Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh ở Việt Nam từ năm 1922 đến năm 1943
lượt xem 3
download
Trên cơ sở tiếp cận các nguồn tư liệu, luận án "Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh ở Việt Nam từ năm 1922 đến năm 1943" tập trung nghiên cứu về những hoạt động yêu nước và cách mạng tiêu biểu của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến năm 1943. Từ đó đưa ra những nhận xét, làm rõ đóng góp, vai trò của ông trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh ở Việt Nam từ năm 1922 đến năm 1943
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN VĂN GIA THỤY HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN AN NINH Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1922 ĐẾN NĂM 1943 CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 9229013 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGHỆ AN - 2022
- Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Vinh Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Trần Vũ Tài 2. TS. Dương Thị Thanh Hải Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp trường họp tại Trường Đại học Vinh ….vào lúc… ngày tháng năm Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Trường Đại học Vinh.
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc vận động cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, tầng lớp trí thức, đặc biệt là trí thức tân học được đánh giá là lực lượng tiên phong, nguồn cung cấp đội ngũ lãnh đạo cho hầu hết phong trào yêu nước cách mạng và các cuộc vận động văn hoá xã hội ở Việt Nam. Chính bởi vậy, nghiên cứu về những vai trò, đóng góp của trí thức tân học Việt Nam trong tiến trình lịch sử là một vấn đề trọng tâm của sử học. Nguyễn An Ninh (1900 - 1943), một nhà cách mạng kiệt xuất của lớp trí thức “Tây học” đầu tiên ở Việt Nam đã dũng cảm đem hết tài năng, dũng khí và tính mạng cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thoát khỏi ách cai trị của chủ nghĩa thực dân. Tuy có nhiều đóng góp nhưng cho đến nay chưa có công trình khảo cứu về tiểu sử và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn An Ninh một cách hệ thống. Đây là điều mà chúng tôi mong muốn được tìm hiểu trong nghiên cứu để có được những đánh giá xác đáng từ những cống hiến của ông đối với lịch sử dân tộc. Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển hiện nay, việc tôn vinh truyền thống yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc là một vấn đề quan trọng. Do vậy, nghiên cứu về những đóng góp của nhân vật cách mạng đối với dân tộc sẽ là tấm gương phản chiếu hấp dẫn cho thế hệ thanh niên, nhất là thanh niên trí thức ngày nay tiếp bước noi theo. Kết quả luận án cũng sẽ góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo cho nghiên lịch sử Việt Nam Cận đại, đặc biệt là nghiên cứu về đóng góp của trí thức Việt Nam đầu thế kỉ XX. Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh ở Việt Nam từ năm 1922 đến năm 1943” làm Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động yêu nước và cách mạng tiêu biểu của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến năm 1943. Từ đó luận án sẽ đưa ra những nhận xét về đóng góp của ông đối với lịch sử dân tộc. 2.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài là toàn lãnh thổ Việt Nam, trong đó, không gian Lục tỉnh Nam Kỳ được tập trung nhiều hơn cả vì nơi đây trực tiếp diễn ra các hoạt động yêu nước và cách mạng tiêu biểu của ông.
- 2 - Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu về một nhân vật lịch sử cụ thể nên sẽ được đề cập toàn bộ thời gian từ khi sinh ra cho đến khi mất. Trọng tâm phạm vi nghiên cứu được xác định cụ thể từ năm 1922 khi Nguyễn An Ninh ở Pháp trở về Việt Nam hoạt động cách mạng cho đến năm 1943, ông hi sinh tại nhà tù Côn Đảo. - Phạm vi nội dung: Những hoạt động yêu nước và cách mạng tiêu biểu của Nguyễn An Ninh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc trước cách mạng tháng Tám năm 1945: diễn thuyết, xuất bản và viết sách báo, thành lập hội, vận động tranh cử, tổ chức Đông Dương Đại hội,... Từ những luận giải có căn cứ, luận án sẽ đưa ra đánh giá tương xứng với vai trò, đóng góp của ông đối với cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu về những hoạt động yêu nước và cách mạng tiêu biểu của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến năm 1943, qua đó làm rõ những đóng góp, vai trò của ông trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận án làm rõ những nhân tố quê hương, gia đình, dòng họ, thời đại tạo nên một Nguyễn An Ninh mang nhân cách cao đẹp, sống có lý tưởng, nhạy bén với thời đại. - Phân tích và làm rõ thái độ chính trị của Nguyễn An Ninh thông qua các hoạt động yêu nước và làm rõ tính cách mạng trong các hoạt động tiêu biểu như: diễn thuyết, xuất bản và viết sách báo, thành lập các hội, vận động tranh cử, đấu tranh nghị trường,… - Làm rõ vai trò, đóng góp của Nguyễn An Ninh đối với lịch sử dân tộc ở nửa đầu thế kỷ XX. Sự ghi nhận và tôn vinh của hậu thế đối với những cống hiến của ông. 4. Nguồn tài liệu, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu - Tài liệu lưu trữ: Phông Thống đốc Nam Kỳ (Trung tâm lưu trữ Quốc gia II) gồm các báo cáo của Sở An ninh các tỉnh Nam Kỳ; Phông Toàn quyền Đông Dương (Lưu trữ Quốc gia Hải ngoại - ANOM - Pháp) từ năm 1922 - 1943 có liên quan trực tiếp đến đề tài. - Tài liệu tham khảo: Các công trình nghiên cứu chuyên khảo trong và ngoài nước về Nguyễn An Ninh; các công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam, trí thức Nam Kỳ; lịch sử Nam Bộ và các công trình nghiên cứu về phong trào yêu nước chống thực dân Pháp; luận án, luận văn, tạp chí, kỉ yếu Hội thảo... - Tài liệu được xuất bản, in ấn thời Pháp: Nguồn báo chí trước năm 1945: Đông Dương tạp chí, Đông Pháp thời báo, Đông Phương, Thanh
- 3 Nghị,... lưu trữ trong thư viện Quốc gia Việt Nam hoặc đăng tải trên trang điện tử Baochi.nlv.gov.vn. Nguồn sách, báo, tạp chí đã được số hoá trên Thư viện số Gallica thuộc Thư viện Quốc gia Pháp. - Tài liệu điền dã: tác giả đã có 5 buổi trực tiếp trao đổi, phỏng vấn con gái thứ 5 của Nguyễn An Ninh (bà Nguyễn Thị Minh) và thu thập được nhiều ý kiến mới, tiếp cận được rất nhiều tài liệu tiếng Pháp, nhiều bài báo, bài nghiên cứu về Nguyễn An Ninh qua các thời kỳ. Các tư liệu tại nhà tưởng niệm Nguyễn An Ninh và nhà thờ gia tộc Nguyễn An Ninh cũng được khai thác. 4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở phương pháp luận: Luận án được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội. - Phương pháp nghiên cứu: phương pháp nhân học - sử học và phương pháp lô-gic là hai phương pháp cơ bản được sử dụng xuyên suốt trong nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó, một số phương pháp hỗ trợ cho nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp,… cũng được vận dụng. 5. Đóng góp của luận án - Luận án là công trình đầu tiên phục dựng toàn cảnh về con người, hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh trong thời kỳ lịch sử đầy biến động từ năm 1922 đến năm 1943. - Luận án góp phần làm rõ những hoạt động tích cực, liên tục đa màu sắc của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến năm 1943, từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá về những cống hiến của ông đối với lịch sử dân tộc. - Hệ thống nguồn tư liệu, góp thêm vào việc nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy lịch sử Nam Bộ nói riêng, lịch sử Việt Nam thời cận đại nói chung. 6. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận án được bố cục thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Chương 2: Những nhân tố tác động đến hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh. Chương 3: Một số hoạt động yêu nước và cách mạng tiêu biểu của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến năm 1943. Chương 4: Nhận xét về hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh.
- 4 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu 1.1.1. Một số công trình trong nước nghiên cứu về Nguyễn An Ninh Từ năm 1943 đến năm 1975, nghiên cứu về Nguyễn An Ninh chủ yếu là các bài lẻ tẻ đăng trên báo “Thần Chung”, “Tiếng Dội Miền Nam”, “Dân Quyền” nhằm bày tỏ tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của nhân dân Nam Bộ đối với đóng góp của ông. Có hai cuốn sách chuyên khảo là cuốn“Hội kín Nguyễn An Ninh” của Lê Văn Thử (1961); cuốn “Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh - Thân thế và sự nghiệp” của Phương Lan (1970). Từ sau khi đất nước được giải phóng (1975) cho đến nay, với cách tiếp cận và tư duy đổi mới lại được tiếp cận nhiều nguồn tư liệu lưu trữ, do đó đã có nhiều công bố về Nguyễn An Ninh. Sách chuyên khảo có cuốn: “Nguyễn An Ninh” (Nhiều tác giả, 1988); “Sự tiến hóa liên tục của Nguyễn An Ninh, một lãnh tụ cách mạng hùng biện” (Hà Huy Giáp, 1989); “Nguyễn An Ninh nhà tư tưởng tiêu biểu đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ” (Phạm Đào Thịnh, 2018)… Luận văn: “Tư tưởng Nguyên An Ninh về Nho giáo và tôn giáo” (Phạm Thị Đoạt, 1999),… Hồi ký: “Thương về Nguyễn An Ninh” của Huỳnh Văn Một; “Ngồi tù Khám Lớn” của Phan Văn Hùm. Các nghiên cứu được công bố dưới dạng bài báo đăng trên tạp chí lịch sử, tôn giáo, triết học,… với đa dạng đề tài, như: “Nguyễn An Ninh một luật sư, một nhà báo yêu nước” của Nguyễn Quốc Hồng, báo Pháp luật số 33, 1990; “Nguyễn An Ninh và các vấn đề văn hoá ngôn ngữ, giáo dục” của Bùi Khánh Thế đăng trên tập san KHXH & NV số 24, 2003; “Nguyễn An Ninh với văn hoá dân tộc” của Trần Viết Nghĩa trên tạp chí KHXH & NV, 2013,… Các chuyên khảo về trí thức Việt Nam, trong đó có nhắc đến vai trò của Nguyễn An Ninh: “Góp phần tìm hiểu một số nhân vật lịch sử Việt Nam” của Chương Thâu, 2003; “Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Khánh, 2016… Ngoài ra còn có 4 cuộc Hội thảo về Nguyễn An Ninh được tổ chức: lần 1 (1987), lần 2 (1990), lần 3 (2003,) lần 4 (2015). Để hậu thế có cái nhìn chân xác nhất về Nguyễn An Ninh, gia đình ông đã tích cực sưu tầm và viết lại những kí ức, trong đó có cuốn hồi ký “Cùng anh đi suốt cuộc đời” của Trương Thị Sáu (vợ Nguyễn An Ninh, 2004); “Nguyễn An Ninh - Tôi chỉ làm cơn gió thổi” của Nguyễn Thị Minh (con gái Nguyễn An Ninh, 2005); đặc biệt là hai cuốn “Nguyễn An Ninh qua hồi ức của những người thân” và “Nguyễn An Ninh - Tác phẩm” (2009) được gia đình Nguyễn An Ninh phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản. Tuy đây không phải là tài liệu nghiên cứu mà là những sưu tầm các tác phẩm, bài báo, bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh đăng trên các báo LCF,
- 5 L'Annam, La lutte, Trung Lập,… được dịch sang tiếng Việt, có giá trị rất lớn đối với chúng tôi trong quá trình triển khai của luận án. 1.1.2. Một số công trình nước ngoài nghiên cứu về Nguyễn An Ninh Công trình Vietnamese Anticolonialism 1885 - 1925 (Việt Nam chống thực dân 1885 - 1925) (University of California, 1971), công trình Vietnammese Tradition on Trial, 1920 - 1945 (Truyền thống Việt Nam qua thử thách, 1920-1945) (University of California, 1984) của David G.Marr; cuốn Radicalism and the Origins of the Vietnamese Revolution (Chủ nghĩa cấp tiến và cội nguồn của cách mạng Việt Nam) của Giáo sư Hồ Tài Huệ Tâm (University of Harvard, 1992); cuốn Du patriolisme au marxisme: L’immigration Vietnamienne en France de 1926 à 1930 (Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác) của nhà Việt Nam học Daniel (Hémery Éditions Ouvrières, 1973); cuốn Vietnam du Confucianisme au Communisme (Việt Nam từ Khổng giáo đến chủ nghĩa cộng sản) của Trịnh Văn Thảo (L’Harmattan, Paris, 2007),… Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình được biên soạn bởi các tác giả trong nước và nước ngoài đã tập trung vào một số khía cạnh riêng, hoặc nghiên cứu về một phương diện hoạt động trong cuộc đời, hoặc nghiên cứu tư tưởng chính trị, văn hoá của Nguyễn An Ninh. Kế thừa và tiếp thu cách đặt vấn đề, phương pháp nghiên cứu, nhất là khối lượng tài liệu phong phú, tin cậy sẽ giúp chúng tôi giải quyết hiệu quả những nội dung đặt ra cho luận án. 1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu vấn đề - Đã có nhiều công trình được công bố trong và ngoài nước nghiên cứu từ các góc độ tiếp cận khác nhau về Nguyễn An Ninh. Những công trình này đề cập đến nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung nhiều ở hai lĩnh vực tư tưởng chính trị và văn hoá. - Bằng những tư liệu tin cậy, cách lập luận thuyết phục, nhiều công trình đã liệt kê nguồn gốc xuất thân, thái độ chính trị, hoạt động đóng góp nổi bật của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến năm 1943. Những hình thức đấu tranh nổi bật như diễn thuyết, làm báo, viết sách, lập hội, nghị trường,… ở vùng đất phía nam của đất nước được tập trung khai thác nhiều hơn cả. Kế thừa những kết quả nghiên cứu có giá trị trước đó về cách tiếp cận đa chiều, phương pháp nghiên cứu tư duy lịch sử, cách khai thác và sử dụng nguồn tư liệu, tác giả sẽ tiếp tục đi sâu phân tích, lý giải tinh thần yêu nước và tính cách mạng trong từng hoạt động đấu tranh cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề mà luận án đặt ra. - Những hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh từ 1922 - 1943 được đề cập ở mức độ chung trong một số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, để nghiên cứu có hệ thống về hoạt động yêu nước và cách mạng
- 6 của ông cho đến nay vẫn là khoảng trống trong nghiên cứu lịch sử. Đây không phải là tồn tại, hạn chế trong các công trình đã công bố mà do tác giả của những công trình đó không xem những vấn đề này là đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu trước, bổ sung thêm tư liệu lưu trữ, luận án mong muốn phần nào lấp đầy “khoảng trống lịch sử” từ kết quả nghiên cứu của mình. 1.3. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu - Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng từ bối cảnh lịch sử, nền tảng quê hương, gia đình, dòng họ, thời đại tạo nên con người Nguyễn An Ninh - một nhân cách sáng ngời với lý tưởng, hoài bão lớn, bắt kịp xu thế của thời đại. - Phục dựng lại hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 - 1943 thông qua các hoạt động tiêu biểu như: diễn thuyết, viết sách, báo, thành lập hội, tranh cử, nghị trường,... và làm rõ tính cách mạng trong từng hoạt động cụ thể. - Làm rõ những đóng góp của Nguyễn An Ninh trên cương vị của một trí thức cách mạng tiêu biểu ở Nam Kỳ trong cuộc vận động giải phóng dân tộc từ năm 1922 - 1943. CHƯƠNG 2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN AN NINH 2.1. Bối cảnh lịch sử 2.1.1. Bối cảnh thế giới Đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của cuộc đại cách mạng tư sản Pháp (1789), làn sóng Tân thư, Tân văn đã đem lại sự chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á. Xu hướng xuất dương tìm đường cứu nước được đông đảo trí thức nho sĩ mới, trí thức tân học Việt Nam hưởng ứng mạnh mẽ. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga (1917), những hoạt động tích cực của Quốc tế Cộng sản (1919), sự ra đời của Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921) đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào chống thực dân ở các nước thuộc địa châu Á. Nước Pháp trở thành điểm đến để học tập, hoạt động tìm đường cứu nước của nhiều nhà yêu nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. 2.1.2. Bối cảnh trong nước Sau khi cơ bản hoàn thành bình định Việt Nam, Pháp triển khai bóc lột kinh tế trên quy mô lớn. Hai cuộc đại khai thác thuộc địa (1897 - 1914 và 1919 - 1929) đã làm cho cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ. Những ảnh hưởng của nền giáo dục kiểu mới cùng sự thức thời của giới trí thức nho học và tân học tiến bộ đã tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong
- 7 nhận thức xã hội. Sự xuất hiện các đô thị lớn, sự ra đời của các đảng phái chính trị và bùng nổ báo chí, in ấn,… đã khuấy động một phong trào đấu tranh dân chủ sôi nổi khắp cả nước. Tinh thần dân tộc dân chủ được phát triển mạnh mẽ. Văn hoá, ngôn ngữ dân tộc và tinh thần yêu nước cũng theo đó trỗi dậy. Thông qua những hoạt động của các trí thức trở về sau thời gian sinh sống, học tập và hoạt động yêu nước ở Pháp, chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam. Những nổ lực của của Nguyễn Ái Quốc và các học trò được đền đáp bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Thu hút sự chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội, Đảng Cộng sản đã thiết lập được hàng loạt các tổ chức vệ tinh xung quanh đã mở ra một thời kỳ đấu tranh cách mạng theo xu hướng mới, xu hướng cách mạng vô sản. 2.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Sài Gòn - Gia Định Nhân dân Sài Gòn - Gia Định vốn có truyền thống yêu nước và cách mạng từ thời mở đất. Tính cách khoáng đạt, quảng giao, nghĩa hiệp trong thành lập làng, ấp; kiên cường, bất khuất không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù xâm lược đã trở thành cốt cách đặc trưng của con người nơi đây. 2.3. Truyền thống gia đình, dòng họ Truyền thống yêu nước cách mạng và hiếu học khoa bảng đã trở thành di sản của dòng họ Nguyễn. Các thế hệ con cháu họ Nguyễn ở bất cứ nơi đâu, chế độ nào, hoàn cảnh nào cũng luôn luôn ghi nhớ cội nguồn, giữ gìn nền nếp gia phong, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Truyền thống dòng họ Nguyễn đã tạo nên những nhân vật kiệt xuất cho dân tộc được sử sách ghi công, nhân dân kính trọng, trong đó có Nguyễn An Ninh. 2.4. Ảnh hưởng tư tưởng tư sản đến hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh trước năm 1922 Bước sang đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới, các phong trào Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Minh Tân vận động theo văn minh phương Tây và tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra mạnh mẽ khắp cả nước. Sớm hưởng ứng, gia đình ông Nguyễn An Khương trở thành cơ sở kinh tài, nơi tập kết đưa rước thanh niên sang Nhật du học. Ngay từ nhỏ, ý chí và tư tưởng cách mạng dân chủ đã sớm hình thành trong Nguyễn An Ninh. Từ nhà trường thực dân (trường Pháp - Việt), những giá trị nhân văn, tư tưởng dân chủ tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp được Nguyễn An Ninh hấp thụ cùng lòng yêu nước. Sang Pháp học tập tại Pháp, Nguyễn An Ninh đã hoạt động cùng các nhà yêu nước Việt Nam (Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc…), gặp gỡ các nhà trí thức dân chủ tiến bộ của Pháp (Andrée Viollis, Léon Werth,…) giúp ông nhận thức lại nhiệm vụ của thời đại. Từ đó ông chủ động xây dựng hệ thống tư tưởng dân chủ tư sản phục vụ giải phóng dân tộc.
- 8 Khác với cách mạng dân chủ phương Tây, cuộc vận động cách mạng của Nguyễn An Ninh chỉ theo những giá trị dân chủ nhưng hướng đến mục đích là lợi ích dân tộc, không phải vì lợi ích giai cấp. Chứng tỏ Nguyễn An Ninh là một nhà cách mạng dân chủ tư sản nhưng mang tâm hồn, cốt cách của một nhà nho, không thuộc về giai cấp tư sản. 2.5. Ảnh hưởng tư tưởng vô sản đến hoạt động cách mạng của Nguyễn An Ninh Ngay từ rất sớm Nguyễn An Ninh đã nhìn thấy ở các nhà sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản như Mác, Enghen, Jáures, Lênin tinh thần phụng sự tổ quốc, đóng góp phục vụ cho nhân loại. Tán thành nguyên lý cộng sản, Nguyễn An Ninh đã trực tiếp nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tích cực tìm đọc các ấn phẩm, sách, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Nhận thức chủ nghĩa Mác có những nội dung phù hợp với cách mạng Việt Nam, Nguyễn An Ninh đã chủ động cho đăng “Tuyên ngôn cộng sản” trên báo LCF nhằm truyền bá rộng rãi vào quần chúng người Việt. Vận dụng khá nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin vào các hoạt động thực tiễn như diễn thuyết, báo chí, lập hội,… Nguyễn An Ninh đã mang đến những chuyển biến trong nhận thức và tư tưởng của dân tộc Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX. Luôn tán thành chủ trương của Đảng, song hành trong nhiều hoạt động cùng các đảng viên Cộng sản cho thấy sự lựa chọn con đường cách mạng của Nguyễn An Ninh là sự vận động, phát triển chứ không phải là cố định, bất biến. Bởi mục tiêu hướng tới của ông là độc lập dân tộc. Tiểu kết chương 2 Vùng đất Sài Gòn - Gia Định, nơi giao thoa, đan xen của nhiều nền văn hóa, tín ngưỡng cùng truyền thống yêu nước, trọng quyền lợi của nhân dân, quốc gia dân tộc đã nuôi dưỡng nên nhiều yếu nhân cho dân tộc. Sinh ra ở Long An, trưởng thành ở Sài Gòn - Gia Định, Nguyễn An Ninh mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của quê hương như trọng nghĩa, khinh tài, khoáng đạt, nghĩa hiệp; thừa hưởng một nền giáo dục gia đình cởi mở, độc lập là những nền tảng hun đúc nên trí tuệ, tư tưởng, nhân cách của một nhà trí thức cách mạng kiệt xuất. Thức thời, năng động trong quá trình học tập và hoạt động tại nước Pháp, Nguyễn An Ninh đã chủ động tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của thời đại (tư tưởng dân chủ tư sản và tư tưởng vô sản). Tiếp cận những tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái của nhóm bách khoa toàn thư cùng khối lượng kiến thức đồ sộ, phong phú của nền giáo dục Pháp đã khiến Nguyễn An Ninh trở thành một nhà trí thức mới mà trước đó trong nền giáo dục Nho học không thể có được. Vận dụng trí thức vào hoạt động các nhà cách mạng
- 9 Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn An Ninh đã học hỏi, vận dụng được những hình thức đấu tranh mới như làm báo, diễn thuyết, nghị trường,… Đây là hành trang quý giá cho những hoạt động sôi nổi sau khi ông về nước vận động giải phóng dân tộc. Gặp gỡ các lãnh tụ Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động trong các tổ chức Cộng sản, Nguyễn An Ninh đã thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin những giá trị đích thực phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ đó, Nguyễn An Ninh đã có bước chuyển biến mạnh mẽ từ một người trí thức mới yêu nước sang trí thức cách mạng, tiếp tục hành trình cứu nước giải phóng dân tộc. CHƯƠNG 3. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG TIÊU BIỂU CỦA NGUYỄN AN NINH TỪ NĂM 1922 ĐẾN NĂM 1943 3.1. Hoạt động của Nguyễn An Ninh từ năm 1922 đến năm 1930 3.1.1. Hoạt động diễn thuyết Ngay khi trở về nước (1922), Nguyễn An Ninh ra mắt dân chúng Nam Kỳ bằng năng lực hùng biện đầy sức thuyết phục. Ông đã thực hiện bốn lần diễn thuyết dưới sự cho phép của chính quyền Nam Kỳ. Còn các buổi nói chuyện, diễn thuyết trong những chuyến đi đến các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Kỳ thì không kể siết. Trong số các cuộc diễn thuyết có hai cuộc ông sử dụng tiếng Pháp tại Hội khuyến học Nam Kỳ đã gây tiếng vang lớn. Cuộc diễn thuyết lần thứ nhất diễn ra vào đêm 25/01/1923 với chủ đề “Une culture pour les Annamites” (Một nền học thức cho người An Nam). Nguyễn An Ninh công khai khước từ những quan niệm truyền thống Nho giáo trọng hư văn khoa cử kéo lùi sự phát triển của xã hội để kêu gọi thanh niên Việt Nam mạnh dạn ra khỏi phạm vi gia đình, đất nước để sang châu Âu, sang Pháp để học hỏi, tiếp thu những văn minh tiến bộ để phụng sự cho tổ quốc. Cuộc diễn thuyết lần thứ hai vào tối ngày 15/10/1923 với tiêu đề “Idéal de la jeunesse Annamit” (Lý tưởng của thanh niên An Nam). Phê phán nền văn hoá “xuất khẩu” Khổng giáo tồn tại mấy ngàn năm không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, lên án nền văn hoá thực dân nô dịch, Nguyễn An Ninh kêu gọi quốc dân đồng bào, nhất là tầng lớp thanh niên chung sức xây dựng một nền văn hóa riêng cho dân tộc, đủ sức để khai dân trí. Đây chính là tiền đề, điều kiện cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước sau này. Khuấy động môi trường ngôn luận sôi nổi, tạo chú ý của đông đảo dân chúng, những bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh được nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu cho rằng có giá trị đánh thức một thế hệ. Ông trở thành thần tượng của người dân Nam Bộ.
- 10 3.1.2. Hoạt động xuất bản và viết báo Tận dụng môi trường tự do báo chí bằng tiếng Pháp ở Nam Kỳ, Nguyễn An Ninh đã cho xuất bản tờ báo La Cloche Fêlée (LCF) (10/12/1923) làm vũ khí chiến đấu. Vừa là chủ bút kiêm chủ báo LCF và L’Annam, Nguyễn An Ninh còn tham gia viết bài cho các báo La Lutte, Trung Lập, Donnai,… với nhiều bút danh như: N., A.N., N.A.N, Nguyễn An Ninh, Ng-an-Ninh,... Theo cuốn sách “Nguyễn An Ninh tác phẩm” thống kê, Nguyễn An Ninh có 250 bài báo Pháp ngữ, 139 bài báo Quốc ngữ, gồm nhiều thể loại. Sự xuất hiện của tờ LCF đã gây tiếng vang lớn nhất trong làng báo Sài Gòn ở thập niên 20 của thế kỷ XX. Để tờ báo LCF được xuất bản, Nguyễn An Ninh đã thu vén sản nghiệp gia đình bán lấy tiền mua máy, lập xưởng in riêng. Ông trực tiếp tham gia các khâu từ viết báo, thu thập tin tức, chuẩn bị bài đến phụ sắp chữ, sửa bản in thử, làm các công việc phụ trong xưởng in. Báo in xong ông ôm báo đi rao bán trên đường phố Sài Gòn, vượt qua mọi sự cản trở của bộ máy cảnh sát, mật thám Pháp. Số báo LCF đầu tiên ra mắt bạn đọc xuất bản ngày 10/12/1923. Đợt 1, từ số 1 đến số 19 (14/7/1924); đợt 2 từ số 20 (26/11/1925) đến số 62 (03/5/1926), từ số 63 (06/5/1926) báo đổi tên là L’Annam do Phan Văn Trường làm chủ bút; đến số 182 (02/02/1928) thì bị đình bản hoàn toàn. Tự xưng là “Cơ quan tuyên truyền dân chủ”, LCF không chỉ dừng lại ở việc lôi cuốn quần chúng ra khỏi tư tưởng cũ, phổ biến công khai những tư tưởng cách mạng tiến bộ: “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền”, “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, mà còn làm thay đổi suy nghĩ và hành động của cả một thế hệ thanh niên. Với ngòi bút sắc bén, lập luận chặt chẽ, bản chất xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp bị Nguyễn An Ninh vạch trần công khai trên từng trang báo. Chủ nghĩa yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng con người trong nhân dân cũng được công chúng hoá rộng rãi. Đánh giá về tờ LCF, Peycam cho rằng đây là “tờ báo đối lập chính trị dữ dội nhất từng xuất bản cho tới lúc đó”, góp phần mở ra xu hướng đấu tranh trên báo chí công khai với chính quyền thuộc địa. Nhiều tờ báo như Le Jeune Annam, Le Nhà Quê,… tiếp nối tinh thần LCF cũng đăng bài tố cáo chính sách cai trị hà khắc của chính quyền thực dân, chống luận điệu Pháp - Việt đề huề, kêu gọi đồng bào ta noi gương các nước láng giềng đấu tranh. Chính quyền thực dân phải thừa nhận luôn trong tư thế bị động đối phó với tờ LCF. Cuộc đấu tranh của Nguyễn An Ninh trên mặt trận báo chí công khai không chỉ góp phần tích cực vào công cuộc hiện đại hóa nền văn hoá chính trị ở Việt Nam, phát triển nghệ thuật và ngôn ngữ dân tộc, thức tỉnh tinh thần
- 11 yêu nước, mà còn thúc đẩy phong trào dân chủ trỗi dậy mạnh mẽ. Tinh thần dân tộc, ý thức tự lực tự cường và khát vọng hoà bình được cổ vũ lên cao. 3.1.3. Xuất bản sách La France en Indochine (LFEI - Nước Pháp ở Đông Dương) Tiếp tục công khai công kích chính quyền thực dân, Nguyễn An Ninh đã cho xuất bản cuốn LFEI để tố cáo tội ác của đội quân xâm lược. Cuốn sách được ấn hành tại Pháp do không được cấp phép in trong nước. Mang đến cho người dân cái nhìn chính xác về thuộc địa Đông Dương, Nguyễn An Ninh đưa ra những dẫn chứng những đối lập về chính sách, cuộc sống của người dân ở nước Pháp chính quốc với người dân ở Đông Dương. Mục đích làm cho người Pháp chính quốc hiểu rõ bản chất tham lam, tàn bạo của bọn thực dân thuộc địa và đến với Đông Dương mang theo văn minh luật pháp, công lý để thay thế và xây dựng một nước Việt Nam dưới quyền nước Pháp. Tuy nhiên, Nguyễn An Ninh chỉ chấp nhận một sự hợp tác Pháp - Việt trên cơ sở bình đẳng, phủ nhận kiểu hợp tác thỏa hiệp và tuyên bố sẽ sử dụng bạo lực khi cần thiết. LFEI là bản án thống thiết lên án mạnh mẽ “sứ mệnh khai hóa” của chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh chống xâm lược của nhân dân, đặc biệt là giới trí thức bản xứ. Đây cũng là cương lĩnh hoạt động chính trị của Nguyễn An Ninh ở buổi ban đầu làm cách mạng. 3.1.4. Thành lập tổ chức Thanh niên Cao vọng Sớm nhận thấy vai trò của tầng lớp bình dân trong cuộc vận động cách mạng và sự cần thiết phải có một tổ chức để giáo dục ý thức chính trị cho quần chúng, từ cuối 1924 đến đầu 1925, Nguyễn An Ninh đã chuyển hướng địa bàn về nông thôn. Ban đầu ông gây dựng cơ sở tại vùng Củ Chi, Bà Điểm (Hóc Môn), Đức Hoà, Đức Huệ (Long An),… sau đó mở rộng đến ở Trảng Bàng, Tân An, Chợ Lớn, Châu Đốc, Bạc Liêu, Tây Ninh,… thành lập tổ chức với tên gọi “Thanh niên Cao vọng”. Đây là một tổ chức quần chúng yêu nước được tập hợp theo từng cụm địa phương và không có lãnh tụ. Lực lượng quần chúng này vẫn sống tại gia đình, khi nào Nguyễn An Ninh huy động thì số quần chúng này tham gia. Các cụm sẽ do trí thức yêu nước cách mạng làm nòng cốt dẫn dắt hướng dẫn người dân đấu tranh. Trong các chuyến đi tuyên truyền cho tổ chức, Nguyễn An Ninh đem nhiều sách báo tiến bộ, tài liệu của các nhà tư tưởng tiến bộ Pháp, tài liệu về chủ nghĩa cộng sản,… phổ biến đến quần chúng. Chính bởi vậy, chính quyền thực dân xem tổ chức của Nguyễn An Ninh như một Đảng theo xu hướng cộng sản. Từ sau khi thành lập Thanh niên Cao vọng đã thực hiện được hai hoạt động lớn đó là tổ chức đám tang cụ Phan Châu Trinh (1926) và tổ chức cúng giáp năm cho cụ (1927).
- 12 Nhận thấy hoạt động của Nguyễn An Ninh và tổ chức Thanh niên Cao vọng gây nguy hại cho an ninh thuộc địa, chính quyền thực dân Pháp đã bắt Nguyễn An Ninh (1927) cùng nhiều đồng chí chủ chốt của tổ chức. Nguyễn An Ninh bị xử án và nhốt vào Khám Lớn Sài Gòn. Tại nhà tù, ông gặp Phạm Văn Đồng và biết Nguyễn Ái Quốc đã lập Đảng Cộng sản ở nước ngoài. Ông đã gián tiếp giới thiệu những thành viên cốt cán của Thanh niên Cao vọng để được tuyển chọn, kết nạp vào Đảng. Chủ động mở rộng phạm vi hoạt động về nông thôn, Nguyễn An Ninh đã kết hợp cùng một số nhà yêu nước để thành lập tổ chức chính trị chống Pháp của giới bình dân. Gia nhập Đảng Cộng sản, các thành viên của Thanh niên Cao vọng không chỉ góp phần làm gia tăng sức mạnh của Đảng mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho Đảng nhanh chóng bén rễ trong quần chúng. 3.2. Hoạt động của Nguyễn An Ninh từ năm 1930 đến năm 1943 3.2.1. Vận động tranh cử và đấu tranh nghị trường Tận dụng môi trường chính trị mới cùng một số quy chế “dân chủ” được người Pháp mở rộng ở thuộc địa Nam Kỳ khi khuếch trương chiêu bài “Pháp - Việt đề huề”, Nguyễn An Ninh đã kết hợp cùng một số nhà cộng sản huy động sự ủng hộ của nhân dân trong cuộc vận động tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn (năm 1933, 1935), Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ năm 1939. Để tuyên truyền cho cuộc bầu cử và tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Văn Tạo đã cho ra đời tờ “La Lutte” (Tranh đấu) vào ngày 24/4/1933 làm cơ quan ngôn luận. Với uy tín và tầm ảnh hưởng của một trí thức Tây học yêu nước theo khuynh hướng dân tộc, người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời là “bạn”, “tiền bối” của nhiều người Việt Nam theo chủ nghĩa Trotskyist và Stalinist, Nguyễn An Ninh đã kết nối thành công những người theo chủ nghĩa dân tộc cánh tả, những người cộng sản Stalinist và những người Trotskyist. Sự kết hợp nhịp nhàng của bộ ba Ninh - Tạo - Thâu, một liên minh thống nhất và hợp tác đã hoạt động hiệu quả trong các hoạt động tranh cử. Trong chiến dịch tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn năm 1933, Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Thạch của “Sổ Lao động” đã đắc cử vào vị trí Ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn. Năm 1935, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu và Dương Bạch Mai cũng trúng cử với số phiếu bầu cao và có tên trong Hội đồng thành phố Sài Gòn. Mặc dù không đi đến thắng lợi cuối cùng do sự lật lọng của chính quyền thực dân nhưng qua nhiều chiến dịch tuyên truyền hiệu quả đã bổ sung và chuyển hoá những lợi thế so sánh giữa ba thành phần yêu nước. Rõ nét nhất là các chiến sĩ cộng sản đã thu thập được những kinh nghiệm đầu tiên về đấu tranh nghị trường, công khai.
- 13 Nhận xét về đóng góp của Nguyễn An Ninh cho kết quả cuộc vận động tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn năm những năm 30 của thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Phương Lan viết: “Lấy sự thật mà nói, lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam này, sổ Lao Động được đắc cử, đánh ngã được đảng Lập Hiến do thực dân ủng hộ không phải do cử tri có xu hướng theo lao động, mà do cái tên Nguyễn An Ninh, sự cảm tình từ lâu với Ninh, sự giới thiệu, cổ động, bảo đảm của Ninh cho nhóm người mới từ ngoại quốc về, có mấy ai biết rõ tên tuổi thành tích là sao?”. 3.2.2. Viết sách “Tôn giáo”, “Phê bình Phật giáo” Những năm 20 của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam luôn trong tình trạng bất ổn từ những cuộc khai thác, chính sách cai trị của thực dân Pháp. Trước những đau khổ cùng cực do đời sống xã hội chi phối khiến con người tìm đến Phật giáo như một phương tiện giải toả và nuôi dưỡng hi vọng. Những thành công nhất định của phong trào chấn hưng Phật giáo tại một số quốc gia châu Á đã ảnh hưởng tích cực đến Việt Nam. Trên các văn đàn báo chí, nhiều phương diện Phật học đã được tầng lớp trí thức Nho học và Tây học đem ra bàn luận đánh giá dưới các góc độ khác nhau. Ban đầu chính quyền cai trị tỏ ra lo ngại và dùng nhiều biện pháp cứng rắn để kiểm soát, hạn chế nhưng sau đó lại thao túng, lợi dụng tôn giáo để lôi kéo người dân ra khỏi sức hút của các phong trào chính trị. Để tham gia bàn về tôn giáo, Nguyễn An Ninh đã đưa lên diễn đàn tư tưởng hai tác phẩm là “Tôn giáo”, “Phê bình Phật giáo”. Sử dụng nhãn quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, Nguyễn An Ninh vừa bàn về những vấn đề cơ bản của Phật giáo, vừa trình bày nhận thức, quan điểm của mình về con người. Ông phê phán xã hội hiện thực làm nảy sinh ra tôn giáo cùng những ảnh hưởng tiêu cực của nó tới hạnh phúc của nhân dân. Để con người không còn cần đến sự đền bù hư ảo của tôn giáo mà tìm thấy hạnh phúc thật sự ngay trong cuộc sống hiện tại phải gột rửa đầu óc mê tín dị đoan, bi quan của nhiều người trong đời sống xã hội, thức tỉnh họ mạnh dạn bước vào cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược và phong kiến tay sai. Theo ông, khi quần chúng hiểu đúng bản chất của tôn giáo, nhận thức đúng đắn về lợi ích của mình trong chế độ xã hội dân chủ thì sự quyết tâm trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc sẽ là nguồn sức mạnh to lớn đưa cách mạng đến thắng lợi. Trong giai đoạn thoái trào cách mạng, Nguyễn An Ninh viết sách tôn giáo nhằm chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo lấy mê tín che lấp tư tưởng đấu tranh của chính quyền Pháp, góp phần bồi dưỡng chính trị tư tưởng cho các nhà cách mạng trên bước đường đấu tranh. Điều này ngầm khẳng định vị thế cùng chiến tuyến của ông với các chiến sĩ cộng sản trên mặt trận văn hóa tư tưởng, mà bắt đầu từ địa hạt tôn giáo.
- 14 3.2.3. Tổ chức Đông Dương Đại hội năm 1936 Tận dụng môi trường dân chủ được mở rộng ở Đông Dương khi chính phủ cấp tiến cầm quyền ở Pháp cùng chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc phản đế của Đảng Cộng sản Đông Dương, năm 1936 Nguyễn An Ninh đã đề xuất ý tưởng tổ chức Đông Dương Đại hội và công khai dưới danh nghĩa của nhóm La Lutte. Ý tưởng này được sự tán thành, ủng hộ của Đảng Cộng sản Đông Dương cùng đông đảo nhân dân cả nước. Mở đầu cuộc vận động, Nguyễn An Ninh viết bài đăng trên báo La Lutte có tính chất gợi ý “Tiến tới một Đại hội Đông Dương” (số 92, ngày 29/7/1936). Liên tiếp sau đó là các bài báo kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng chuẩn bị cho Đông Dương Đại hội: “Bắt tay chuẩn bị Đại hội Đông Dương”, “Hội nghị sơ bộ chuẩn bị cho Đại hội Đông Dương”,… Phong trào nổ ra đầu tiên ở Nam Kỳ bằng cuộc họp ngày 13/8/1936 gồm đại biểu các giới, các đảng phái chính trị cho việc thành lập một Ủy ban Lâm thời gồm 19 đại diện. Nguyễn An Ninh tham gia Ủy ban với tư cách là một trong những đại diện của nhóm nhà báo. Để tham gia địa hạt nghị trường chuẩn bị cho Đông Dương Đại hội, Nguyễn An Ninh đã nỗ lực cùng những người cộng sản xây dựng liên minh với nhóm tư sản lập hiến; thành lập các “Ủy ban hành động” để thu thập dân nguyện của nhân dân. Kết quả hơn 600 Ủy ban hành động được thành lập khắp Nam Kỳ. Phong trào không chỉ lớn mạnh ở Nam Kỳ mà hai chi nhánh ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ cũng hoạt động rất hiệu quả. Sự hoạt động mạnh mẽ của các Ủy ban hành động đã tạo nên một làn sóng đình công của công nhân ở Nam Kỳ, làm tê liệt các xưởng sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, nhà máy gạo,… khiến chính quyền thực dân e ngại. Để dập tắt phong trào, tháng 9/1936, một mặt Pháp tuyên bố Ủy ban Điều tra sẽ không đến Đông Dương, mặt khác cấm các Ủy ban hành động hoạt động. Các trụ sở tại nhiều địa phương bị khám xét, truyền đơn, áp phích, biểu ngữ bị tịch thu và gỡ bỏ, công nhân tham gia vào các Ủy ban hành động đều bị sa thải. Mạnh tay hơn, chúng bắt giam ba thành viên chủ chốt của nhóm La Lutte là Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu cùng nhiều cốt cán của các Ủy ban hành động. Cuộc tuyệt thực 10 ngày của ba nhà cách mạng phản đối hành động bắt giam vô căn cứ khiến dư luận trong và ngoài nước dậy sóng. Trong nhà giam tù nhân đồng loạt bãi thực. Bên ngoài các cuộc bãi công chính trị nổ ra rầm rộ khiến chính quyền thuộc địa phải thả người. Sau thời gian ngắn, phong trào lắng xuống rồi chấm dứt. Lần đầu tiên phong trào Đông Dương Đại hội đã đưa đông đảo quần chúng được tham gia trực tiếp vào đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của đất
- 15 nước. Ý thức chính trị trong nhiều tầng lớp mới của xã hội được thức tỉnh. Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương là yếu tố quyết định tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Đông Dương Đại hội, nhưng uy tín và tầm ảnh hưởng cùng những hoạt động tích cực của Nguyễn An Ninh là yếu tố giúp phong trào được các tầng lớp trong xã hội đón nhận tích cực, đông đảo. Tiểu kết chương 3 Khác với phong cách của các cụ đồ Nho nghiêm khắc, văn chương mẫu mực, hay những trí thức Tây học với phong cách diễn đạt tư tưởng bác học, hàn lâm, Nguyễn An Ninh diễn đạt hành động yêu nước và cách mạng của mình mang một phong cách riêng. Ông sử dụng hình thức đấu tranh bằng diễn thuyết, báo chí, vận động tranh cử, nghị trường để tạo nên mối quan hệ gần gũi với nhân dân. Hướng dẫn họ, lôi cuốn họ vào các cuộc đấu tranh cách mạng, Nguyễn An Ninh đã trở thành thần tượng, lãnh tụ tinh thần của quần chúng Nam Bộ những năm 20, 30 của thế kỷ XX. Có thể nói, quá trình hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh thể hiện một tinh thần đấu tranh bền bỉ, liên tục. Nếu trước năm 1930 ông nghiêng về đấu tranh ôn hoà nhưng táo bạo, kiên quyết tận dụng những kẽ hở của luật pháp thực dân để đòi dân sinh dân chủ, thức tỉnh nhân dân trong chính sách thuộc địa, thì sau năm 1930, Nguyễn An Ninh đã thể hiện vị thế đứng cùng chiến tuyến với các chiến sĩ cộng sản và quần chúng lao động đòi độc lập dân tộc. Ở giai đoạn đầu, do còn những hạn chế về trình độ tổ chức, đường lối và phương pháp đấu tranh chưa được nghiên cứu và chuẩn bị chu đáo, lại bị đàn áp khốc liệt của chính quyền thực dân nên các phong trào đấu tranh cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản mới chỉ dừng lại ở việc đòi tự do dân chủ, tố cáo chính sách cai trị tàn bạo của chính quyền thực dân, khêu gợi tinh thần yêu nước chứ chưa đáp ứng được yêu cầu của lịch sử dân tộc là giải phóng hoàn toàn nhân dân khỏi ách áp bức của thực dân và phong kiến. Tuy nhiên, những hạn chế đó lại nhanh chóng được Nguyễn An Ninh khắc phục sau năm 1930. Đồng hành cùng các nhà cộng sản, ủng hộ chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương cho thấy vấn đề độc lập dân tộc đã được ông đưa lên hàng đầu. Việc chuyển địa bàn hoạt động cách mạng từ thành thị về nông thôn, dấn thân đi vào thực tế trong công tác “quần chúng hóa” cho thấy Nguyễn An Ninh có một tầm nhìn chiến lược lâu dài cho cách mạng Việt Nam.
- 16 CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN AN NINH 4.1. Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh là một quá trình diễn ra liên tục, kết hợp tư tưởng dân chủ tư sản với tư tưởng vô sản để đạt mục đích cuối cùng là độc lập dân tộc. Dấn thân vào con đường cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 22 tuổi, Nguyễn An Ninh đã dành hơn nửa cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong khoảng thời gian hơn 20 năm hoạt động cách mạng, Nguyễn An Ninh phải chịu 5 lần cảnh tù đày (hơn 9 năm), hơn 10 lần bị hầu tòa (sơ thẩm, phúc thẩm, tiểu hình, đại hình), cuối cùng hi sinh trong nhà ngục ở Côn Đảo. Là một trí thức Tây học xuất sắc, Nguyễn An Ninh sớm trưởng thành về tư tưởng chính trị để trở thành một nhà cách mạng chân chính. Với thời gian hoạt động ngắn ngủi ấy, ông vừa hoạt động cách mạng trong và ngoài nước, vừa làm báo tại Pháp và làm báo trong nước, vừa viết sách, tham gia đấu tranh nghị trường, vừa gây dựng phong trào yêu nước, vừa là người bạn đồng hành cùng với lãnh tụ, tổ chức Đảng Cộng sản. Vận dụng nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, quá trình đấu tranh liên tục của Nguyễn An Ninh là sự kết hợp sáng tạo giữa tư tưởng dân chủ tư sản với tư tưởng vô sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đạt mục đích cuối cùng là độc lập dân tộc. Giống như các bậc tiền bối Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh đến với tư tưởng dân chủ tư sản và vận dụng vào cuộc cách mạng ở Việt Nam vì mục đích, lợi ích của toàn thể dân tộc chứ không phải vì mục đích, lợi ích của giai cấp tư sản. Chính bởi vậy, những quan điểm cách mạng của ông là sự tích hợp giữa những giá trị của dân chủ tư sản phương Tây, những nét truyền thống của chủ nghĩa nhân đạo phương Đông để đạt mục đích giải phóng dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa Nguyễn An Ninh với các Nho sĩ tiến bộ trên là mặc dù ông đi theo khuynh hướng cách mạng dân tộc nhưng có sự kết hợp rất hài hoà giữa cách mạng dân tộc với cách mạng vô sản. Ông sớm nhận thấy được vai trò cải tạo xã hội ở chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn đất nước và tiếp nhận nó dưới góc nhìn của một người đi theo khuynh hướng quốc gia chủ nghĩa. Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế nhất định trong quá trình thực hành cách mạng nhưng tất cả đều xuất phát từ một tinh thần yêu nước và sự gắn bó máu thịt với vận mệnh đất nước để thực hiện mục đích cuối cùng là độc lập cho dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân dân.
- 17 4.2. Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh với nhiều hình thức đấu tranh mới mẻ, hiện đại đã đáp ứng được những nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra cho dân tộc và thời đại Ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, các phong trào yêu nước của nhân dân chống thực dân Pháp đã diễn ra liên tục và sôi nổi. Nhận thức nhiệm vụ của dân tộc và thời đại, Nguyễn An Ninh đã phê phán tư tưởng quân chủ lạc hậu, lỗi thời, đề xuất tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản và vô sản nhằm thức tỉnh nhân dân trong bối cảnh thuộc địa. Trước bối cảnh các cuộc nổi dậy của quần chúng bị chính quyền cai trị dìm trong biển máu, là một nhà luật học, Nguyễn An Ninh đã tận dụng môi trường chính trị công khai ở Nam Kỳ và kẻ hở luật pháp của chính quyền cai trị để vận dụng các hoạt thình thức đấu tranh công khai, hợp pháp khi dân tộc chưa chuẩn bị đủ nội lực cho bạo lực cách mạng. Tuy mang màu sắc ôn hòa trong cuộc vận động đấu tranh cách mạng nhưng tỏ rõ sự khác biệt so với phong trào dân chủ đầu thế kỷ XX, ôn hoà nhưng quyết liệt, triệt để. Tùy vào tình hình thực tiễn để vận dụng các hình thức đấu tranh phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao. Nếu giai đoạn đầu Nguyễn An Ninh tiếp cận đồng bào bằng diễn thuyết để khơi dậy tinh thần yêu nước làm thay đổi tư duy của thế hệ trẻ, xây dựng hoài bão dân tộc; xuất bản và viết báo để tố cáo chế độ thực dân và chính quyền thuộc địa, truyền bá nhưng tư tưởng cách mạng tiến bộ, thì giai đoạn sau ông lập hội, thành lập mặt trận nhân dân thống nhất để thức tỉnh họ, đoàn kết họ hướng dẫn họ đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ, dân tộc. Nhờ đó không chỉ tạo ra một môi trường chính trị thuận lợi cho sự tiếp nhận và vận động thành lập Đảng Cộng sản mà nguồn tài nguyên chính trị dồi dào đủ sức đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng dân tộc ở từng giai đoạn. Tận dụng môi trường chính trị mở, năm 1936, Nguyễn An Ninh đề ra sáng kiến tổ chức Đông Dương Đại hội nhằm tập hợp quần chúng thành một mặt trận nhân dân rộng lớn. Điều này thể hiện quan điểm thống nhất giữa dân tộc với giai cấp ở Nguyễn An Ninh. Đây là điểm tiến bộ rõ nét so với nhận thức chung thời đó, không mắc phải quan điểm giai cấp cực đoan như nhiều người cộng sản. Trong bối cảnh các phong trào cách đấu tranh trong nước bị chính quyền thực dân ra sức đàn áp khủng bố ác liệt phải lui vào hoạt động bí mật, Nguyễn An Ninh đã công khai đưa những hình thức đấu tranh mới mẻ, hiện đại vào đời sống chính trị ở Nam Kỳ. Sư trỗi dậy mạnh mẽ của tinh thần yêu nước khi quần chúng được tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ đã tạo nên một lớp cốt cán cách mạng biết khai thác triệt để sức mạnh của nhân dân cũng như
- 18 hậu phương, đáp ứng được yêu cầu về lực lượng lãnh đạo cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. 4.3. Hoạt động yêu nước và cách mạng của Nguyễn An Ninh đã góp phần cổ vũ thanh niên trí thức Việt Nam xác định lý tưởng, trách nhiệm trước lịch sử dân tộc Xâm lược và đô hộ Việt Nam, một mặt thực dân Pháp phong tỏa mọi nguồn ánh sáng văn minh của nhân loại đến người Việt khiến cho tầng lớp trí thức cách mạng bị hạn chế tầm nhìn, lần tìm đường cứu nước trong lạc hậu, mặt khác tạo điều kiện cho một số ít người Việt Nam theo học văn hóa - tư tưởng Pháp, cho họ một địa vị xã hội nhất định. Vì lẽ đó, làm cho tầng lớp thanh niên, nhất là thanh niên trí thức rũ bỏ những ham muốn vật chất tầm thường, hướng tới lý tưởng và khát vọng cao cả cho dân tộc không phải là chuyện dễ dàng. Là trí thức Tây học xuất thân từ giảng đường đại học lớn của Pháp, Nguyễn An Ninh không chỉ khiến người Việt cảm phục mà người Pháp cũng phải kính nể về sự uyên bác cũng như sự thánh thiện trong nhân cách. Sau khi nhận bằng cử nhân luật ông không tham gia trong bộ máy thực dân mà tỏ thái độ bất hợp tác, khước từ mọi lợi ích cá nhân để nhập cuộc vào phong trào đấu tranh yêu nước cách mạng của dân tộc. Điều này đã lưu lại dấu ấn lớn trong nhận thức của đại bộ phận thanh niên, nhất là thanh niên trí thức Việt Nam. Truyền bá văn minh tiến bộ của phương Tây, tư tưởng dân chủ tư sản, tư tưởng mácxít, Nguyễn An Ninh không chỉ thể hiện việc kế tục sự nghiệp “khai dân trí, chấn dân khí” của các nhà Nho tiến bộ đầu thế kỷ XX mà còn vượt lên quan niệm “cải cựu, canh tân”, cổ vũ thanh niên duy tân lý tưởng, thay những ham muốn vật chất tầm thường. Điều mà từ trước đến nay chưa ai nghĩ đến, chưa ai từng làm. Vì lẽ đó, những suy nghĩ hẹp hòi đã nhường chỗ cho những lý tưởng lớn lao vì dân sinh, dân chủ, dân tộc. Tầng lớp thanh niên đã bắt đầu quan tâm đến vận nước, thù nhà và thể hiện rõ những ủng hộ hoạt đến các nhà cách mạng, thậm chí tham gia vào các hội, đảng, công khai chống lại nhà cầm quyền. Các cuộc biểu tình sôi sục đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu Trinh, tham gia Đông Dương Đại hội,… của đông đảo tầng lớp nhân dân vào cuộc mưu cầu dân tộc là kết quả của quyết tâm duy tân lý tưởng dân tộc ở Nguyễn An Ninh. Chúng tôi đã tiếp cận được hai bức thư hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II của những thanh niên trí thức Việt Nam sống và học tập tại Pháp gửi về nước. Họ thể hiện sự trăn trở trước vận nước, giải thích lí do sang Pháp bằng thái độ căm phẫn kẻ xâm lược và đặt một niềm tin mãnh liệt vào những nhà cách mạng, trong đó nhắc nhiều đến Nguyễn An Ninh: “…tại sao chúng ta lại đến nước Pháp? Để thể hiện lòng căm thù của chúng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 253 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 182 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn