802-1945): SỰ HÌNH THÀNH VÀ NGHI THỨC TẾ TỰ Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 62.22.03.13 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HUẾ - NĂM 2016
  2. Công trình được hoàn thành tại khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Bang TS. Phan Thanh Hải Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3 Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Đại học Huế họp tại: số 3, đường Lê Lợi, TP Huế. Vào hồi…….ngày….. tháng…… năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện trường Đại học Khoa học, Đại học Huế và Thư viện Quốc gia.
  3. MỞ ĐẦU 1.1. Tính khoa học và thực tiễn của đề tài Về ý nghĩa khoa học: Việc nghiên cứu các công trình đàn miếu và nghi lễ đại tự trong mối liên hệ thống nhất về ý nghĩa triết lý và vai trò của các công trình này đối với các triều đại quân chủ ở Việt Nam, đặc biệt dưới triều Nguyễn, là một việc cần thiết nhằm cung cấp thêm cơ sở khoa học cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế hiện nay. Đây cũng sẽ là luận án đầu tiên tập trung đánh giá đầy đủ, khách quan và hệ thống về quá trình hình thành và phát triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế và nghi thức tế tự. Mặt khác, phần lớn các bài viết, công trình nghiên cứu về các đàn miếu và nghi thức tế đại tự đều chỉ dừng lại ở việc mô tả về lịch sử, quy mô kiến trúc hoặc sự kiện chứ chưa đi sâu phân tích vai trò và ý nghĩa về mặt xã hội của các đàn miếu và nghi thức tế đại tự trong những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. Việc nghiên cứu các đàn miếu và nghi thức tế đại tự trong mối tương quan với những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể sẽ giúp đưa ra những đánh giá toàn diện và khách quan đối với các hoạt động này trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án sẽ hỗ trợ việc nghiên cứu và giảng dạy về triều Nguyễn ở những khía cạnh có liên quan trong nhà trường và cho công tác bảo tồn, phục dựng, đáp ứng nhu cầu du lịch văn hóa, đặc biệt là văn hóa tâm linh vùng Huế. Đồng thời, dựa trên những kết quả nghiên cứu về đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, luận án sẽ đưa ra một số đề xuất hướng bảo tồn và phát huy giá trị các đàn miếu đại tự trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là khi các nghi thức tế đại tự của triều Nguyễn hiện đang được phục dựng ở những quy mô khác nhau và có nhiều ý kiến khác nhau về việc phục dựng này. Từ những ý nghĩa trên, tác giả chọn vấn đề “Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945): sự hình thành và nghi thức tế tự” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế, bao gồm: đàn Nam Giao, các miếu thờ tổ tiên của họ Nguyễn trong khu vực Hoàng thành Huế (Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ 1
  4. Miếu, Thế Tổ Miếu và Hưng Tổ Miếu) và đàn Xã Tắc, cùng các nghi lễ tế tự tương ứng, bao gồm lễ tế Giao, lễ tế miếu và lễ tế Xã Tắc. Không gian nghiên cứu của đề tài là tại Huế, tập trung chủ yếu ở khu vực đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ của triều Nguyễn trong Hoàng thành Huế. Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của đề tài là quá trình hình thành và phát triển của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn tại Huế từ khi mới lập nên triều đại cho đến khi kết thúc (1802-1945). Tuy nhiên, sự hình thành của các đàn miếu đại tự của triều Nguyễn có sự kế thừa từ các hình thức đàn miếu đại tự cùng loại của các triều đại trước nên luận án sẽ có phần sơ khảo về lịch sử hình thành và phát triển của các hình thức đàn miếu đại tự dưới các triều đại trước Nguyễn ở Việt Nam. Mặt khác, các đàn miếu đại tự hiện vẫn đang được bảo tồn và phát huy giá trị cùng với những hoạt động văn hóa đặc sắc. Vì vậy, luận án cũng sẽ tìm hiểu về các đàn miếu đại tự và hoạt động nghi lễ trong thời gian từ sau 1945 đến thời điểm hoàn tất luận án (cuối năm 2015) để có thêm cơ sở cho những đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Nhìn chung, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các đàn miếu đại tự và những nghi lễ liên quan dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở việc mô tả từng đối tượng riêng lẻ hoặc đề cập đến đối tượng ở những khía cạnh và mức độ nhất định. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước, luận án sẽ tiếp tục đi sâu tìm hiểu cơ sở của sự ra đời, quá trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ trong lịch sử cũng như các đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, từ đó làm rõ ý nghĩa và vai trò của các công trình đàn miếu và nghi lễ đại tự đối với triều đại này trong lịch sử Việt Nam. Dưới nhiều tác động của các bối cảnh chính trị, xã hội khác nhau, các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế hiện đã và đang được bảo tồn, phát huy giá trị tích cực trong bối cảnh mới. Quy mô và nhiều yếu tố gắn liền với chúng như trình tự nghi thức, trang phục, đồ tự khí và lễ vật cúng tế cũng có nhiều thay đổi nhằm thích nghi với hoàn cảnh hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng nhằm góp thêm cơ sở khoa học để đảm bảo sự cân bằng giữa mục 2
  5. tiêu bảo tồn tính chân xác của di sản với việc phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển du lịch một cách bền vững. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích nêu trên, luận án cần tập hợp thành hệ thống những thông tin liên quan đến lịch sử hình thành, việc quy hoạch và xây dựng đàn miếu đại tự thời Nguyễn tại Huế, tìm hiểu các cơ quan tham gia vào quá trình chuẩn bị, tổ chức nghi lễ đại tự, âm nhạc và múa, trang phục, văn tế, trình tự nghi thức... để qua đó phân tích, đánh giá những đặc điểm của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn, ý nghĩa cũng như vai trò của chúng đối với đời sống văn hóa tinh thần của triều đại này từ 1802-1945. Luận án cũng cần có sự tham khảo để so sánh, đối chiếu với những hình thức tương tự ở một số nước đồng văn khác trong khu vực, rút ra những nét đặc trưng của triều Nguyễn nhìn từ các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở Huế. Bên cạnh đó, luận án cũng cần tiếp tục khảo sát tình hình bảo tồn đàn miếu và thực hành nghi lễ sau khi triều Nguyễn cáo chung năm 1945 cũng như những biến đổi trong cách tổ chức, thực hành văn hóa và tác động tâm lý xã hội từ việc tham gia nghi lễ để tìm hiểu ý nghĩa, bản chất của những nghi lễ phục dựng hiện nay nhằm đưa ra những đề xuất định hướng cho việc bảo tồn và phục dựng các nghi lễ đại tự trong bối cảnh mới dựa trên sự tôn trọng lịch sử và thể hiện nét đặc trưng văn hóa đặc sắc của địa phương. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tư liệu Nguồn tư liệu có tính quyết định đến sự thành công của đề tài này bao gồm các loại thư tịch của triều Nguyễn và các công trình nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, địa lý...Ngoài ra còn có các luận văn, các loại tạp chí, các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về tôn giáo và nghi lễ và các tài liệu thu được từ khảo sát thực địa. Trước hết, có thể kể đến nguồn thư tịch phong phú, gồm các bộ sử đồ sộ của Quốc sử quán và Nội Các triều Nguyễn mang tính biên niên, ghi chép các sự kiện liên quan đến chính sự, chế độ, điển chế,.. v.v..như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Đại Nam thực lục Chính biên đệ thất kỷ, Đồng Khánh Khải Định chính yếu và các châu bản triều Nguyễn có liên quan đến đề tài; hoặc các loại tư liệu về địa chí như bộ Đại Nam 3
  6. nhất thống chí (một bộ biên soạn đời Tự Đức năm 1865-1882; ngoài ra còn có bộ Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán đời Duy Tân biên soạn, chỉ có các tỉnh Trung kỳ và được khắc in năm 1909. Các bản này được dịch sang tiếng Việt và tái bản vào các năm 1960, 1969, 2006….). Ngoài ra còn có một số công trình khảo cứu trực tiếp về nghi lễ đại tự triều Nguyễn trước và sau khi triều Nguyễn cáo chung, như tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH / Những người bạn cố đô Huế) của Hội đô thành hiếu cổ (1914-1944) hoặc tác phẩm của những người trực tiếp chứng kiến nghi lễ đại tự thời Nguyễn như Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng (1972) hoặc luận án Sự tích đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao tại Huế (1973) của tác giả Lê Văn Phước. Bên cạnh đó còn có nhiều tác phẩm khác viết về nguồn gốc tư tưởng, phong tục, tập quán, âm nhạc, nghi thức, sự ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc v..v..liên quan đến vấn đề được bàn đến trong nội dung đề tài, tiêu biểu có Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (in lần đầu năm 1968), Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính (xuất bản lần đầu tiên năm 1915, tái bản năm 2005), Nho giáo của Trần Trọng Kim (in lần đầu vào những năm 1929-1933, tái bản năm 1992), Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam của Nguyễn Minh Tường (2012). Ngoài ra còn có các bài viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay, Nghiên cứu và Phát triển, các kỷ yếu Hội thảo về triều Nguyễn,v.v.. viết về những khía cạnh liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án. Luận án cũng tham khảo các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án của các nhà nghiên cứu nước ngoài như Li Tana, Yu Insun…; các kỷ yếu hội thảo, hội nghị hoặc các bài viết đã được đăng tải trên các Tạp chí uy tín hay đã được xuất bản của một số tác giả trong và ngoài nước. Đặc biệt, có một số bài viết phân tích khá sâu về tôn giáo và nghi lễ của các triều đình ở Việt Nam, như: “Religion and Ritual in the Royal Courts of Đại Việt” của John K. Whitmore đăng trong Asia Research Institute Working Paper Series No. 128 (Loạt bài viết của Viện Nghiên cứu châu Á, Đại học Quốc gia Singapore, tháng 12/2009) hoặc những mô tả của các nhân chứng là người nước ngoài có dịp tiếp xúc hoặc chứng kiến các hoạt động tế tự của triều đình Nguyễn. Những bài viết này cung cấp một cách nhìn nhận và đánh giá tính chất đặc 4
  7. trưng các Nhà nước phong kiến ở Việt Nam dưới nhiều góc độ khác nhau, trong đó có nhiều khía cạnh liên quan đến đề tài. Các nguồn tư liệu thu được từ khảo sát thực địa tại một số di tích có liên quan (đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, các miếu thờ hoàng gia) ở trong và ngoài nước, tư liệu khảo cổ, các sưu tập hiện vật bảo tàng và thông tin từ phỏng vấn nhân chứng trong quá trình khảo sát, điền dã cũng đem lại những cơ sở khoa học đáng tin cậy cho đề tài. Ngoài những tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài nêu trên, chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải trên internet. Có thể nói những tài liệu này hết sức phong phú, đa dạng và mức độ đề cập cũng rất khác nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân loại và thẩm định kỹ lưỡng trước khi sử dụng để nghiên cứu đề tài. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Để đáp ứng yêu cầu thực hiện đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, phương pháp chuyên ngành khoa học lịch sử là phương pháp chủ yếu được áp dụng trong luận án, kết hợp với phương pháp logic để trình bày một cách hệ thống quá trình hình thành, phát triển, suy tàn và được phục hồi của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế, đồng thời làm rõ tính kế thừa từ các triều đại trước trong lịch sử Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu bằng các phương pháp này cũng giúp đánh giá sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong việc xây dựng và củng cố quyền lực của triều Nguyễn thông qua hình thức các đàn miếu và nghi lễ đại tự ở Huế và vai trò của chúng đối với sự tồn tại và phát triển của vương triều Nguyễn. Trong quá trình phân tích và đánh giá, luận án cũng chú ý vận dụng các phương pháp liên ngành, như các phương pháp phân tích thư tịch, nghiên cứu kết quả khảo cổ học, phương pháp thống kê - phân loại và so sánh, đối chiếu các loại bảng biểu, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ, ảnh chụp, v..v..để tìm hiểu những thông tin chi tiết về những đặc điểm của các đàn miếu đại tự và thực hành nghi lễ liên quan dưới triều Nguyễn tại Huế. Đặc biệt, những phương pháp này được kết hợp với phương pháp so sánh lịch sử đồng đại và lịch đại để tìm ra những nét đặc trưng của các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn so với các hình thức tương tự của Trung Quốc và Hàn Quốc, thể hiện bản sắc và tinh thần tự tôn dân tộc trong quá trình tiếp thu những ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài một cách chủ định và có chọn lọc, làm rõ tính mục đích của việc thiết lập các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế. 5
  8. Phương pháp hệ thống-cấu trúc kết hợp với phương pháp nghiên cứu liên ngành bao gồm điền dã dân tộc học, phỏng vấn nhân chứng, quan sát và quan sát tham dự trong nhân học văn hóa cho phép tác giả luận án tìm hiểu những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội đối với quá trình hình thành đàn miếu và nghi lễ đại tự. Mặc khác, kết quả nghiên cứu cũng giúp tác giả tìm hiểu vai trò của các đàn miếu và nghi lễ phục dựng hiện nay đối với cộng đồng trong sự thích ứng với bối cảnh văn hóa, chính trị, xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Trong việc xử lý tư liệu, tác giả sẽ cố gắng bám vào tư liệu gốc và các tư liệu dịch thuật bởi các cơ quan chuyên môn có uy tín. Tuy nhiên, trong trường hợp tác giả không thể tiếp cận tư liệu gốc mà phải trích dẫn lại, tác giả đều nói rõ nguồn. 5. Đóng góp của luận án 5.1 Về mặt thực tiễn, luận án sẽ cung cấp một cách đánh giá tổng quan về đề tài thông qua việc hệ thống hóa các thông tin thu thập được trong quá trình nghiên cứu tư liệu và điền dã, góp phần phục vụ cho công tác nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan đến các đàn miếu và nghi lễ đại tự. Việc hiểu đúng và hiểu sâu về các đàn miếu và nghi thức đại tự triều Nguyễn sẽ góp phần đưa ra định hướng và phương pháp đúng đắn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản đã được công nhận là di sản văn hóa quốc gia cấp đặc biệt và là di sản văn hóa thế giới. 5.2 Về mặt lý thuyết, kế thừa các kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, khắc phục những điểm còn hạn chế và kết hợp với cách kiến giải dựa trên sự phân tích, tổng hợp các thông tin thu được từ quá trình nghiên cứu tư liệu, luận án sẽ đưa ra cách nhìn mới về các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế. Mặc dù đề tài và đối tượng nghiên cứu không mới và đã được nhiều tác giả đề cập tới từ đầu thế kỷ, nhưng việc vận dụng cách tiếp cận liên ngành kết hợp với kỹ năng lập luận, phân tích, luận án sẽ góp phần chứng minh các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế cũng là hình thức thể hiện tính chính thống của quyền lực nhà vua dưới thời quân chủ. Nói cách khác, nghi lễ đại tự cũng chính là nghi lễ của quyền lực. Mọi chi tiết về quy hoạch và xây dựng, trang trí kiến trúc hay những thủ tục trình tự nghi thức, nhạc, múa, trang phục, lễ phẩm v..v...của các đàn miếu và nghi lễ đại tự đều nhằm mục đích thể hiện quân quyền, cùng với đó là thần quyền trong một ý nghĩa tâm linh huyền bí mà nghi lễ đem lại. 6
  9. 5.3 Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng những thông tin tư liệu để so sánh và khảo sát thực tế để xác định đâu là những nét bản sắc của triều Nguyễn thể hiện bản lĩnh và sự sáng tạo trong cách vận dụng tư tưởng Nho giáo Trung Quốc vào điều kiện thực tế của Việt Nam và kế thừa các triều đại trước. Đó chính là những nét đặc trưng thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc của các vua Nguyễn, đặc biệt là vào buổi đầu của triều đại. Điều này thể hiện qua việc quy hoạch và xây dựng đàn miếu có phần khác với Trung Quốc và Hàn Quốc, cũng như việc thực hành nghi lễ tế tự một cách quy củ. Mặt khác, kết quả điền dã thực địa cho thấy trong số các nghi lễ đại tự của triều Nguyễn, chỉ có lễ tế miếu – hay nói đúng hơn là lễ kỵ giỗ của Nguyễn Phúc Tộc, đã và vẫn đang được dòng họ tổ chức trong gia đình và ở các tông miếu hoàng gia tại hoàng cung, thể hiện truyền thống thờ cúng tổ tiên, mang đậm nét địa phương và bản sắc của một triều đại. Nghi lễ này cho dù có nhiều thay đổi nhưng vẫn tồn tại như một cách thích ứng trước áp lực của sự toàn cầu hóa và hiện đại hóa trong bối cảnh hiện nay và vẫn giữ nguyên những giá trị văn hóa và tinh thần. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (4 trang), Danh mục các công trình khoa học liên quan đã công bố (3 trang), Tài liệu tham khảo (15 trang), Bảng Chú giải một số từ vựng (3 trang), Phụ lục (70 trang), nội dung chính của luận án được chia làm 4 chương: Chương 1:Tổng quan tình hình nghiên cứu (17 trang) Chương 2: Sự hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (39 trang) Chương 3. Nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế (32 trang) Chương 4. Đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn ở Huế: những đặc trưng và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị (30 trang) Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu 1.1.1 Các công trình nghiên cứu trước năm 1975 Trước hết, liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án có các công trình nghiên cứu đã được thực hiện và ấn hành từ những năm triều Nguyễn chưa chấm dứt, tiêu biểu là bộ Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH/Những người bạn cố đô Huế) của Hội đô thành hiếu cổ với nhiều bài viết của L. Cadière [147]; [148]; [149]; Nguyễn 7
  10. Đình Hoè [151], R. Orband [153]; [154]; [155]; [156], H. De Pirey [157], A. Sallet [158]...cung cấp nhiều thông tin tư liệu đáng quý về các đối tượng của đề tài, trong đó có nhiều bài viết mô tả cụ thể về đàn Nam Giao và nghi thức tế Giao hoặc đàn Xã Tắc thời Nguyễn kèm theo bản vẽ hoặc ảnh chụp, được xem là cơ sở cho việc phục dựng các lễ tế Giao hiện nay. Mặc dù các kết quả nghiên cứu khác ở giai đoạn trước 1975 chỉ mang tính chất hồi ký, mô tả, nhưng cũng rất có giá trị tham khảo bởi phần lớn các tác giả cũng là những nhà trí thức, những nhân chứng lịch sử hoặc những người có nhiều cơ hội để tiếp cận và kiểm chứng thực tế về những nội dung liên quan đến đề tài. Nổi bật trong số đó có Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (in lần đầu năm 1968) với những thông tin khá đầy đủ về các đại lễ quan trọng nhất dưới thời các triều đại quân chủ ở Việt Nam cùng những chi tiết về nghi thức, âm nhạc, kèm theo một số hình ảnh minh họa. Tuy nhiên, tác phẩm này chỉ đề cập đến việc lập đàn Xã Tắc (vào đời Trần) đúng một câu trong mục “Lễ Tịch điền qua các triều đại”, ngoài ra không có thông tin gì thêm về lễ tế đàn Xã Tắc dưới thời Trần và các triều đại khác, kể cả triều Nguyễn. Thông tin về lễ tế miếu trong tác phẩm này cũng khá sơ sài và hoàn toàn không mô tả vị trí hay đặc điểm kiến trúc của các công trình. Riêng đối với lễ tế miếu thời Nguyễn, tác phẩm đưa ra những thông tin khá chi tiết về lễ vật tế, trình tự tổ chức và các nghi thức, kèm theo nội dung nhạc tế nhưng chỉ đề cập đến lễ tế kỵ ở Thế Miếu nhà Nguyễn. Một nội dung khác khá quan trọng là việc trong tác phẩm này, lễ tế kỵ ở Thế Miếu nhà Nguyễn có múa nhạc, trong khi theo quy chế triều Nguyễn, chỉ có lễ tế hưởng (tế theo mùa) ở miếu mới có múa Bát dật. Bên cạnh đó, thông tin về các lễ tế được tổ chức sau khi triều Nguyễn đã cáo chung cũng rất cần thiết để giúp tác giả luận án hiểu thêm vai trò của các đàn miếu và những nghi thức tế đại tự triều Nguyễn đối với đời sống văn hóa tinh thần vùng Huế, đặc biệt là sau khi triều đại quân chủ đã chấm dứt. Các tác phẩm viết về hoạt động này có: Lễ tế Nam Giao của Hồng Hoài Lê Văn Hoàng (1972) hoăc Sự tích đàn Nam Giao và các cuộc lễ tế Giao tại Huế của Lê Văn Phước (1973) với nhiều thông tin chi tiết mô tả kiến trúc và cách thức tổ chức nghi lễ tế Giao nhưng chưa đi sâu lý giải về mặt ý nghĩa triết lý hoặc phân tích những tác động về mặt xã hội của các 8
  11. hình thức tế đại tự mà luận án đề cập. Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tập san chuyên đề như Sử Địa (Sài Gòn), Đại học (Huế), Nam Phong (Sài Gòn) nhưng cũng chỉ cung cấp thông tin sơ lược về đàn Nam Giao và lễ tế Giao. Trong đó, đáng chú ý có một vài thông tin ghi được vào thời điểm 1942 về Trai Cung và những chứng tích còn sót lại như: dấu tích kiến trúc, thẻ bằng đá treo trên cây thông..v..v.. 1.1.2 Các công trình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay Căn cứ vào sự thay đổi về cơ bản trong cách nhìn nhận, đánh giá về triều Nguyễn sau thời kỳ đổi mới (1986), có thể tạm chia thời kỳ sau năm 1975 đến nay ra làm 2 giai đoạn. a. Giai đoạn từ năm 1975-1986 Ở giai đoạn này, mặc dù người ta không cấm đoán việc tế tự, nhưng với quan điểm coi triều Nguyễn là “thối nát”, “phản động” và chủ trương bài trừ mê tín dị đoan, nhiều hình thức sinh hoạt tín ngưỡng bị đình trệ trong khoảng thời gian từ 1975-1985. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung và về các đàn miếu hay nghi thức tế đại tự ở Huế giai đoạn này gần như không có gì tiến triển. b. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay * Nhóm công trình nghiên cứu về triều Nguyễn và di sản kiến trúc đàn miếu ở Huế Năm 1994, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã chọn chủ đề Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay làm đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước (mã số KX-ĐL: 94-16), do PGS.TS. Đỗ Bang làm chủ nhiệm đề tài đã đánh dấu sự vào cuộc chính thức về mặt nhà nước trong việc nghiên cứu khách quan và toàn diện hơn về triều Nguyễn. Cùng chung mối quan tâm về triều Nguyễn giai đoạn này còn có nhiều nhà nghiên cứu với những công trình quy mô khác nhau, trong đó có thể kể đến: Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh (1995), Kinh thành Huế của Phan Thuận An (1999), Phú Xuân-Huế từ đô thị cổ đến hiện đại, bao gồm nhiều bài viết của các tác giả do UBND thành phố Huế tập hợp (1999), Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam của nhiều tác giả do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và tạp chí Huế-Xưa & Nay xuất bản (2002), Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn của nhiều tác giả do Sở 9
  12. Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản (2002). Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu này đều ít đề cập đến những đối tượng nghiên cứu của đề tài. Đáng lưu ý có tác phẩm Dấu ấn Nguyễn trong văn hóa Phú Xuân của Phan Thanh Hải (2002). Đây là tập hợp nhiều bài khảo cứu về triều Nguyễn và văn hóa Huế, trong đó có những bài viết liên quan trực tiếp đến đề tài với nhiều thông tin có giá trị. Với kết quả khảo sát thực tế tại Trung Quốc, tác giả là người đầu tiên đưa ra những nhận xét so sánh giữa đàn tế Trời thời Minh- Thanh ở Bắc Kinh và đàn tế của triều Nguyễn ở Huế. Dựa trên mô tả về đàn Nam Giao triều Nguyễn ở Huế với 3 tầng (một tầng tượng trưng cho Trời, một tầng tượng trưng cho Đất, một tầng tượng trưng cho Con người), tác giả đã có lý khi cho rằng lối kiến trúc này “thể hiện mối quan hệ vừa có tính cách biệt tương đối, vừa thống nhất trong mối liên kết có tính tuyệt đối”. Theo nhận xét của tác giả, ở Trung Quốc, tế Giao được tổ chức riêng rẽ, trong đó yếu tố Trời, Đất và các vị thần linh luôn đóng vai trò quan trọng và bao trùm lên tất cả: “Trên thực tế ở Trung Quốc, giai cấp thống trị luôn luôn tìm cách đẩy xa khoảng cách giữa thần linh và con người”. Liên quan đến việc quy hoạch kiến trúc và mối tương quan giữa vị trí các công trình với những yếu tố tự nhiên mang ý nghĩa triết lý phong thủy, tác phẩm Kinh thành Huế của Phan Thuận An là một tác phẩm cung cấp những thông tin đầy đủ nhất về quá trình hình thành Kinh thành Huế. Tác giả nhận xét: “...Với cách đưa kiến trúc Kinh thành vào giữa các thực thể địa lý ở ngoại cảnh thiên nhiên.., chúng ta thấy việc quy hoạch và xây dựng công trình kiến trúc này đã và đang tiểm ẩn một nội dung triết lý thật sâu sắc”. Trong bài khảo cứu của mình về “Tư tưởng quy hoạch Kinh thành Huế dưới triều Gia Long” trong Huế-triều Nguyễn, một cái nhìn (2004), tác giả Trần Đức Anh Sơn tiến thêm một bước trong việc nghiên cứu về khía cạnh này và kết luận: “Việc quy hoạch và kiến thiết Kinh thành Huế dưới triều Gia Long là một sự kết hợp tài tình, khéo léo các yếu tố: lịch sử, Dịch lý và thuật phong thủy và tri thức khoa học...”. Cùng chung mối quan tâm đến đặc điểm quy hoạch của các di tích triều Nguyễn ở Huế, tác giả Phan Thanh Hải cũng nhận định: “Ở Kinh đô Huế, ngoài trục (thần đạo) của kinh đô chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, bên ngoài Kinh thành còn có một trục chạy theo hướng Bắc-Nam, 10
  13. nối từ Kỳ Đài đến đàn Nam Giao. Chính trục thứ hai này cùng với dòng sông Hương đã tạo nên sự liên kết rất chặt chẽ, hài hòa giữa kinh đô với các công trình kiến trúc bên ngoài Kinh thành, nhất là miền lăng tẩm của hoàng gia ở phía Tây và Tây-Nam”. Các kết quả nghiên cứu trên đây là một trong những cơ sở giúp tác giả luận án xem xét mối quan hệ giữa các đàn miếu đại tự triều Nguyễn với toàn bộ quần thể di tích cố đô Huế và đặc điểm của các đàn miếu đại tự nhìn từ ý nghĩa triết lý trong quy hoạch. Riêng bài viết “Quy hoạch khu di tích đàn Xã Tắc-thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Việt Dũng cung cấp thêm một số thông tin khá chi tiết về việc quy hoạch đàn Xã Tắc để trùng tu, phục hồi sau một thời gian dài bị xuống cấp nghiêm trọng. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu là những Luận văn, Luận án Tiến sĩ liên quan đến một số khía cạnh trong đối tượng nghiên cứu của đề tài. Nổi bật trong số đó có Luận án Tiến sĩ về Quan xưởng ở Kinh đô Huế từ 1802 đến 1884 của Nguyễn Văn Đăng năm 2002 đem lại nhiều thông tin bổ ích về các cơ quan sản xuất, cung cấp các vật dụng của triều đình. Luận án Tiến sĩ về Vai trò của bộ Công trong việc xây dựng kinh đô Huế dưới triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) của Phan Tiến Dũng năm 2005 với những thông tin về việc xây dựng các công trình đàn miếu dưới triều Nguyễn, cung cấp những kết quả thống kê khoa học về số lượng và hình thức các loại gạch, ngói xây dựng kiến trúc cung đình Nguyễn. Ngoài ra còn có nhiều kết quả nghiên cứu được công bố tại các hội nghị, hội thảo khoa học bàn về triều Nguyễn và được in thành kỷ yếu. Đó là kỷ yếu của các Hội thảo về Những vấn đề văn hóa – xã hội thời Nguyễn (Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, lần thứ nhất năm 1992, lần thứ hai năm 1995), hội thảo khoa học quốc gia về Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở đại học, cao đẳng sư phạm và phổ thông do trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục Đào tạo tổ chức năm 2002, Hội nghị chuyên gia Đánh giá quỹ kiến trúc đô thị Huế do UBND thành phố Huế tổ chức năm 2003, Hội thảo khoa học về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX do UBND tỉnh Thanh Hóa và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức năm 2008, Hội thảo về Thuận Hóa-Phú Xuân Thừa Thiên Huế-700 năm hình thành và phát triển do Hội Khoa học Lịch sử 11
  14. tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức năm 2010, các Hội thảo Việt Nam học lần thứ nhất (1998), lần thứ hai (2004), lần thứ 3 (2008), lần thứ 4 (2012), Hội thảo Văn hóa Huế, đặc điểm lịch sử và vấn đề bảo tồn, phát triển do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức năm 2014, Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức năm 2015 cùng nhiều hội thảo, hội nghị chuyên đề khác ở cấp quốc gia và quốc tế trên nhiều lĩnh lực khác có liên quan ít nhiều. Hầu hết các hội thảo đều đề cập đến những mảng đề tài rộng và mang tính tổng quan nhiều hơn là đi vào chi tiết hoặc đề cập đến những trường hợp cụ thể như đối tượng nghiên cứu của luận án. Đặc biệt, Hội thảo Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức đã công bố nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị về những giá trị độc đáo và quý hiếm của hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế. Đây cũng là những cứ liệu chân xác và nguyên gốc đặc biệt quý hiếm phản ánh tư tưởng trị nước an dân của các vua Nguyễn dựa trên nền tảng của Nho học, tinh thần tự tôn dân tộc hoặc vị thế cảnh quan đặc biệt của Kinh đô Huế. Trong những công trình nghiên cứu của người nước ngoài viết về Việt Nam, đặc biệt là về triều Nguyễn, tác giả Hoàng Lan Tường là người đầu tiên đưa ra cái nhìn so sánh giữa quy hoạch kiến trúc các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn và tông miếu triều Minh – Thanh Trung Quốc trong bài viết “Lược khảo quy hoạch thành thị Huế, quốc đô Việt Nam thế kỷ XIX” năm 2003. Từ những so sánh về vị trí của các công trình có cùng chức năng giữa hai kinh đô Huế và Bắc Kinh, tác giả nhận xét: “Hoàng thành Huế Việt Nam có cách phối trí đặc trưng, thể hiện việc coi trọng thờ cúng tổ tiên”. Đây là một trong những nhận xét khá hiếm hoi của người nước ngoài đề cập trực tiếp đến nét đặc trưng trong quy hoạch các miếu thờ tổ tiên của triều Nguyễn ở Huế. Nhận xét này của tác giả khá xác đáng, tuy nhiên vẫn chưa lý giải được ý nghĩa của sự khác biệt này cũng như mối liên hệ về mặt tổng thể trong việc triều Nguyễn tiếp thu có chọn lọc những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Trung Quốc để xây dựng các công trình đàn miếu đại tự ở Huế. 12
  15. * Nhóm các công trình nghiên cứu về nguồn gốc tư tưởng và nghi lễ Về khía cạnh này, nhiều công trình khảo cứu công phu của các tác giả với những phân tích sâu về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam, đặc biệt là vai trò của vua theo cách nhìn của Nho giáo và sự vận dụng tư tưởng Nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam dưới triều Nguyễn một cách có chọn lọc cũng được tác giả luận án quan tâm tìm hiểu. Trong số các tác phẩm viết về Nho giáo và văn hóa Trung Quốc có Nho giáo của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1992, Kinh điển văn hóa 5000 năm Trung Hoa của Dương Lực xuất bản năm 2002, Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh của Nguyễn Hoài Văn xuất bản năm 2002, Nho giáo Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan xuất bản năm 2005. Những công trình này đã cung cấp nhiều thông tin cơ bản cho việc đánh giá, so sánh và xác định những nét đặc trưng của triều Nguyễn trong quá trình tiếp thu và vận dụng tư tưởng Nho giáo Trung Quốc vào việc xây dựng đàn miếu và tiến hành nghi lễ đại tự ở Huế. Trong số các nghi lễ đại tự, lễ tế miếu có nguồn gốc từ truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt. Về vấn đề này có một số công trình như: Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay của Trần Đăng Sinh xuất bản năm 2002, Một số phong tục nghi lễ dân gian truyền thống Việt Nam của Quảng Tuệ xuất bản năm năm 2002, cùng các bài viết của nhiều tác giả trên các Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Huế, Huế Xưa & Nay, Nghiên cứu và Phát triển, v.v.. đã giúp tác giả có thêm nhiều thông tin bổ ích về những khía cạnh liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án nhưng vẫn chưa xác định được truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt ra đời từ khi nào. Một số tác phẩm không đề cập trực tiếp đến các đối tượng nghiên cứu của đề tài nhưng giúp tác giả luận án hiểu thêm về ý nghĩa của những địa điểm xây dựng các đàn miếu nhìn từ khía cạnh phong thủy hoặc những bối cảnh kinh tế-xã hội của Việt Nam ở giai đoạn chính quyền quân chủ Nguyễn dần đánh mất quyền lực, chuyển tiếp sang chế độ thuộc địa. Kể từ sau năm 1986, vấn đề về triều Nguyễn được giới học thuật trong nước quan tâm nhiều hơn, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử nghiên cứu về triều Nguyễn ở Việt Nam với những 13
  16. bài viết, công trình khảo cứu ở nhiều mức độ khác nhau, trong đó có nhiều bài viết cung cấp những thông tin khá chi tiết liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài. Ở một góc độ nghiên cứu về những tác động của bối cảnh chính trị, xã hội đối với văn hóa, tác giả Trần Đại Vinh trong công trình nghiên cứu về Tín ngưỡng dân gian Huế năm 1995 [134] xác nhận sự gián đoạn của hoạt động cúng tế trong dân gian thời kỳ 1985. Điều này khá hữu ích cho tác giả luận án, giúp thêm cơ sở cho việc tìm hiểu về sự tác động của những bối cảnh chính trị, xã hội khác nhau đối với các đối tượng nghiên cứu của đề tài. Liên quan đến hoạt động nghi lễ cung đình ở Huế còn có nhiều công trình nghiên cứu khác như: “Lễ hội ở Huế dưới thời Nguyễn” của Lê Văn Thuyên năm 2003, “Vài nét về lễ tết trong cung đình Huế” của Nguyễn Văn Đăng năm 2002, “Một số lễ nghi liên quan đến nông nghiệp dưới triều Nguyễn” của Phương Hà năm 2012, “Lễ hội cung đình Nguyễn-giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị phục vụ nhu cầu tâm linh của nhân dân và phát triển du lịch bền vững trong bối cảnh hiện nay ở tỉnh Thừa Thiên Huế” của Lê Thị An Hòa năm 2012, “Phụng Tiên-điện thờ của hoàng tộc Nguyễn” của Thúy Vân-Tiến Đặng năm 2012, “Các đàn tế thời Nguyễn ở Huế: đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông, đàn Sơn Xuyên” của Phan Thuận An năm 2013, v..v..Phần lớn những bài viết này đều có liên quan ít nhiều đến đề tài luận án nhưng không có sự đánh giá toàn diện về vai trò và ý nghĩa của hoạt động tế đại tự dưới triều Nguyễn ở Huế. Trải qua thời gian, những công trình nghiên cứu về triều Nguyễn ngày càng dày dặn và có chiều sâu. Trong các bài khảo cứu của mình, tác giả Trần Đức Anh Sơn cung cấp thêm nhiều thông tin liên quan đến một số thay đổi ở đàn Nam Giao thời kỳ sau năm 1975 và hoạt động tu sửa đàn Nam Giao năm 1994. Riêng đối với nội dung liên quan đến miếu thờ các vua Nguyễn ở Huế, tác giả cho rằng việc sắp xếp các án thờ trong Thế Tổ Miếu cần có sự thay đổi nhỏ về vị trí các án thờ 3 vị vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân để phù hợp với thế thứ trong phả hệ của dòng họ. Mặt khác, tác giả cũng cho rằng các vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là “phế đế” (vua bị phế truất) và “xuất đế” (vua bị đi đày) và nên không được thờ trong Thế Tổ Miếu. Về điểm này, tác giả luận án sẽ có cách giải thích khác trong nội dung luận án. 14
  17. Về chủ đề "Lễ hội cung đình Huế và vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị để phục vụ nhân dân và phát triển du lịch Huế", tác giả Trần Đức Anh Sơn cũng cung cấp những thông tin một cách hệ thống về các hình thức lễ hội cung đình Huế và những đề xuất giải pháp cho việc phát triển du lịch dựa trên việc tổ chức, phục dựng một số lễ hội cung đình như lễ tế Giao, trình bày tại Hội thảo khoa học do Hội Văn nghệ Dân gian Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 26 tháng 6 năm 2011 tại Huế. Tuy nhiên, tác giả cũng mới chỉ dừng lại ở những khái niệm về “lễ”, về “hội” và những nội dung bàn về hình thức tổ chức phục dựng chứ chưa xem xét các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn trong cái nhìn tổng thể về kiến trúc, hoạt động nghi lễ và những ý nghĩa văn hóa, xã hội liên quan. Trong số ít công trình nghiên cứu cụ thể về văn hóa cung đình Huế, tác phẩm Văn hóa Huế xưa-Đời sống văn hóa cung đình của Lê Nguyễn Lưu năm 2006 là công trình nghiên cứu khá toàn diện về đối tượng mà luận án đề cập với tiểu mục “Đàn miếu” mô tả lịch sử hình thành đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và các miếu thờ hoàng gia triều Nguyễn ở hoàng cung Huế. Tuy nhiên, trong một số lễ tiết cụ thể được nêu làm ví dụ, lễ tế Giao được tác giả liệt vào hàng “Lễ thuộc triều đình” chứ không liệt kê theo cách phân loại của triều Nguyễn như: lễ đại tự, trung tự và quần tự; cũng không mô tả lễ tế Xã Tắc hoặc lễ tế miếu. Ngoài ra, bài viết “Thành phố ngày hội: Lễ Nam Giao” của A.De Rotalier được tác giả đưa vào phần Phụ lục, cung cấp nhiều thông tin mô tả sinh động về một lễ tế Giao vào cuối thời Nguyễn. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là tác giả không ghi rõ bài viết này được trích từ sách nào, dịch từ nguyên bản tiếng Pháp hay tiếng Anh, v..v..nên người đọc không có điều kiện kiểm chứng, và vì vậy ảnh hưởng đến độ tin cậy và tính xác thực của tài liệu. Trong một số luận văn tại trường Đại học Khoa học Huế có các Luận văn Thạc sĩ năm 2003 của các tác giả Đặng Đức Diệu Hạnh về Lễ tế Nam Giao tại Huế dưới triều Nguyễn, Lê Thị An Hòa với đề tài Một số lễ nghi liên quan đến nông nghiệp dưới triều Nguyễn tại kinh đô Huế năm 2003 và gần đây là luận văn của tác giả Huỳnh Thị Anh Vân về Hệ thống miếu thờ vua Nguyễn và nghi lễ tế Miếu tại Huế (1802-1945) năm 2010. Những luận văn này đều đề cập đến các đàn miếu đại tự của triều Nguyễn (Giao, Miếu, Xã Tắc) và nghi thức tế lễ ở những mức độ khác nhau nhưng ở phạm vi hẹp, riêng lẻ từng 15
  18. đối tượng liên quan đến đề tài chứ chưa có cái nhìn tổng thể về các đàn miếu và nghi lễ đại tự triều Nguyễn nói chung cũng như vai trò, ý nghĩa và tác động của chúng về mặt xã hội ở những hoàn cảnh khác nhau trong lịch sử. Về các tài liệu xuất bản ở nước ngoài viết về Việt Nam hoặc đưa ra cách nhìn nhận mối quan hệ giữa nghi lễ, chính trị và quyền lực, trong tác phẩm Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century (Việt Nam và mô hình của Trung Quốc: một nghiên cứu đối sánh về chính quyền Việt Nam và Trung Quốc vào nửa đầu thế kỷ 19, nguyên bản tiếng Anh năm 1971), tác giả Alexander Barton Woodside cho rằng ở Việt Nam, hình thức trung ương tập quyền của tư tưởng “Thiên tử” Trung Quốc được kết hợp với vai trò của thủ lĩnh làng xã trong truyền thống bản địa và vì thế, “Một vị vua Việt Nam thành công, như một thủ lĩnh tối cao của làng xã, có thể yêu cầu thần linh trợ giúp một cách oai phong hơn mà những vị vua Trung Quốc không thể làm được”. Trong luận án của mình, tác giả cũng chứng minh rằng tính chủ động trong việc vận dụng tư tưởng Nho giáo của Trung Quốc dưới thời Nguyễn được thể hiện rõ qua sự hình thành các đàn miếu đại tự ở Huế. Điều này đã làm nên những đặc trưng của triều đại và góp phần khẳng định bản sắc văn hóa cung đình Huế. Tác phẩm Jongmyo Royal Ancestral Shrine-Jongmyo Royal Ancestral Rite (Tông miếu hoàng gia-Nghi lễ tế tông miếu) của The Preservation Society of the Jongmyo Royal Ancestral Rite (Hội Bảo tồn Nghi lễ Tông miếu hoàng gia, Seoul, 2005) là một tài liệu hữu ích khác đối với tác giả luận án ở góc độ đối chiếu trường hợp tương tự ở Hàn Quốc-một nước đồng văn trong khu vực, góp phần hoàn thiện những nhận xét của tác giả luận án sau khi khảo sát thực địa đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc triều Joseon tại Seoul. Việc nghiên cứu những tác phẩm này giúp tác giả có được những nhận xét tổng hợp và khách quan về Việt Nam thời cận đại và so sánh với hình thức tương đồng ở một số nước đồng văn trong khu vực. Đặc biệt, những vấn đề mang tính lý luận trong tác phẩm Ritual, Politics & Power (Nghi lễ, Chính trị & Quyền lực) của David I. Kertzer (nguyên bản tiếng Anh năm 1988, Anh) giúp tác giả luận án củng cố thêm những nhận định của mình trong việc nghiên cứu đề tài luận án. 16
  19. Ngoài những tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài nêu trên, chúng tôi cũng tiếp cận, khai thác một số tài liệu đăng tải trên internet. Có thể nói những tài liệu này hết sức phong phú, đa dạng và mức độ đề cập cũng rất khác nhau. Do đó chúng tôi sẽ phân loại và thẩm định kỹ lưỡng trước khi sử dụng để nghiên cứu đề tài. .1.2 Kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra Trước hết, đó là những vấn đề mang tính lý luận trong việc nhìn nhận, đánh giá dựa trên các dữ liệu tổng hợp thông tin từ các nguồn tư liệu và kết quả nghiên cứu liên ngành về lịch sử, khảo cổ, văn hóa... để đưa ra những luận điểm đảm bảo tính khách quan về bản chất của vấn đề đang được luận án nghiên cứu. Thứ hai, luận án cũng kế thừa được những thông tin đã được các tác giả đi trước tập hợp, kết hợp với những kết quả nghiên cứu tư liệu và điền dã trong quá trình thực hiện đề tài để tổng hợp và so sánh, phân tích, đánh giá toàn diện cả ba loại hình đại tự triều Nguyễn (Giao, miếu, Xã Tắc) dưới sự chi phối chung của hoàn cảnh chính trị-xã hội đương thời và trong mối tương quan với một số loại hình đồng đại ở một số nước đồng văn trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc. Secondly, the dissertation based on the previous researches, combined with the documentation and field surveys to synthesize, analyze and assess comprehensively three ritual national cerenonies (Giao, royal ancestral temples and Xa Tac) under the general socio- political context at the time and in correspondance with the similar forms in China or Korea, etc. Trong số các nghi lễ đại tự thời quân chủ, lễ tế Xã Tắc là hình thức nghi lễ được thực hiện sớm nhất (từ năm 1048, thời Lý) và thời điểm ra đời của đàn Xã Tắc trước đàn Nam Giao cho thấy việc lập đàn Xã Tắc thể hiện mối quan hệ gắn bó thiêng liêng giữa sự sinh tồn của một quốc gia, dân tộc có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Mục đích “bốn mùa cầu đảo cho mùa màng” là mục đích đầu tiên của nghi lễ này, hoàn toàn không vì mục đích chính trị. Tuy nhiên, thông tin về đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc không nhiều, những công trình nghiên cứu sâu về đề tài này, đặc biệt là về đàn Xã Tắc các triều đại trước Nguyễn còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh Việt Nam là một nước nông nghiệp lâu đời, câu hỏi đặt ra là đàn Xã Tắc và lễ tế Xã Tắc trong lịch sử Việt 17
  20. Nam, đặc biệt là trước triều Nguyễn ra sao, hình thức và vai trò của đàn Xã Tắc cùng lễ tế Xã Tắc của các triều đại trước Nguyễn đối với Nhà nước và cư dân nông nghiệp ở Việt Nam buổi đương thời như thế nào? Theo quan điểm của Nho giáo: “Vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ” (Muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở tổ), nên có tác giả đã nhận xét: “Xem thế thì biết rằng người đời xưa lấy việc tế tự làm quan trọng lắm, mà trong sự tế tự của người Tàu có cái đặc sắc là việc thờ cúng tổ tiên”. Điều này liên quan đến việc chứng minh rằng lễ tế miếu có nguồn gốc Nho giáo. Mặt khác, việc thờ cúng tổ tiên cũng luôn được coi là truyền thống văn hóa của người Việt. Vậy người Việt bắt đầu có tục thờ cúng tổ tiên từ khi nào? Cách thức thờ cúng ra sao? Có chứng cứ khảo cổ học nào cho thấy trước khi Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam (tức là khoảng cuối thế kỷ thứ II trở về trước), người Việt cổ có thờ cúng tổ tiên không? Việc tìm được lời giải cho câu hỏi này sẽ góp thêm cơ sở xác đáng để giải thích vì sao việc tế tông miếu hoàng gia triều Nguyễn lại được đặc biệt chú trọng như vậy. Điều này cũng sẽ góp phần chứng minh thêm một biểu hiện đặc trưng khác của triều Nguyễn trong quá trình khẳng định mình trước sự tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng Nho giáo của các triều đại phương Bắc. Chương 2 SỰ HÌNH THÀNH CÁC ĐÀN MIẾU ĐẠI TỰ TRIỀU NGUYỄN Ở HUẾ Nội dung của chương này theo bố cục như sau: 2.1 Khái niệm, nguồn gốc của đàn miếu đại tự và nghi lễ cúng tế 2.2 Cơ sở của việc hình thành các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế 2.2.1 Các đàn miếu đại tự của các triều đại trước triều Nguyễn ở Việt Nam 2.2.2 Bối cảnh ra đời của các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế 2.2.3 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ khi xây dựng đến trước năm 1885 2.2.4 Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế từ năm 1885 đến năm 1945 Tiểu kết chương 2 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2