intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông miền Bắc (1954-1975)

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

133
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông miền Bắc (1954-1975)" tập trung làm rõ quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển giáo dục phổ thông ở miền Bắc Việt Nam của Đảng từ năm 1954 đến năm 1975; nêu đánh giá, nhận xét và rút ra những kinh nghiệm lịch sử về quá trình lãnh đạo của Đảng sự nghiệp giáo dục phổ thông miền Bắc trong thời gian trên. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông miền Bắc (1954-1975)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ PHẠM NGUYÊN PHƯƠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP  GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MIỀN BẮC (1954­1975) Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 03 15 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ   1
  2. Hà Nội, 2016       Công trình đượ c hoàn thành tại:  Trườ ng Đại học Khoa  học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: PGS.NGND. Lê Mậu  Hãn     Giới thiệu 1: ................................................................     Giới thiệu 2: ................................................................ Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp cơ sở chấm  Luận án tiến sỹ, họp tại:…………………………………………… Vào hồi……… giờ….... ngày………. tháng……. năm 2016         2
  3. Có thể tìm hiểu Luận án tại:  ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam  ­ Trung tâm Thông tin ­ Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội. 3
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài  Giáo dục ­ đào tạo là một quá trình liên thông, là sự tiếp nối   liên tục của các bậc học, cấp học từ mầm non, phổ thông cho đến đại   học và sau đại học. Trong hệ thống giáo dục quốc dân Viêt Nam, giáo ̣   dục phổ thông (GDPT) gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ  sở và giáo dục trung học phổ thông. Đây là bậc học có vai trò tiếp nối  bậc học mầm non và mở  đầu cho các bậc học kế  tiếp sau, mang ý  nghĩa là bậc học “bản lề” của toàn bộ quá trình hình thành và phát triển   nhân cách của các lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên. Nghị  quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục (CCGD) năm 1979 đã chỉ  rõ: GDPT là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai   của một dân tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất trọng yếu cho sự  phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ  nghĩa (XHCN).   Với ý nghĩa đó, trong đường lối phát triển giáo dục, Đảng luôn coi  trọng vị trí của GDPT. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo luôn được Đảng   coi là động lực để phát triển đất nước.  Có thể  nói, GDPT là loại hình giáo dục có vị  trí trung tâm,   mang tính nền tảng, quyết định cơ bản đến toàn bộ chất lượng của cả  hệ thống giáo dục quốc dân. Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát   triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, vấn đề đầu tiên, luôn được chú   trọng bao giờ cũng là vấn đề GDPT. GDPT cung cấp những kiến thức  phổ  thông, cơ  bản ban đầu, giúp học sinh có thể  tiếp tục học nghề,   học lên cao hoặc tìm hướng đi riêng trong cuộc sống để tự lập nghiệp  và cống hiến cho xã hội. Chất lượng của GDPT do vậy trước tiên ảnh   hưởng rất lớn tới chất lượng giáo dục dạy nghề và đại học, hơn thế  nó còn là nguồn gốc góp phần quan trọng quyết định chất lượng của   nguồn lực lao động từng nước.  Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, tầm quan trọng của GDPT  luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức. Đã có nhiều chủ  trương, chính sánh cải cách GDPT lớn được Đảng hoạch định và Nhà   nước tổ chức thực hiện nhằm đổi mới, hoàn thiện loại hình giáo dục   này, phục vụ cho công cuộc bảo vệ và phát triển Việt Nam.  4
  5. Thời kỳ 1954­1975, cách mạng Việt Nam thực hiện hai nhiệm   vụ chiến lược: miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn   cách mạng XHCN, tạo lập cơ sở cho cách mạng cả nước; miền Nam   tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đuổi đế quốc   Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Theo đó,  đổi mới và phát triển GDPT, đặc biệt là ở miền Bắc để góp phần thực  hiện hai nhiệm vụ chiến lược nêu trên được Đảng sát sao chỉ đạo.  Sự lãnh đạo của Đảng về GDPT ở miền Bắc có thể chia làm hai   giai đoạn: giai đoạn thứ nhất từ ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng   đến hết kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1954­1964); giai đoạn  thứ  hai, miền Bắc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của Mỹ  đến ngày thống nhất đất nước (1965­1975). Sự lãnh đạo của Đảng thể  hiện tập trung nhất qua hàng loạt các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn  quốc (ĐHĐBTQ)  lần thứ  II  (ĐHĐBTQ)  của   Đảng (năm  1951)  và  ĐHĐBTQ lần thứ III (năm 1960), chỉ thị 61­CT/TW về công tác giáo  dục trong 3 năm 1968­1970 với trọng tâm “nâng cao chất lượng giáo   dục” của Ban Bí thư Trung ương Đảng… và đã được thể chế hóa và tổ  chức thực hiện qua 2 cuộc CCGD năm 1956 và năm 1979. Những chủ  trương mà Đảng đề  ra về  phát triển GDPT  ở  miền  Bắc, cùng với sự chỉ đạo tổ chức thực hiện trực tiếp của Đảng, GDPT   ở miền Bắc thời kỳ 1954­1975 đã đạt được những thành tựu đáng kể:  sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, có thể khẳng định, Việt Nam từ một   dân tộc với 95% dân số mù chữ đã trở thành một dân tộc có một nền   học vấn nhất định. Ở giai đoạn 1965­1975, dù chiến tranh rất ác liệt  nhưng GDPT ở miền Bắc vẫn được duy trì và có những chuyển biến   lớn phù hợp được với sự biến đổi của tình hình thực tế. Điều đặc biệt nổi bật trong GDPT thời kỳ 1954­1975, đó là:  Đảng đã lựa chọn và chỉ đạo xây dựng một mô hình giáo dục phù hợp  với hoàn cảnh và yêu cầu của cách mạng, xã hội Việt Nam  thời kỳ này  ­ mô hình giáo dục XHCN với mục tiêu giáo dục toàn diện, gắn giáo  dục với lao động sản xuất, một mô hình giáo dục đại chúng, đề  cao   tính chính trị trong nhà trường phổ thông, gắn giáo dục với việc thực   hiện các nhiệm vụ  cách mạng. Mô hình giáo dục XHCN, trong quá  5
  6. trình nhận thức, quản lý và tổ chức thực hiện, đôi khi đã không tránh   khỏi tính cứng nhắc, giáo điều, tính duy ý chí, nhưng nếu gắn nó với  bối cảnh cách mạng và đặc điểm GDPT miền Bắc,  thời kỳ 1954­1975,  thì mô hình và cách thức giáo dục XHCN này đã giúp cho cách mạng   Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, vì nó đã tạo ra cho xã   hội, cho đất nước, một đội ngũ hùng hậu chưa từng có những nhà giáo,  những lớp học sinh, sinh viên yêu nước, yêu CNXH, sẵn sàng lên  đường, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, sẵn sàng xả thân và  hy sinh cho sự nghiệp giáo dục cách mạng, sự nghiệp thống nhất đất  nước.   Bên cạnh những thành công không thể phủ  nhận, GDPT thời kỳ  1954­1975 ở miền Bắc vẫn có những hạn chế lớn như: chưa thực sự  đảm bảo được công tác giáo dục tư tưởng, phát triển giáo dục quá với   khả  năng kinh tế, không phù hợp với tình hình xã hội,  ở  nhiều địa  phương, vì không được hướng dẫn cụ thể, trường lớp mở ồ ạt, số học   sinh, giáo viên phổ thông tăng nhanh nhưng chất lượng đào tạo không  theo kịp với yêu cầu phát triển; việc kết hợp lý thuyết với thực tiễn nội   dung giảng dạy còn yếu, nặng về  đào tạo sách vở, trật tự  kỷ  luật   trường học chưa cao… Những thành tựu và hạn chế  này của GDPT thời kỳ  1954­1975   dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tác động không chỉ đến nền giáo dục   cũng như công cuộc kiến thiết đất nước giai đoạn đó, mà đến nay vẫn   còn nguyên các giá trị đương đại, khi mà nhiệm vụ đổi mới, phát triển   nền giáo dục Việt Nam đang được Đảng và Nhà nước đặt ra cấp bách  hơn lúc nào hết. Những thành tựu mà nền giáo dục Việt Nam hiện đại nói chung,   nền GDPT nói riêng đạt được đã nhiều hơn, đa dạng hơn so với các  thành tựu ở giai đoạn 1945­1954, nhưng nhìn tổng thể, các hạn chế cơ  bản của nền giáo dục Việt Nam hiện nay so với giai đoạn đó thì không  hẳn đã thuyên giảm mà còn có nguy cơ tăng cao, phức tạp hơn dù yếu   tố thời đại, yếu tố nhận thức, cơ chế, điều kiện thực hiện đã khác xa  nhau. Có thể thấy, những hạn chế cơ bản về GDPT ở Việt Nam hiện   nay như: chương trình học nặng về lý thuyết, chưa cơ bản, kiến thức  6
  7. nhiều, yêu cầu quá cao đối với người học, chưa coi trọng giáo dục kỹ  năng, chưa thể hiện được sự tích hợp kiến thức trong xây dựng chương  trình; tình trạng dạy và học thêm tràn lan, năng lực của giáo viên còn  nhiều bất cập, phương pháp giảng dạy chưa theo kịp với đòi hỏi của  thời đại, bệnh thành tích, hình thức còn ăn sâu trong nhiều lĩnh vực của   GDPT, thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa nhà trường phổ thông, gia đình   và xã hội…  Qua đó, vấn đề đặt ra là, tại sao trong thời kỳ còn nhiều gian khổ  như  ở  miền Bắc (1954­1975), GDPT vẫn đạt được những thành tựu  lớn trong việc hoàn thành vai trò đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước,   và tại sao trong giai đoạn hiện tại, khi mà nền kinh tế, các điều kiện hỗ  trợ  cho GDPT đã tăng lên gấp bội lần, thì GDPT hiện nay của Việt   Nam so với thời kỳ 1954­1975 vẫn có những hạn chế tương tự, và còn  có thêm những hạn chế với mức độ nghiêm trọng hơn đến như vậy? Những hạn chế này trước sự đổi mới và phát triển đất nước, nhất   là trước sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hội nhập, xây dựng  nhà nước pháp quyền đã làm cho hệ  thống giáo dục của Việt Nam  không đáp ứng kịp với nhu cầu của xã hội, vị thế của GDPT trong hệ  thống giáo dục quốc dân bị   ảnh hưởng nhiều. Bản thân Đảng, Nhà  nước, hệ thống GDPT, các cấp học phổ thông đều đang hết sức lúng  túng trong việc chuyển đổi để thích nghi với hoàn cảnh lịch sử mới của   dân tộc và thời đại. Có thể thấy, điểm bất cập nhất của GDPT hiện   nay là sự lúng túng trong xác định rõ mục tiêu đào tạo, từ đó kéo theo sự  lúng túng về xác định nội dung, thời lượng dạy học, tổ chức quản lý  dạy và học… Do đó, hơn lúc nào hết, việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo   dục, đào tạo nước ta đang đặt ra yêu cầu cấp thiết. Văn kiện  Đại hội  Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là  quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt   Nam … Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy  và học  ở  tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị  để  từ  sau năm   2015 thực hiện chương trnh GDPT m ́ ới ”. Như vậy, vấn đề  cải cách  GDPT lại một lần nữa được Đảng và Nhà nước quyết định.  Cụ thể,  7
  8. thực hiện kết luận của Bộ Chính trị tại thông báo số 242­TB/TW ngày  15/4/2009, và các văn kiện quan trong khác của Đảng, Bộ Giáo dục và  Đào tạo và các ban ngành liên quan đã đang triển khai nghiên cứu, xây  dựng chương trình GDPT mới, thực hiện sau 2015, trên cơ  sở  tham   khảo kinh nghiệm của các nước tiên tiến như Phần Lan, Thụy Điển.  Chương trình GDPT mới dự kiến sẽ được xây dựng theo hướng đẩy  mạnh giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục đạo đức, kĩ năng sống,   pháp luật và hướng nghiệp, tích hợp ở những lớp dưới, phân hóa mạnh  ở những lớp trên, tạo ra nhiều sự lựa chọn cho người học, đáp ứng yêu   cầu của xã hội hiện đại. Để thực hiện được đúng mục tiêu cải cách  này, phải chuẩn bị rất nhiều điều kiện và hơn cả là cần sự chung tay   của Nhà nước, xã hội, của bản thân mỗi người và không thể  thiếu   được là sự lãnh đạo sát sao của Đảng.  GDPT Việt Nam đã trải qua ba cuộc cải cách lớn (lần 1 ­ năm   1950, lần 2 ­ năm 1956 và lần 3 ­ năm 1979) với những đặc thù, thành  tựu và hạn chế nhất định. Hiện nay, chúng ta đang gấp rút chuẩn bị các   điều kiện cho cuộc cải cách GDPT tiếp theo từ  mọi phương diện:   chương trình, sách giáo khoa, chất lượng dạy và học cho đến cách thức,  thời gian đào tạo. Do đó, tất cả các công đoạn phục vụ cho việc cải   cách GDPT cần phải được nhận thức toàn diện, chủ động. Việc nhìn   lại những cuộc CCGD trong lịch sử, nhìn lại những chặng đường của   GDPT Việt Nam, cụ thể hơn là GDPT ở miền Bắc trong thời kỳ 1954­ 1975 để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về sự lãnh đạo của  Đảng, về thực tiễn thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, để phân tích đúng  nguyên nhân, bối cảnh lịch sử của những thành tựu và hạn chế  mà  GDPT giai đoạn đó đã đạt được nhằm góp phần thực hiện thắng lợi   công cuộc đổi mới và cải cách GDPT hiện nay là một việc làm cần  thiết.  Bên cạnh đó, ở góc độ nghiên cứu, có thể thấy, các công bố liên   quan đến giáo dục, GDPT cho đến nay đã khá phong phú, nhưng những  nghiên cứu về  sự  lãnh đạo của Đảng đối với công tác này còn khá   khiêm tốn thậm chí chưa có công trình nào nghiên cứu độc lập về quá  trình lãnh đạo phát triển GDPT của Đảng qua mỗi giai đoạn. Thực tiễn   8
  9. này đã gây nên những thiếu hụt nhất định về cơ sở lý luận cho việc tìm  hiểu, đánh giá đối với công tác tác lãnh đạo phát triển GDPT của Đảng. Với các lý do trên, việc lựa chọn đề  tài   “Đảng lãnh đạo sự   nghiệp giáo dục phổ thông miền Bắc (1954­1975)" để làm Luận án  tiến sỹ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt   Nam là đề tài có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn.  2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ­  Mục đích: Luận án tập trung làm rõ quá trình lãnh đạo xây dựng,  phát triển GDPT ở miền Bắc Việt Nam của Đảng từ năm 1954 đến   năm 1975; nêu đánh giá, nhận xét và rút ra những kinh nghiệm lịch sử  về quá trình lãnh đạo của Đảng sự nghiệp GDPT miền Bắc trong thời  gian trên. ­ Nhiệm vụ: Phân tích bối cảnh lịch sử cùng các yếu tố tác động, chi phối đến  sự lãnh đạo phát triển GDPT ở miền Bắc Việt Nam của Đảng những   năm 1954­1975; Trình bày hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng   và phát triển GDPT ở miền Bắc Việt Nam những năm 1954­1975; Làm rõ quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng và phát triển  GDPT ở miền Bắc Việt Nam qua 2 giai đoạn nghiên cứu: 1954­1964;  1965­1975.  Nhận xét về   ưu điểm, hạn chế, phân tích nguyên nhân của  những  ưu điểm, hạn chế trong công tác lãnh đạo phát triển GDPT  ở  miền Bắc Việt Nam của Đảng; đồng thời rút ra một số kinh nghiệm   lịch sử từ quá trình lãnh đạo nói trên. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ­ Đối tượng: Luận án nghiên cứu các quan điểm, chủ trương,  đường lối và quá trình chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp GDPT ở  miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975. ­ Phạm vi:  + Về thời gian: luận án giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu từ  tháng 7­1954 khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc Việt Nam đến hết   tháng 4­1975 khi đất nước thống nhất. 9
  10. + Về không gian: luận án tập trung nghiên cứu vấn đề Đảng lãnh  đạo GDPT ở miền Bắc Việt Nam – vùng lãnh thổ do Chính phủ nước  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát, từ Bắc vĩ tuyến 17 ­ với ranh  giới tự  nhiên là sông Bến Hải – Quảng Trị, gồm hơn 30 tỉnh, thành  phố: bao gồm các tỉnh miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng và  một số tỉnh Bắc Trung Bộ. + Về nội dung: luận án nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trong  phát triển bậc học GDPT trên cả 3 cấp I, II và III ở miền Bắc (các nội  dung của giáo dục bình dân học vụ và bổ túc văn hóa không nằm trong   phạm vi nghiên cứu của luận án), trong khoảng thời gian 20 năm từ  1954­1975, trên các khía cạnh chỉ đạo cụ thể như sau: chỉ đạo xây dựng  mô hình, tổ chức, chính sách pháp luật; chỉ  đạo chuyển hướng nhận   thức; chỉ đạo chuẩn bị các nguồn lực và chỉ đạo công tác dạy và học. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ­ Cơ sở lý luận Để nghiên cứu đề tài này, luận án dựa trên cơ sở lý luận duy vật  biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác­Lênin và Tư tưởng  Hồ  Chí Minh cùng quan điểm của Đảng và Nhà nước về  giáo dục,  GDPT. Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu của luận án thuộc chuyên ngành   Lịch sử Đảng, luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng   và duy vật lịch sử để làm rõ nội dung và các yếu tố tác động tới quá   trình hình thành tư duy và sự  lãnh đạo triển GDPT  ở  miền Bắc của  Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954­1975). ­ Nguồn tư liệu Để thực hiện luận án, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu cơ bản  sau: + Văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các văn  bản của Bộ Giáo dục những năm 1954­1975 về giáo dục, GDPT; các   báo cáo tổng kết, tài liệu của Ty Giáo dục các tỉnh miền Bắc (sau này  đổi là Sở Giáo dục), của các cơ quan liên quan đến giáo dục và đào tạo  những năm 1954­1975 ở miền Bắc Việt Nam... Các tài liệu này phần   10
  11. lớn được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (Phông Phủ Thủ  tướng, Phông Bộ Giáo dục...) ­ đây là nguồn tư liệu quan trọng nhất. + Văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt   Nam đề cập đến vấn đề giáo dục, GDPT từ năm 1954 đến năm 1975. + Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê từ năm 1954 đến   năm 1975. + Các nghiên cứu, bài viết đã công bố có nội dung liên quan đến đề  tài. ­ Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: luận án thuộc chuyên  ngành Lịch sử Đảng, nên đây là hai phương pháp chủ yếu mà luận án  sử dụng. Vấn đề  Đảng lãnh đạo phát triển GDPT  ở  miền Bắc Việt   Nam trong 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một quá trình  có sự  gắn kết hữu cơ  và có sự  kết hợp với quá trình lãnh đạo giải   quyết các vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế... quan trọng khác, nên luận   án sử dụng phương pháp tiếp cận vấn đề theo trục thời gian (từ khi kết   thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (tháng 7­1954) đến kết  thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954­1975)); tiếp cận   theo hệ thống nhằm có cái nhìn so sánh động trong các vấn đề đó để  khắc phục cách nhìn một chiều, phiến diện, riêng rẽ về GDPT.  Việc thu thập thông tin về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn   đề, nghiên cứu khảo sát về các công trình nghiên cứu trước đây, đặc   biệt là nghiên cứu các tài liệu của Đảng được tác giả luận án rất quan  tâm, nhằm thấy rõ hơn những quan điểm về phát triển GDPT, các số  liệu về GDPT ở miền Bắc Việt Nam… Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử  dụng trong toàn bộ  quá trình thực hiện luận án nhằm phân tích và tổng hợp thành những   kết luận về quá trình xây dựng, phát triển giáo dục – đào tạo của Đảng  nói chung và vận dụng để phân tích, đánh giá thực trạng phát triển của   GDPT ở miền Bắc Việt Nam nói riêng. Trong quá trình phân tích, việc   kết hợp giữa phương pháp phân tích định tính và phương pháp phân tích  định lượng đã giúp làm sáng tỏ  những vấn đề  lý luận, thực tiễn và  những vấn đề đang đặt ra nhằm phát triển tốt hơn GDPT của Đảng. 11
  12. Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng trong luận án để hỗ  trợ cho việc đánh giá chủ trương, quan điểm, biện pháp và quá trình chỉ  đạo phát triển GDPT của Đảng so với những chủ trương, quan điểm  và biện pháp phát triển các cấp bậc học khác ở Việt Nam, cũng như so   sánh để thấy những đóng góp, tầm quan trọng của bậc học phổ thông  này trong sự phát triển chung của nền giáo dục quốc dân...Ngoài ra, tác   giả  cũng áp dụng một số phương pháp khác để  hoàn thành luận án:   thống kê, lượng hóa. 5. Đóng góp của luận án ­ Đóng góp về nội dung: Luận án chỉ  rõ các yếu tố  tác động đến quá trình lãnh đạo phát  triển GDPT ở miền Bắc của Đảng (1954­1975), như: bối cảnh lịch sử;   điều kiện kinh tế, xã hội; thực trạng của GDPT trước năm 1954. Luận án trình bày một cách hệ  thống quan điểm, chủ  trương,   đường lối của Đảng trong phát triển GDPT ở miền Bắc (1954­1975)   đồng thời mô tả, làm rõ quá trình chỉ đạo thực hiện trên thực tiễn qua  hai giai đoạn nghiên cứu: 1954­1964 và 1965­1975. Luận án đưa ra những so sánh và luận giải sự khác biệt trong  việc đề ra đường lối chủ trương, sự chuyển hướng trong chỉ đạo của  Đảng về  phát triển GDPT  ở  miền Bắc qua 2 giai đoạn nghiên cứu   (1954­1964, 1965­1975) của thời kỳ 1954­1975 và so sánh thời kỳ 1954­ 1975 với thời kỳ trước đó. Luận án nhận xét, đánh giá về  những  ưu  điểm cũng như  những hạn chế của Đảng trong các chủ trương, chính sách, trong việc   nhận thức, chỉ  đạo sự  nghiệp GDPT  ở  miền Bắc (1954­1975) cũng  như đối với toàn bộ công cuộc đổi mới giáo dục, công cuộc xây dựng  nước nhà. Luận án rút ra một số kinh nghiệm lịch sử từ quá trình lãnh đạo  của Đảng trong phát triển GDPT  ở miền Bắc (1954­1975) góp phần  phục vụ sự nghiệp xây dựng và đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt   Nam hiện nay.  12
  13. ­ Đóng góp về tư liệu: Đã hệ thống hóa tư liệu phong phú về chủ trương, chính sách  của Đảng và Nhà nước về công tác GDPT nói chung và GDPT ở miền   Bắc (1954­1975) nói riêng; khai thác và tập hợp các hoạt động của  GDPT từ 1954­1975. Danh mục các tài liệu tham khảo của luận án là tập hợp những   công trình nghiên cứu tiêu biểu của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu  về vấn đề mà luận án đề cập. Đây là một nguồn tư liệu quý đối với   việc tìm hiểu cũng như nắm bắt tình hình nghiên cứu của các vấn đề  liên quan.  6. Bố cục của luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,   Phụ lục, nội dung Luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài  luận án Chương 2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng  và phát triển GDPT ở miền Bắc (1954­1964) Chương 3. Đảng lãnh đạo phát triển GDPT ở miền Bắc (1965­ 1975) Chương 4. Nhận xét và kinh nghiệm Chương 1 13
  14. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án 1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến GDPT ở Việt   Nam thời kỳ 1954­1975 1.1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vai   trò lãnh đạo của Đảng đối với GDPT Việt Nam thời kỳ 1954­1975  Trên tinh thần đề tài của luận án và qua việc nghiên cứu các  công trình đã công bố liên quan, có thể chia các nghiên cứu thành hai   nhóm cơ bản có liên quan gần đến các vấn đề của luận án như trên.   Song, cách phân chia này chỉ mang tính tương đối, bởi, bản thân các vấn  đề mà hai nhóm công trình trên đề cập có một sự kết nối nhất định với  nhau, nghiên cứu GDPT để thấy quan điểm, vai trò lãnh đạo của Đảng   và ngược lại, nghiên cứu quan điểm, cách thức chỉ đạo của Đảng để  thấy tiến trình phát triển của GDPT. Nhóm vấn đề nghiên cứu này đã   làm phương tiện hoặc mục đích cho nghiên cứu vấn đề  kia, hoặc  ngược lại.  1.2.  Những vấn đề  luận án có thể  kế  thừa và tập trung  giải quyết 1.2.1. Những vấn đề luận án có thể kế thừa từ các nhóm  nghiên cứu trên Thông qua việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, tạm chia nhóm  và khảo cứu cụ thể, có thể thấy các nhóm công trình nghiên cứu kể trên  có đóng góp trên 3 phương diện mà luận án có thể kế thừa: ­ Về nội dung: từ những nghiên cứu đó, có thể nhìn thấy bức tranh  tổng quan sinh động, phong phú về GDPT trên nhiều mặt: luận giải ít   nhiều về  đặc điểm, sự  phát triển của GDPT  ở  miền Bắc giai đoạn  1954­1975, nhiều nhất là những dẫn chứng về thành tựu, hạn chế của   công tác GDPT ở miền Bắc qua các giai đoạn nhất định; và một phần  nhỏ   ở  góc độ  các chủ  trương, chính sách, sự  lãnh đạo của Đảng về  phát triển giáo dục nói chung... 14
  15. ­  Về  tư  liệu: các nhà nghiên cứu đi trước đã khai thác một khối   lượng tư liệu khá lớn để hoàn thành các công trình của họ. Danh mục   tài liệu tham khảo của các công trình đó là những gợi ý tìm kiếm tư  liệu rất tốt cho tác giả  khi thực hiện luận án. Bản thân những công  trình đó cũng chính là những tư liệu quý để tác giả có thêm thông tin khi   thực hiện đề tài của mình. ­ Về  phương pháp nghiên cứu: các nhà khoa học, các nhà nghiên  cứu chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống của khoa học lịch sử  là phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra, trong thời gian gần đây, các  nhà nghiên cứu đã tiếp cận những xu hướng, phương pháp nghiên cứu   mới như phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp phỏng vấn,  phương pháp chuyên gia... đây cũng là sự gợi mở hữu ích cho tác giả  luận án này. 1.2.2. Những vấn luận án tập trung giải quyết ­ Một là, nghiên cứu chỉ rõ các yếu tố khách quan và chủ quan tác   động đến quá trình hoạch định chủ  trương, đường lối của Đảng về  GDPT ở miền Bắc thời kỳ 1954­1975, nói cách khác là phân tích những   căn cứ làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối đó. ­ Hai là, hệ thống hóa, phân tích quan điểm, chủ trương, đường lối  của Đảng về GDPT ở miền Bắc thời kỳ 1954­1975, được chia thành  hai giai đoạn theo phân kỳ lịch sử: 1954­1964 và 1965­1975, trong đó đi   sâu vào sự lãnh đạo tiến hành cuộc cải cách giáo dục năm 1956 và quá  trình lãnh đạo chuyển hướng giáo dục năm 1965 ­ là hai mốc thời gian  mà Đảng có những quyết sách lớn, kịp thời để củng cố và duy trì sự  nghiệp GDPT ở miền Bắc đi hết chặng đường vinh quang của nó. ­ Ba là, làm rõ quá trình chỉ đạo của Đảng về phát triển GDPT ở  miền Bắc  ở  các nội dung: chỉ  đạo xây dựng mô hình, tổ  chức, xây  dựng chính sách pháp luật; chỉ đạo xây dựng và phát triển các nguồn  lực; và chỉ đạo công tác dạy và học. Đáng lưu ý là luận án sẽ làm rõ sự  khác biệt trong quá trình chỉ đạo thực hiện chủ trương của Đảng qua   từng giai đoạn và phục dựng lại bức tranh phát triển của GDPT qua 2  giai đoạn đó.  ­ Bốn là, nhận xét, đánh giá về ưu điểm và hạn chế trong sự lãnh   15
  16. đạo của Đảng đối với GDPT  ở  miền Bắc thời kỳ 1954­1975, chỉ ra   nguyên nhân của các ưu, nhược điểm đó.   ­ Năm là, rút ra một số kinh nghiệm lịch sử về sự lãnh đạo của   Đảng đối với GDPT ở miền Bắc thời kỳ 1954­1975 để luận giải thêm   cho những thành công của GDPT thời kỳ đó, cũng như góp phần nâng  cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với GDPT trong bối cảnh hiện  nay. Tiểu kết chương 1 Những công trình nghiên cứu khoa học đã công bố có liên quan đến  đề tài đề cập đến nhiều nội dung, khía cạnh... song, đều được diễn đạt   một cách cẩn trọng, chính thống, với một khối lượng kiến thức đa  dạng, đa phong cách. Đứng ở góc độ phạm vi và mục tiêu nghiên cứu,   các công trình trên đã giải quyết được về cơ bản những vấn đề thuộc  yêu cầu, nội dung cũng như đối tượng nghiên cứu mà mỗi công trình  phải giải quyết. Các công trình đó cũng đều đã có những đóng góp nhất   định trong quá trình làm sáng tỏ các khía cạnh cụ thể của vấn đề GDPT  ở Việt Nam. Đây chính là nguồn tài liệu quý giá, tạo ra một trường liên  tưởng, một sự đối chiếu, so sánh, một âm hưởng những phong vị diễn  đạt... đem lại nhiều thuận lợi cho quá trình nghiên cứu đề tài luận án   “Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông miền Bắc (1954­1975)”   của bản thân tôi, trên 3 phương diện: về nội dung; về tư liệu và về  phương pháp nghiên cứu. Đề  tài “Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông miền Bắc   (1954­1975)” là một đề tài có đối tượng, phạm vi, yêu cầu và mục tiêu   nghiên cứu riêng, không trùng lặp về đề tài với một công trình nào đã  được công bố. Luận án sẽ phải diễn giải thỏa đáng các yêu cầu, mục   tiêu của bản thân đề tài đặt ra, và góp một tiếng nói nghiên cứu khoa   học về sự nghiệp GDPT ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954­1975 với   góc độ làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp này. 16
  17. Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG,  PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG  Ở MIỀN BẮC (1954­1964) 2.1. Các yếu tố tác động và chủ trương của Đảng (1954­1964) 2.1.1. Các yếu tố tác động và yêu cầu đặt ra đối với sự  lãnh   đạo của Đảng về giáo dục phổ thông miền Bắc Tác giả trình bày các yếu tố tác động: bối cảnh lịch sử, tình hình  kinh tế ­ xã hội miền Bắc; tình hình giáo dục phổ thông ở Việt Nam   trước năm 1954; một số yếu tố tác động khác Yêu cầu đặt ra với sự lănh đạo của Đảng về GDPT miền Bắc sau  năm 1954 2.1.2. Chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục phổ thông   ở miền Bắc (1954­1964) Mục tiêu  là xây dựng một hệ  thống GDPT thống nhất trên toàn  miền Bắc, nhằm thoát ly mô hình, tính chất giáo dục nô dịch của thực   dân Pháp để lại, giải quyết nhu cầu học tập của nhân dân,  bồi dưỡng  thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà, có giác ngộ  XHCN.  Về  phương châm,  GDPT miền Bắc là sự  nghiệp của toàn  Đảng, Nhà nước và Nhân Dân, trên tinh thần Đảng hoạch định chủ  trương, chỉ đạo, giám sát, Nhà nước cấp kinh phí và tổ chức thực hiện,  Nhân dân giám sát và trực tiếp gánh vác, tham gia, đóng góp công sức,   vật chất trong công tác phát triển GDPT. 2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện 2.2.1. Chỉ đạo về xây dựng mô hình, tổ  chức, hoàn thiện   chính sách pháp luật về giáo dục phổ thông Mô hình GDPT mà Đảng, Nhà nước định hướng là mô hình  giáo dục XHCN, một nền giáo dục đại chúng, người học được giáo   17
  18. dục toàn diện, học tập gắn liền với lao động, lý thuyết gắn với thực   tiễn.  Đảng chú trọng chỉ đạo về  tổ chức và hoàn thiện các chính  sách pháp luật về GDPT, làm cơ sở pháp lý cho công tác này. 2.2.2. Đảng chỉ  đạo xây dựng, đẩy mạnh các nguồn lực   cho phát triển giáo dục phổ thông Các chỉ  đạo của Đảng tập trung vào các vấn đề  như: huy  động kinh phí, cơ  sở  vật chất;  xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ  quản lý; xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên; phát triển quy mô giáo   dục phổ thông; phát triển GDPT ở miền núi; chỉ đạo về cải cách giáo  dục; vấn đề hợp tắc quốc tế về giáo dục với các nước trong hệ thống  XHCN. 2.2.3. Chỉ đạo công tác dạy và học  Đảng đã có những chỉ đạo về phương hướng, mục tiêu cũng  như phương pháp, hình thức giảng dạy và học tập của giáo viên, học   sinh; công tác dạy và học ở miền núi, công tác dạy và học với học sinh  miền Nam Quá trình chỉ đạo phát triển GDPT giai đoạn 1954­1964 của  Đảng đã thu được những kết quả ở nhiều mặt như:  Chất lượng giáo dục ngày càng được cải thiện rõ: việc giảng   dạy và học tập đã dần dần gắn liền với đời sống và sản xuất, có tác  dụng tốt đối với sản xuất công nông nghiệp. GDPT ở từng vùng cũng đều có những chuyển biến tích cực.  Ở vùng đồng bằng và trung du, GDPT phát triển với tốc độ khá nhanh,   khoảng 75% các em học sinh từ 6­15 tuổi đi học các lớp vỡ lòng và  phổ thông (tăng hơn 4 lần so với năm 1955). Tính trung bình, mỗi xã có   1 trường cấp I, 2 xã có 1 trường cấp II, 2 huyện có 1 trường cấp III.   Trường học ngày càng gắn liền với đời sống và sản xuất, tích cực  tham gia phổ biến kiến thức nông nghiệp và cải thiện đời sống ở nông   thôn. Ở  miền núi, công tác GDPT được chú trọng đẩy mạnh hơn  trước. Số trường lớp phổ thông được xây dựng ngày càng nhiều. Tỉnh  nào cũng có 2,3 trường cấp III; từ 5­6 xã có 1 trường cấp II, và trung  18
  19. bình cứ 1000 dân có 1 trường cấp I. Tác dụng của các trường học phổ  thông đối với miền núi đối với toàn bộ việc cải thiện đời sống nông   thôn miền núi ngày càng tỏ ra đắc lực, từ việc giải thích chính sách,  pháp luật của Đảng, Nhà nước từ việc tuyên truyền nếp sống mới cho  đến quản lý sản xuất, cải tiến kỹ thuật...Công tác GDPT ở miền núi  cùng gắn kết với thực hiện chính sách dân tộc đối với học sinh có  nhiều chuyển biến tốt. Tác dụng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế,   văn hóa đối với miền núi của giáo dục ngày càng thể hiện rõ ràng. Miền ven biển cũng có nhiều chuyển biến tốt về GDPT. Phần  lớn dân cư là đồng bào công giáo, trình độ còn hạn chế. Các lớp phổ  thông ngày càng thu hút được đông đảo con em giáo dân đi học, nhiều   trường học xây dựng một cách toàn diện đã trở thành trường tiên tiến  của ngành, ví dụ trường cấp I Hải Nhân (Tĩnh Gia, Thanh Hóa), Diễn   Hoàng (Diễn Châu, Nghệ An). Một vài tỉnh đã mở thí điểm các loại   trường phổ thông có học nghề muối, nghề cá cho các em lớn tuổi... Ở  khu công nghiệp, thị trấn: Là nơi GDPT có sự  phát triển   mạnh nhất, nhanh nhất và đều nhất. Tất cả trẻ em độ tuổi vỡ lòng và   cấp I ở các khu phố đều được phổ cập vỡ lòng và cấp I; phần lớn các  em còn tuổi đi học đều được học cấp II (80%) và khoảng 68% các em   đã đỗ cấp II, còn tuổi học lên cấp III. Tại Hà Nội, Hải Phòng, Nam  Định có trường phổ  thông công nghiệp. Những trường này mới xây   dựng nhưng đã thu được kết quả tốt, được học sinh và cha mẹ hoan  nghênh. Việc giáo dục ý thức phục vụ sản xuất, phục vụ tổ quốc có   nhiều tiến bộ, thời gian gần đây, sau khi năm học kết thúc tại Hà Nội  đã có hàng ngàn học sinh lớp 7, 10 ghi tên xung phong tình nguyện lên   phục vụ ở các nông lâm trường thuộc Việt Bắc, Tây Bắc, ở các thành  phố khác cũng có nhiều học sinh lên tham gia sản xuất ở miền núi... Về  cơ  bản, trong giai đoạn này, nhà trường phổ  thông đã là  nơi dự trữ một lực lượng thanh niên rất lớn, 1 lớp người đã có trình độ  văn hóa, được giác ngộ xã hội chủ nghĩa, được giáo dục một cách toàn   diện để chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất công, nông nghiệp và bảo   vệ tổ quốc. Tác dụng của nhà trường ngày càng rộng rãi và rõ ràng. 19
  20. Tiểu kết Chương 2  Chủ  trương và chỉ  đạo của Đảng về  GDPT giai đoạn 1954­ 1964 đã thu được những thành quả  đáng khích lệ, như  sự  phát triển   chưa từng có về quy mô giáo dục, số lượng học sinh và giáo viên có sự  phát triển mạnh mẽ... Tuy vậy, vẫn còn có tâm lý không muốn lao  động sản xuất, muốn đi học cao hơn để ra công tác, thoát ly lao động  chân tay từ cả phụ huynh và học sinh. Thành quả và hạn chế này là nền   tảng nhưng cũng là bài học để Đảng nâng cao hiệu quả chỉ đạo GDPT   ở giai đoạn sau. Chương 3 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN  SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở MIỀN BẮC (1965­1975) 3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương mới của Đảng  3.1.1. Bối cảnh lịch sử và yêu cầu mới đặt ra Trước bối cảnh đế  quốc Mỹ  ném bom phá hoại miền Bắc,   tình hình cách mạng, mối quan hệ  giữa một số  nước lớn trong hệ  thống XHCN có nhiều biến động, và trước những bất cập của GDPT   giai đoạn trước, Đảng đã có những thay đổi trong chủ trương đối với   sự nghiệp GDPT ở miền Bắc nhằm đáp ứng các yêu cầu và bối cảnh   cách mạng mới. 3.1.2. Chủ trương của Đảng  Đảng đã chủ trương phải chuyển hướng cách mạng, chuyển  hướng tất cả các hoạt động, trong đó có GDPT. GDPT phải được đảm   bảo không bị gián đoạn, và vẫn có thể phát triển, GDPT phải đào tạo  được những lớp người sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của dân tộc,  trở thành một bộ phận, động lực để đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất   đất nước. 3.2.  Quá trình chỉ đạo thực hiện (1965­1975) 3.2.1. Chỉ đạo chuyển hướng nhận thức, xây dựng mô  hình, tổ chức, chính sách pháp luật về giáo dục phổ thông  Chuyển   hướng   nhận  thức   tình   hình  cách   mạng,   tình  hình  GDPT là điểm Đảng quan tâm chỉ đạo. Bên cạnh đó là việc xây dựng  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2