intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965-1975

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

74
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án với mục tiêu nghiên cứu nhằm tái hiện quá trình xây dựng nền Thương nghiệp miền Bắc giai đoạn 1965-1975, khi chiến tranh đã diễn ra trên phạm vi cả nước; qua đó, luận án sẽ góp phần làm rõ các đặc điểm, ý nghĩa, kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng nền thương mại trong giai đoạn hiện nay. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965-1975

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO       BỘ QUỐC PHÒNG VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM LÊ ĐÌNH TÂN THƯƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC GIAI ĐOẠN 1965 ­ 1975 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam  Mã số  ­    : 62 22 03 13 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
  2. HÀ NỘI ­ 2014 2
  3. CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Phạm Xanh 2. PGS, TS Vũ Đức Minh Phản biện 1: PGS, TS Nguyễn Mạnh Hà Phản biện 2: PGS, TS Vũ Quang Hiển  Phản biện 3: PGS, TS Nguyễn Minh Đức Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án Tiến sĩ cấp Viện. Họp tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam  Vào hồi…….giờ…… ngày……tháng…..năm 2014 Có thể tìm hiểu Luận án tại:  ­ Thư viện Quốc gia  ­ Thư viện Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
  4. 4
  5. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Công cuộc xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc Việt Nam từ  1965  ­  1975, diễn ra trong biến động lớn của hoàn cảnh trong nước và quốc tế, Đảng Lao động  Việt Nam vừa lãnh đạo tiến hành cách mạng Xã hội Chủ  nghĩa  ở  miền Bắc, vừa thực   hiện cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân,  giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.   Trong bối cảnh đó, việc xây dựng nền thương nghiệp miền Bắc vừa đáp  ứng nhu cầu  xây dựng Chủ  nghĩa Xã hội, góp phần đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế  quốc Mỹ, giúp miền Bắc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ  hậu phương l ớn cho ti ền   tuyến lớn miền Nam và làm nghĩa vụ  quốc tế  là một yêu cầu bức thiết. Đó cũng là  một thực tiễn vô cùng phong phú, cần đượ c đầu tư  nghiên cứu đúng mức để  có đượ c  sự đánh giá toàn diện, khách quan về thương nghiệp mi ền Bắc trong giai đoạn này.  Những thành tựu, hạn chế, thậm chí là thiếu sót, sai lầm của quá trình hoạch định   đường lối, chính sách, tổ  chức thực hiện và hoạt động tác nghiệp thương nghiệp của  thương nghiệp miền Bắc trong thời gian này cũng sẽ là bài học kinh nghiệm quý báu cho  công cuộc xây dựng thương nghiệp về sau. Qua nghiên cứu, Luận án cũng sẽ  khái quát được quan điểm và mô hình thương  nghiệp Xã hội Chủ  nghĩa của các nhà lý luận Mác xít; các quan điểm của Đảng và các   nhà lãnh đạo tiêu biểu của Đảng Lao động Việt Nam trong chủ  trương, chính sách, chỉ  đạo tổ chức và xây dựng thương nghiệp.  Quá trình xây dựng nền thương mại hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa,   quốc tế hóa đặt ra nhiều vấn đề mới cho ngành thương mại. Thế giới cơ bản đã chuyển   từ  đối đầu sang đối thoại, toàn cầu hóa kinh tế, hợp tác liên quốc gia đã trở  thành xu   hướng chủ đạo. Chính vì thế, quan điểm về xây dựng nền thương mại trong bối cảnh cũ  đã tỏ  ra không còn phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Tuy nhiên, giá trị  thực tiễn  của quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc trong 10 năm vừa xây  dựng và chiến đấu đã để  lại nhiều kinh nghiệm qu ý báu cho công cuộc xây dựng nền  thương mại hiện nay, xét trên cả  tư  duy kinh tế, mô hình tổ  chức, hoạt động thương   nghiệp và kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm rút ra không chỉ từ thành công mà cả hạn chế,  thiếu sót của công cuộc xây dựng, phát triển thương nghiệp trong giai đoạn đó cũng là   bài học mà ngày nay chúng ta cần nghiên cứu để tìm ra hướng đi hiệu quả hơn cho nền   thương mại Việt Nam. Vì lí do đó nên tôi đã chọn đề tài Thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc   kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 ­ 1975 làm luận án Tiến sỹ lịch sử.  2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1.Mục đích 5
  6. Mục đích của luận án là  tái hiện quá trình xây dựng nền Thương nghiệp miền   Bắc giai đoạn 1965 ­ 1975, khi chiến tranh đã diễn ra trên phạm vi cả nước. Qua đó, luận  án sẽ góp phần làm rõ các đặc điểm, ý nghĩa, kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng nền  thương mại trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Sưu tầm, hệ thống hóa, phân tích, phê phán tư liệu về quá trình xây dựng và phát  triển thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước;   khái quát một số vấn đề lý luận về thương nghiệp nói chung và thương nghiệp Xã hội Chủ  nghĩa nói riêng. Qua đó, một mặt là để hiểu về  mô hình xây dựng thương nghiệp của các  nước với các thể chế chính trị khác nhau, mặt khác, xác định được cơ sở để nhận định, phân   tích, đánh giá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với quá trình xây dựng và   phát triển thương nghiệp miền Bắc Việt Nam; Khái quát hoàn cảnh thế giới và trong nước  có tác động trực tiếp đến quá trình hình thành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà  nước Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa đối với thương nghiệp, đến quá trình xây dựng nền  thương nghiệp miền Bắc Việt Nam; Nghiên cứu quá trình tổ chức xây dựng và phát triển  thương nghiệp miền Bắc Việt Nam (1965 ­ 1975); Từ thực tiễn lịch sử đó, đánh giá được   vị trí, vai trò của thương nghiệp miền Bắc đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ  miền  Bắc Xã hội Chủ nghĩa, cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước và làm nghĩa  vụ quốc tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượ ng Đối   tượ ng   nghiên  cứu  của   luận  án  là   thươ ng   nghiệp  miền  B ắc   Vi ệt   Nam.   Trong   đó,   tập   trung   nghiên   cứu   các   vấn   đề   sau:   Nghiên   cứu   về   quan   điểm,   chủ  trươ ng, chính sách của Đảng và Nhà nướ c về  thươ ng nghiệp; t ổ chức và mạ ng lướ i  thươ ng nghiệp của mi ền B ắc; ho ạt động thươ ng nghiệp: Bao g ồm c ả  N ội th ươ ng   và   Ngoại   thươ ng.   Trong   đó   làm   rõ   các   thành   phần   kinh   t ế   thươ ng   nghi ệp   nh ư  thươ ng   nghiệp   qu ốc   doanh,   h ợp   tác   xã   mua   bán,   thươ ng   nghiệp   tư   b ản   t ư   nhân   nhưng chủ  yếu t ập trung nghiên cứu về  thươ ng nghiệp nhà nướ c;  thành tựu và hạn  chế của quá trình xây dựng, phát triển thương nghiệp miền Bắc. 3.2. Phạm vi ­   Về   nội  dung:  Các   điều   kiện  tác   động   đến  việc   hoạch  định  đường  lối,   chủ  trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương nghiệp;  quá trình xây dựng và  phát triển thương nghiệp miền Bắc; các thành tựu, hạn chế của quá trình đó. Trong đó,  nội dung trọng tâm vẫn là hoạt động thương nghiệp bao gồm cả  nội thương và ngoại  6
  7. thương. ­ Về  thời gian: Từ  năm 1965 ­ 1975, khi đế  quốc Mỹ  tiến hành chiến tranh phá  hoại ra miền Bắc, thương nghiệp xây dựng và phát triển trong điều kiện cả  nước có   chiến tranh.  ­  Về  không gian: Không gian hoạt  động  là  miền  Bắc  Việt Nam.  Tuy  nhiên,  ngoài hoạt động nội thương diễn ra tại mi ền B ắc thì hoạt động ngoại thương diễn ra   ở  các nước đối tác trên ba khu vực là các nước Xã hội Chủ  nghĩa, các nước Tư  bản   Chủ nghĩa và Dân tộc Chủ nghĩa. 4. Cơ sở phương pháp luận; Phương pháp nghiên cứu; Nguồn tư liệu 4.1.  Cơ sở phương pháp luận ­ Luận án được xây dựng và đánh giá dựa trên cơ sở lý luận Mác xít về kinh tế nói  chung và kinh tế thương nghiệp nói riêng. ­ Quan điểm duy vật lịch sử là cơ  sở  phương pháp luận của tác giả; chủ  trương,  đường lối của Đảng về cách mạng Việt Nam nói chung và thương nghiệp nói riêng đóng  vai trò nền tảng cho tác giả trong việc phân tích và đánh giá vấn đề. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, tác   giả  có vận dụng phương pháp phân tích, so sánh; phương pháp tổng hợp và phê phán tư  liệu. Trong một số phần của luận án, tác giả  có sử  dụng một số  phương pháp của Xã  hội học để điều tra, phỏng vấn nhân chứng, phỏng vấn chuyên gia nhằm bổ sung thông  tin, tư  liệu đối với các mảng còn trống trong việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu của  luận án. 4.3. Nguồn tư liệu: Các tác phẩm lí luận của các nhà Mác xít; Hệ thống văn kiện của Đảng Lao động   Việt Nam, Hồ Chí Minh toàn tập; Các bài viết, nói của lãnh tụ, của lãnh đạo Đảng, Nhà  nước… Các báo cáo, tổng kết lưu trữ  tại Trung tâm lưu trữ  Quốc gia (chủ  yếu là từ  Trung tâm lưu trữ Quốc gia III ­ Hà Nội), của các Bộ; các viện nghiên cứu kinh tế… là tư  liệu quan trọng nhất nhằm tái hiện quá trình xây dựng thương nghiệp  ở miền Bắc và là  cơ sở để đánh giá những thành tựu, hạn chế; các công trình nghiên cứu liên quan đã xuất  bản  ở  trong và ngoài nước; phỏng vấn nhân chứng, phỏng vấn chuyên gia; các tài liệu  khoa học trên Internet, báo chí và các tư liệu khác… 5. Đóng góp khoa học của luận án Tập hợp, hệ  thống hóa, phân tích, phê phán tư  liệu liên quan đến quá trình xây   7
  8. dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống   Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 ­ 1975. Tái hiện bức tranh toàn cảnh của thương nghiệp  miền Bắc giai đoạn 1965 ­ 1975, khi cả nước có chiến tranh, rút ra một số đặc điểm, ý  nghĩa và kinh nghiệm. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng trong việc tìm hiểu,   nghiên cứu về lịch sử Việt Nam giai đoạn này nói chung và lịch sử thương nghiệp miền Bắc  Việt Nam nói riêng. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Phụ  lục và Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4  chương:Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu; Chương 2: Thương nghiệp miền Bắc   trong những năm 1965 ­ 1968;  Chương 3: Thương nghiệp miền Bắc trong những năm   1969 ­ 1975; Chương 4: Đặc điểm, ý nghĩa, kinh nghiệm CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Một số vấn đề về thương nghiệp 1.1.1. Lý luận về Thương nghiệp Khái niệm về Thương nghiệp Theo Từ điển tiếng Việt, “thương nghiệp” hay“thương mại” đều có nghĩa là hoạt  động mua bán, trao đổi hàng hóa. Luật Thương mại năm 2005 đã định nghĩa về thương mại như sau:  Hoạt động thương   mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu   tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.  Luận án này sẽ tập trung nghiên cứu về thương nghiệp trong một giai đoạn đặc   biệt của miền Bắc Việt Nam, giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ  cứu nước diễn ra   trên phạm vi cả nước (1965 ­ 1975). Trong giai đoạn đó, lý luận về thương nghiệp và các  vấn đề liên quan đến thương nghiệp đều chịu sự ảnh hưởng bởi quan điểm của các nhà  lý luận Mác xít, cơ  bản, có 3 luận điểm cơ bản như  sau: Một là, thương nghiệp là hoạt  động mua bán, thực hiện quá trình lưu thông do sức sản xuất phát triển và do nhu cầu của   xã hội.  Hai là, thương nghiệp Xã hội Chủ  nghĩa  là một loại thương nghiệp đặc biệt,   khác nhiều so với tính chất hàng hóa ­ tiền tệ  của các nước Tư  bản Chủ  nghĩa; chỉ  trong hoạt động ngoại thương, thương nghiệp mới mang yếu t ố hàng hóa. Ba là, việc  mở  rộng phạm vi của hoạt động thương nghiệp sẽ  kìm hãm sự  phát triển của C hủ  nghĩa Xã hội. Những quan điểm này, xuyên suốt trong tư tưởng các nhà lý luận của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin. Từ  đó, việc hoạch định đường lối cho phát triển thương nghiệp  ở  các nước Xã hội Chủ nghĩa về sau đều bị chi phối bởi tư tưởng  này. 8
  9. Suốt hơn 70 năm xây dựng và phát triển hệ thống X ã hội Chủ nghĩa thực tiễn, trên  lĩnh vực lý luận về  kinh tế  nói chung và thương nghiệp nói riêng, vừa phản ánh quan  điểm của các nhà lý luận Mác xít trước đó, vừa có sự tổng kết, rút kinh nghiệm của  quá  trình các Đảng Cộng sản tổ  chức xây dựng nền kinh tế  quốc gia, lý luận về  kinh tế  nói   chung và thương nghiệp nói riêng ít nhiều có sự điều chỉnh, bổ sung nhất định. Nhưng xét  về cơ bản, các Đảng Cộng sản vẫn giữ nguyên tư duy cũ, tiếp tục áp dụng mô hình quản lý  bao cấp nên lý luận về thương nghiệp và mô hình tổ chức không có sự thay đổi lớn nà o. Các  quan điểm này, hình thành trước hết là  ở  Liên Xô, sau đó, cùng với sự  mở  rộng của hệ  thống Xã hội Chủ  nghĩa, đã trở  thành quan điểm chi phối trong lý luận, tổ  chức thương   nghiệp của các nước thành viên.  Luận án này, sẽ tiếp cận khái niệm thương nghiệp theo quan điểm được nêu trong  văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, bắt đầu bằng các Nghị  quyết của Đại hội III  của Đảng Lao động Việt Nam (9 ­ 1960). 1.1.2. Nghiên cứu vấn đề  thương nghiệp trong bối cảnh miền Bắc Việt Nam   giai đoạn 1965 ­ 1975 ­ Đặt vấn đề  nghiên cứ  trong bối cảnh  cả  nước có chiến tranh là hoàn cảnh chi   phối toàn bộ các chủ trương, chính sách của miền Bắc Việt Nam thời điểm đó. Thương   nghiệp trong bối cảnh đó đóng vai trò như một mặt trận của cuộc kháng chiến, một bộ  phận của hậu phương miền Bắc trước khi mang ý nghĩa là một ngành kinh tế.  ­ Mặt khác, quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc Việt Nam   giai đoạn 1965 ­ 1975 diễn ra trong bối cảnh quốc tế đặc biệt. Thế giới bị phân chia bởi   hai khối Đông ­ Tây và hai cực Xô ­ Mỹ. Chiến tranh lạnh ­ biểu hiện của cuộc chạy đua  vũ trang và xung đột quốc tế  đã tác động đến hầu hết các vấn đề  diễn ra trên thế  giới  suốt nửa sau thế kỷ XX. Cách mạng Việt Nam nói chung và lịch sử  quá trình xây dựng,   phát triển thương nghiệp miền Bắc giai đoạn này không nằm ngoài sự chi phối của bối  cảnh đó. 1.2. Tổng quan các công trình liên quan đến đề tài luận án 1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về thương nghiệp ở trong nước ­ Công trình liên quan trực tiếp Qua nghiên cứu thấy rằng, đến nay, đã có các công trình chính như  sau: Kinh tế  thương nghiệp Việt Nam  của tác giả  Nguyễn Viết Châu, được Nhà Xuất bản  Bộ  Nội  thương  ấn hành năm 1963;  Kinh tế  thương nghiệp Việt Nam Dân chủ  Cộng hoà; Nhà  Xuất bản  Giáo dục. H. 1963 của Lê Hữu Chỉnh;  Kinh tế  thương nghiệp Xã hội Chủ  nghĩa. H. 1969 của Trường Đại học Kinh tế kế hoạch (tức trường Đại học Kinh tế Quốc   dân ngày nay); 30 năm xây dựng và phát triển thương nghiệp X ã hội Chủ nghĩa Việt Nam  1951 ­ 1981. H. 1981 của Bộ Nội thương; 35 năm kinh tế Việt Nam (1945 ­ 1980). H. 1980  của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, do GS. Đào Văn Tập chủ  biên; 45 năm kinh tế   Việt Nam  của Viện Kinh tế, Nhà Xuất bản  Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992;  Kinh tế   9
  10. thương nghiệp Việt Nam  của GS. Nguyễn Mại. Nhà Xuất bản  Đại học và Trung học  chuyên nghiệp, 1985; Lưu Văn Đạt: Ngoại thương Việt Nam từ năm 1955 ­  1975, tạp chí  Thương mại đăng trong số 9 (2 kỳ) năm 1995…  Đối với công trình của Nguyễn Viết Châu và Lê Hữu Chỉnh, được xem như những  công trình đầu tiên nghiên cứu về kinh tế thương nghiệp miền Bắc. Các công trình này,  được viết ra bởi các nhà hoạch định chính sách và quản lý (bản thân hai tác giả  là lãnh   đạo cao cấp, trực tiếp quản lý lĩnh vực ngoại thương và nội thương lúc bấy giờ).  Ưu   điểm là có hệ thống số liệu phong phú và có sức thuyết phục bởi sự gắn bó trực tiếp của   tác giả  với các vấn đề  về lịch sử thương nghi ệp giai đoạn này. Tác giả công trình cũng  đã làm rõ các vấn đề  lý luận, tổ  chức bộ máy và kỹ  thuật hoạt động tác nghiệp. Đồng  thời, đã trình bày được các hoạt động cơ bản của thương nghiệp trong giai đoạn nghiên   cứu. Việc tiếp cận được các công trình này đã giúp tác giả  có cách nhìn nhận toàn diện   hơn về  không gian tư  duy kinh tế và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta bấy giờ  về  tổ  chức, xây dựng thương nghiệp. Có thể nói, đây là những kết quả rất đáng ghi nhận và có  ý nghĩa đối với chúng tôi trong việc kế  thừa những nghiên cứu ban đầu đối với đối   tượng của Luận án. Song,  trong các công trình này, các tác giả  nhìn chung, chưa thoát ra khỏi những  chế  định của tư  tưởng kinh tế, mô hình kinh tế  và tư  duy quản lý cũ. Một số  nội dung   nêu ra trong công trình, ngoài việc đánh giá trên cơ sở lý luận thương nghiệp cũ thì cách   tiếp cận nhiều khi mang yếu tố  tô hồng thực trạng tình hình. Điều này, ít nhiều có  ảnh  hưởng đến nội dung khoa học của công trình nghiên cứu đó. Chính vì lý do này, việc tiếp  cận và sử dụng tài liệu này sẽ có ý nghĩa nhiều ở sự tham khảo về mặt số liệu (sau kh i  đối chiếu với hệ thống số liệu được lưu trữ tại kho lưu trữ quốc gia) và một số vấn đ ề  bối cảnh khi đề ra chính sách hơn là tiếp nhận ở cách đánh giá vấn đề. Mặt khác, hai tài   liệu này là giáo trình cho các trường thuộc khối kinh tế  như  trường Kinh tế Kế hoạch,   Thương nghiệp Trung  ương giảng dạy và học tập nên nội dung  mang tính khái quát lý  luận, không phải là công trình nghiên cứu chuyên khảo về  kinh tế  thương nghiệp, đặc  biệt là ít tập trung nghiên cứu về thực trạng thương nghiệp miền Bắc. Công trình nghiên cứu có đề  cập nhiều nhất đến thương nghiệp có:  Lịch sử kinh   tế Việt Nam (1945 ­ 2000) và Tư duy kinh tế Việt Nam ­ Những chặng đường gian nan và   ngoạn mục 1975­1989 (Nhà Xuất bản Tri thức, H. 2008) đều của tác giả Đặng Phong, ở  Viện Kinh tế Trung  ương, chủ biên. Đây là hai công trình đã khái quát lịch sử phát triển  của tư  tưởng kinh tế, hoạt động kinh tế  Việt Nam từ  khi ra đời cho đến trước thời kỳ  đổi mới. Trong đó, cuốn  Lịch sử  kinh tế  Viêt Nam  có đề  cập khá rõ nét đến thương  nghiệp miền Bắc giai đoạn 1965­1975. Trong tác phẩm này, tác giả  Đặng Phong đã có   những nghiên cứu khá toàn diện tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam   thời kỳ 1954 ­ 1975, cả hai miền Nam, Bắc. Trong đó, mảng nghiên cứu về tình hình kinh   10
  11. tế  miền Bắc có thể  được coi là công trình toàn diện nhất từ  trước đến nay. Thương   nghiệp trong tác phẩm đó, được nghiên cứu riêng một chương, trình bày khá toàn diện  mọi mặt từ  hoàn cảnh tác động, chủ  trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về  thương nghiệp, trình bày hệ  thống tổ chức, phân phối, có số liệu của cả  nội thương và   ngoại thương… Qua chương đó, tác giả của công trình đã thể hiện khá rõ quan điểm cá  nhân trong việc đánh giá về những thành tựu, hạn chế của thương nghiệp miền Bắc giai  đoạn này. Có thể coi, tác phẩm của Đặng Phong là một trong rất ít công trình nghiên cứu đầy  đủ  và khách quan nhất về  thương nghiệp trong suốt thời kỳ  miền Bắc xây dựng Chủ  nghĩa Xã hội và tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và giai đoạn 1965  ­ 1975 nói riêng.  Tuy nhiên, do các tài liệu này không phải là công trình chuyên khảo nên lĩnh vực  Thương nghiệp chưa được đầu tư  nghiên cứu  sâu hơn. Hơn nữa, khi thương nghiệp  miền Bắc bước vào giai đoạn vừa xây dựng vừa tiến hành kháng chiến chống Mỹ  trên   phạm vi cả nước thì tính chất kinh tế trong kinh tế thương nghiệp càng ít dần nên tác giả  Đặng Phong đã không khắc họa được những tác động mạnh mẽ  của hoàn cảnh đối với  việc thay đổi đường lối, chủ trương, chính sách, hoạt động đối với thương nghiệp miền   Bắc giai đoạn đó. Nói cách khác, thương nghiệp trong cách tiếp cận của tác giả  Đặng  Phong phần nhiều được nhìn nhận dưới góc độ  là một ngành kinh tế  hơn là một mặt  trận của cuộc kháng chiến. Trong khi đó, cuốn Tư  duy kinh tế  Việt Nam ­ Những chặng đường gian nan và   ngoạn mục 1975 ­ 1989, mặc dù không trực tiếp trình bày về  hoạt động thương nghiệp  nhưng lại nêu bật khá rõ nét sự  thay đổi tư  duy kinh tế  (trong đó có kinh tế  thương   nghiệp) của các lãnh đạo cao cấp trong Đảng, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách   trong các Viện nghiên cứu kinh tế hàng đầu miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Qua công   trình này, tác giả có thể có được thông tin rất tốt cho việc nhận thức đầy đủ hơn về quan   điểm, chủ trương của lãnh đạo Đảng, Nhà nước lúc bấy giờ về thương nghiệp. Nhờ đó,  tác giả  thấy và hiểu hơn về  những sự  trăn trở  của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước   Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa đối với kinh tế  nói chung và thương nghiệp nói riêng.  Dường như, lúc đó, chúng ta bị  chi phối giữa hai luồng tác động, một bên là quan điểm  của các nhà lý luận Mácxít từ nước ngoài, một bên là thực tiễn của công cuộc xây dựng  nền thương nghiệp miền Bắc trong bối cảnh cả nước có chiến tranh, đã và đang đặt ra  rất nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu. Càng nghiên cứu, chúng ta sẽ càng thấu hiểu, cảm   thông hơn sự hạn chế không thể tránh khỏi của các nhà lãnh đạo, của những người trực   tiếp tổ  chức và điều hành hoạt động thương nghiệp (và chắc là cả  những cán bộ,  nhân  viên tác nghiệp trên lĩnh vực đó) trong việc nắm lý luận và vận dụng lý luận đó vào thực   tiễn miền Bắc nước ta trong giai đoạn này.  11
  12. Qua quá trình khảo cứu thấy rằng, các công trình trong nước nghiên cứu về lịch sử  thương nghiệp miền Bắc Việt Nam khá khiêm tốn. Có lẽ, vì mục tiêu chiến lược của cả  dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này là kháng chiến, thống nhất nước nhà nên những  mảng về  kinh tế  không được quan tâm đúng mức. Cho đến sau này, các nghiên cứu về  mảng này không có nhiều tư  liệu và ít được  ưu tiên. Hầu hết những tài liệu ghi nhận  được về  thương nghiệp giai đoạn này là các hệ  thống số liệu gốc từ  trung tâm lưu trữ,   các công trình nghiên cứu chủ yếu mang tính chất tổng kết một giai đoạn lịch sử nào đó  của các nhà lãnh đạo ngành thương nghiệp hơn là những công trình độc lập hay chuyên  khảo. Tuy vậy, các công trình này, tuỳ  mức độ  có liên quan trực tiếp đến đối tượng  nghiên cứu của luận án. Tác giả đã kế thừa được khá nhiều kết quả nghiên cứu và vận   dụng vào việc tái hiện và đánh giá đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như  thực tiễn hoạt động của ngành thương nghiệp trong mười năm cuối của cuộc chiến  tranh. ­ Công trình liên quan gián tiếp: Tập thể  tác giả   ở  Viện Lịch sử  Quân sự  Việt Nam đã hoàn thiện một công trình  nghiên cứu lớn về Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước . Đây là một công trình  quy mô, được đầu tư, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Trong đó, tập 4,  Cuộc đụng   đầu lịch sử, và tập 7, Thắng lợi quyết định năm 1972, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia  Hồ  Chí Minh  ấn hành năm 2013, ít nhiều đề  cập đến lĩnh vực kinh tế  nói chung và  thương nghiệp nói riêng. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khác như Xây dựng và phát   huy sức mạnh hậu phương trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945   ­  1975),  tài liệu  lưu trữ tại Thư viện Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam ­ LA.48 năm 1995, cuốn Tổng kết   Hậu cần trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 ­ 1975),  Nhà Xuất bản Quân đội  Nhân dân. Hà Nội của Tổng Cục Hậu cần (1995), cuốn   Tổng kết cuộc kháng chiến   chống Mỹ, cứu nước ­ Thắng lợi và bài học  của Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực   thuộc Bộ Chính trị, được Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản năm  1995 hay cuốn Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995 ­ 2000) của Đại học Quốc gia  ấn hành năm 2000, cuốn Hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước   1954 ­ 1975,  Nhà Xuất bản  Chính trị  Quốc gia xuất bản năm 2009 của Nguyễn Xuân  Tú… có đề cập đến lĩnh vực thương nghiệp miền Bắc Việt Nam giai đoạn này ở những   góc độ  khác nhau. Trong đó, công trình của Tiến sỹ  Nguyễn Xuân Tú có nhiều số  liệu  liên quan đến kinh tế, đặc biệt là gắn các số  liệu đó với hậu phương miền Bắc trong   chiến tranh.  Tuy nhiên, rất khó để có thể phân tách được các số liệu kinh tế thương mại với các   số liệu chung về hậu phương miền Bắc cung  ứng cho miền Nam kháng chiến. Một mặt,   bản thân thương nghiệp được coi là một mặt trận của cuộc kháng chiến, nhưng mặt khác,  12
  13. quan điểm về thương nghiệp lúc bấy giờ có nhiều điểm khác biệt. Thương nghiệp không   mang nặng yếu tố  buôn bán kiếm lời mà là người nội trợ  của toàn xã hội, là kênh huy  động nguồn lực và phân phối sản phẩm. Chính vì lẽ  đó, một số  hàng hóa đặc biệt của  quân đội nhưng cũng được nhập cảng về Việt Nam thông qua con đường mậu dịch , vay  nợ và viện trợ… Các công trình này, cơ bản đề cập đến thương nghiệp như một phần của   hậu phương cách mạng, là một mặt trận của cuộc kháng chiến hơn là xét đến với tư cách   là một ngành kinh tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên cũng đã giúp tác giả có được một cái nhìn toàn cảnh  hơn về tình hình chung của Việt Nam, trong đó có kinh tế miền Bắc dưới tác động của   hoàn cảnh trong và ngoài nước. Tác giả  nhận thấy, việc nghiên cứu về  thương nghiệp  trong giai đoạn này không chỉ là hoạt động nghiên cứu về lịch sử kinh tế thương nghiệp   mà phải đặt trong bối cảnh quốc tế và trong nước để thấy sự tác động đến vị trí, vai trò,  chức năng, nhiệm vụ, tổ  chức, hoạt động của thương nghiệp có sự  biến đổi theo yêu   cầu của cách mạng Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng. Vì thế, mặc dù không   nghiên cứu trực tiếp đến các vấn đề kinh tế thương nghiệp chuyên biệt song các nghiên  cứu này đã cung cấp cho luận án một phông tư liệu tổng quan về các mối quan hệ quốc   tế, giữa hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam cũng như trong các   lĩnh vực của miền Bắc lúc bấy giờ. Thương nghiệp miền Bắc giai đoạn này, với tư cách  là một mặt trận của cuộc kháng chiến, sẽ nằm trong chỉnh thể chung đó. Căn cứ vào đối   tượng nghiên cứu của luận án, đặt thương nghiệp trong bối cảnh là một mặt trận của   cuộc kháng chiến, phục vụ kháng chiến thì những tư liệu này rất có ý nghĩa. 1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thương nghiệp miền Bắc Việt Nam   ở nước ngoài Các công trình nghiên cứu về  thương nghiệp miền Bắc Việt Nam  ở nước ngoài  rất ít. Có chăng, chỉ  là để  cập đến một số  vấn đề  kinh tế  hoặc chính sách kinh tế, tài  chính, thương mại của các bên liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam thời điểm đó như:   AID mission to Vietnam, Financial Management report Book, December 31,1974, prepared  by office of the Associate Director; Foreign Aid, War and Economic Development. South   Vietnam   1955­1979.  Cambridge   University   press,   1988.   Douglas   Dacy;  Economic   and   Financial in Vietnam do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành… Những tài liệu này,  phần nhiều là đánh giá hoặc báo cáo tình hình kinh tế  của Việt Nam Cộng hòa, các   thông tin về  kinh tế  miền Bắc nói chung và thương nghiệp nói riêng gần như  không   được đề cập.  Riêng cuốn Foreign Aid, War and Economic Development. South Vietnam 1955 ­ 1979  của Douglas Dacy là đề  cập rõ nhất về  tình hình kinh tế  miền Nam Việt Nam trong  suốt  cuộc chiến tranh và vài ba năm sau khi Việt Nam thống nhất. Tuy nhiên, tác giả này cũng   chỉ phân tích và cung cấp các số liệu của kinh tế miền Nam và viện trợ  của Mỹ  là chủ  13
  14. yếu. Hầu như không tìm thấy các cứ  liệu quan trọng nào của thương nghiệp miền Bắc   Việt Nam trong công trình này. Giá trị thực sự của những công trình này chủ  yếu ở yếu   tố  tham khảo, so sánh, đối chiếu quy mô nền kinh tế  hai miền Nam ­ Bắc trong chiến   tranh và mô hình kinh tế nói chung, thương nghiệp nói riêng của mỗi miền. Tác giả cũng đã tiếp cận được một số tư liệu liên quan đến việc thống kê số liệu   quan hệ  kinh tế  thương mại giữa Việt Nam Cộng hòa với Mỹ  cùng giai đoạn luận án  nghiên cứu. Những số liệu này được đăng trên các tạp chí chuyên ngành kinh tế  và các  báo cáo của Bộ Kinh tế dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, nhất là tài liệu của USOM và   FEER (các cơ quan chỉ đạo viện trợ của Mỹ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa). Đây  sẽ  là điều kiện để  chúng ta có thể  có những so sánh với việc viện trợ  của các nước  XHCN đối với miền Bắc. Đặc điểm của tài liệu này vừa là số liệu vừa có phân tích của  cơ  quan quản lý Quỹ  nên cũng có thể  làm tài liệu tham chiếu. Trên cơ  sở  đó, đánh giá,   phân tích được tính phụ thuộc của nền thương mại hai miền với các nước trong phe. Qua   đó, sẽ góp phần giúp chúng ta có điều kiện nhận định khách quan hơn về bản chất của   cuộc chiến tranh  ở Việt Nam cũng như  về  thực trạng nền thương mại miền Bắc trong   giai đoạn 1965 ­ 1975. Chúng tôi cũng đã cố gắng tiếp cận các công trình nghiên cứu về kinh tế, kinh tế  thương nghiệp có liên quan  ở  nước ngoài, cụ  thể  là  ở  Mỹ, Úc, Pháp, Hàn Quốc, Thái   Lan…nhưng chưa tiếp cận được các tài liệu liên quan. Trong lưu trữ của các nước này,  có khá nhiều tài liệu về kinh tế của Đông Nam Á, nhưng rất tiếc, luận án chưa tiếp cận  được thông tin nào liên quan đến miền Bắc Việt Nam. Có thể, lúc bấy giờ, do hoàn cảnh  chiến tranh và sự đối lập mang tính ý thức hệ, các nhà nghiên cứu nước ngoài khó có cơ  hội tiếp cận với kinh tế miền Bắc để nghiên cứu. Mảng tài liệu tiếng Nga, chúng tôi ghi nhận được một số công trình nghiên cứu về  miền Bắc giai đoạn đó. Tuy nhiên, các công trình này chủ  yếu thống kê một số số  liệu  liên quan đến việc viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Chúng tôi cũng đã sử dụng nguồn  tài liệu này vào xây dựng luận án như cuốn Ngoại thương Liên Xô: Tổng kết kế hoạch 5   năm lần thứ  9 và tương lai do Nhà xuất bản Sự  thật  ấn hành  ở  Moscow vào năm 1977,   hiện đang được lưu trữ tại Thư viện của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.   Nhưng công trình này, chỉ đề  cập đến một phần rất khái lược về  quan điểm và số  liệu  liên quan đến viện trợ và thương mại của Liên Xô đối với Việt Nam. Ngoài ra, chưa tiếp  cận được bất kỳ  công trình nào của Liên Xô nghiên cứu mang tính chuyên khảo về  thương nghiệp (hay rộng hơn là kinh tế) miền Bắc nước ta lúc bấy giờ. Mảng tài liệu tiếng Trung, chúng tôi chưa tiếp cận được công trình liên quan. Hơn  nữa, việc tiếp cận nguồn tài liệu tiếng Trung ở Trung Quốc rất khó khăn vì nhiều lí do,   đây có thể là một điểm thiếu sót của luận án nhưng chưa có khả năng khắc phục.  1.2.3. Những vấn đề khoa học đã và chưa được giải quyết 14
  15. ­ Các công trình trên đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau Một là, làm rõ bối cảnh của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và  kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam (cả trong nước và quốc tế). Trong đó, các   công trình đã nghiên cứu rất rõ những tác động tích cực và tiêu cực của hoàn cảnh đối  với cuộc cách mạng của nước ta trong giai đoạn đó. Hai là, các công trình này đã khái quát được quá trình xây dựng, phát triển kinh tế  chung của miền Bắc. Trong đó, thương nghiệp với tư  cách là một ngành kinh tế  cũng   được nghiên cứu  ở  mức độ  nhất định (rõ nét nhất là  ở  công trình của tác giả  Đặng   Phong). Ba là, một số công trình, các tài liệu còn lại của chế độ cũ, đặc biệt là các báo cáo   của nước ngoài, đã cung cấp những thông tin liên quan đến kinh tế miền Nam Việt Nam.   Điều này, ít nhiều cho phép chúng ta có những đánh giá khách quan, toàn diện hơn về  kinh tế nói chung và kinh tế thương mại của miền Nam nói riêng trong giai đoạn đó. Qua   đó, chúng ta sẽ  có những đánh giá, so sánh với tình hình thương nghiệp của miền Bắc   XHCN. ­ Các công trình trên chưa giải quyết được các vấn đề cơ bản sau Một là, các công trình trên chỉ mới tiếp cận thương nghiệp như một ngành kinh tế  đơn thuần, không nghiên cứu được một cách toàn diện thương nghiệp trong cuộc kháng   chiến chống Mỹ cứu nước; Hai là, chưa có công trình nào nghiên cứu rõ nét những vấn   đề  cơ bản của thương nghiệp miền Bắc như: Quan điểm về  thương nghiệp và thương  nghiệp XHCN; mô hình sở  hữu, quản lý, phân phối; mối quan hệ  của thương nghiệp   XHCN với thương nghiệp TBTD; giữa quản lí nội thương, độc quyền ngoại thương;   giữa nội thương và ngoại thương; vai trò của ngoại thương đối với thương nghiệp nói  chung và với công cuộc xây dựng CNXH, góp phần đánh bại hai cuộc chiến tranh phá  hoại của đế quốc Mỹ, chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam   và làm nghĩa vụ  quốc tế như  thế  nào; Ba là, các công trình cũng chưa chỉ rõ được những  thành tựu, hạn chế; đặc điểm, ý nghĩa và kinh nghiệm của quá trình đó. 1.3.4. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu Trên cơ  sở  phân tích, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến  đề tài, hướng nghiên cứu của Luận án sẽ tập trung giải quyết một số vấn đề  sau:  Khái  quát các quan điểm cơ bản của các nhà lý luận chủ nghĩa Mác ­ Lênin về kinh tế thương  nghiệp;  Khái quát đường lối, chủ  trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về  quá   trình xây dựng và phát triển thương nghiệp trong bối cảnh cả nước có chiến tranh; Tập  trung nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước  về  thương nghiệp trên các góc độ  từ  tư  duy kinh tế  thương nghiệp, mô hình tổ  chức,   hoạt động thương nghiệp, nghiên cứu mối quan hệ  giữa nội thương và ngoại thương,  giữa  thương nghiệp Nhà nước  với thương nghiệp  tư  bản tư  nhân, xác định vị  trí, vai  15
  16. trò, ý nghĩa của thương nghiệp đối với kháng chiến... Nghiên cứu các nội dung này phải  đặt trong bối cảnh thế giới và trong nước giai đoạn 1965  ­ 1975 để  nhìn nhận và đánh  giá khách quan, toàn diện vấn đề  nghiên cứu;  Qua đó, phải rút ra được đặc điểm, ý  nghĩa và kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển thương nghiệp miền Bắc   trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 ­ 1975. CHƯƠNG 2 THƯƠNG NGHIỆP MIỀN BẮC TRONG NHỮNG NĂM 1965 ­ 1968 2.1. Hoàn cảnh mới, chủ trương mới 2.1.1. Khái quát tình hình thươ ng nghi ệp mi ền B ắc Vi ệt Nam tr ước năm   1965 ­ Thương nghiệp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ 1945 đến 1954: Qua 9 năm kháng  chiến, đạt được một số  thành tựu nhất định nhưng  kết thúc cuộc chiến tranh, về  bản  chất, thương nghiệp kháng chiến vẫn là thương nghiệp của một nền kinh tế  tiểu nông   lạc hậu. ­ Thương nghiệp miền Bắc giai đoạn 1954 ­ 1964: Sau 10 năm xây dựng thương  nghiệp trong điều kiện hòa bình (1954 ­ 1964) đã đạt được một số  kết quả  đáng ghi  nhận. Có thể  coi đây là giai đoạn hoàng kim  của CNXH  ở  miền Bắc. Nhờ  những năm  xây dựng và phát triển toàn diện này, thế và lực của miền Bắc được tăng cường căn bản,   chủ  động và tự  tin tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào giai đoạn cao  trào. Thương nghiệp cũng góp phần đáng kể  vào những biến chuyển lớn đó của xã hội  miền Bắc. 2.1.2. Hoàn cảnh mới ­  Thế giới:  + Chiến tranh lạnh tiếp diễn, chi phối quan hệ quốc tế + Về  mô hình kinh tế  nói chung và thương mại nói riêng:Năm 1965,  Đảng Cộng  sản Liên Xô (tháng 3 và tháng 9) đã ra các nghị  quyết chuyên đề  về  chỉ  đạo phát triển   kinh tế. Đây là tiền đề để thực hiện một cuộc cải cách lớn trong lĩnh vực kinh tế ở Liên   Xô bắt đầu từ  năm 1965.  Tuy nhiên, cơ  bản Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình kế  hoạch hoá, tập trung, bao cấp ­ Việt Nam:Để cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam và  sự tác động mang tính dây chuyền, Mỹ đã ném bom miền Bắc, chiến tranh lan rộng ra cả  nước. Cả nước có chiến tranh là hoàn cảnh chi phối mọi hoạt động của miền Bắc Việt   Nam trong đó có thương nghiệp. 2.1.3. Chủ trương mới về thương nghiệp những năm 1965  ­ 1968 Tháng 6 năm 1965, Ban Bí thư đã ra chỉ thị   Về  việc chuyển hướng công tácthương   nghiệp trong tình hình mới, chỉ rõ 6 nhiệm vụ lớn: Một là, phục vụ đắc lực việc chuyển  16
  17. hướng xây dựng kinh tế, phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh cách mạng  khoa học kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân và phân công lao động mới trong xã  hội cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Hai là, phục vụ tăng cường quốc phòng,  phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, ra sức ủng hộ cách mạng miền Nam mọi mặt   và làm tròn nghĩa vụ  quốc tế. Ba là, góp phần đảm bảo tích lũy Nhà nước để  tiếp tục   thực hiện công nghiệp hóa XHCN. Bốn là, phục vụ tốt tiêu dùng trong tình hình mới với   phương hướng đảm bảo mức sống giản dị, tiết kiệm thích hợp với thời chiến nhưng   vẫn phải chú trọng bồi dưỡng sức lao động sản xuất và chiến đấu. Năm là, phục vụ việc  tiếp tục hoàn thành cải tạo XHCN, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tiếp tục  thực hiện cải tạo thương nghiệp tư doanh, kiên quyết chống đầu cơ, tích trữ, củng cố và  mở rộng thị trường XHCN thống nhất.  Sáu là, góp phần tích cực giải quyết tình trạng mất  cân đối trong nền kinh tế quốc dân, ổn định nền kinh tế trên cơ sở mới, ổn định thị trường,  giá cả và tiền tệ. [76;212­213] Đảng chủ trương: Các hoạt động thương nghiệp giai đoạn này làm nhiệm vụ hậu   cần cho sản xuất, chiến đấu. Các hoạt động xuất khẩu diễn ra ở mức độ  vừa phải, các  hoạt động ngoại thương chủ  yếu là nhập khẩu. Trong các hoạt động nhập khẩu, việc   dùng ngoại tệ  của Nhà nước để  trao đổi, mua bán hàng hóa phải được hạn chế. Đẩy   mạnh khập khẩu, trong đó cơ bản là tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước XHCN. Nhiệm vụ  của kinh tế đối ngoại nói chung và của ngoại thương nói riêng, trước  hết và chủ  yếu là tranh thủ  tới mức cao nhất viện trợ quốc tế, kịp thời đưa hàng nhập  khẩu về  nước để  tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, duy trì và phát triển sản   xuất, phục vụ chiến đấu, chi viện cho miền Nam. 2.2. Xây dựng thương nghiệp miền Bắc trong những năm 1965 ­ 1968 2.2.1. Thương nghiệp miền Bắc trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế   quốc Mỹ ­ Chuyển hướng hoạt động thương nghiệp  Cuối năm 1964, ngay sau khi Ban Chấp hành Trung  ương ra Nghị  quyết 10, Bộ  Nội thương và Ngoại Thương đã có nhiều biện pháp đưa nghị  quyết vào công tác chỉ  đạo, điều hành. Trung  ương Đảng có những điều chỉnh hợp lý về  thương nghiệp được  thể hiện trong Hội nghị lần thứ 11 (1965). Trong đó, qua ý kiến của hai Bộ, Chính phủ đã   có chỉ  đạo về  điều chỉnh kế  hoạch, bổ  sung hàng nhập khẩu khẩn cấp cho nhu c ầu  của cuộc kháng chiến trong tình hình mới; điều chỉnh tăng các chỉ  tiêu thu mua; rút   hoặc phân tán hàng  ở  các kho lớn, phân tán về  nông thôn, miền núi; đẩy mạnh việc   vận chuyển hàng hóa cho Khu 4, Tây Bắc, gấp rút tăng cường lượng dự trữ  Nhà nước  cho từng vùng, từng tỉnh.  Điều chỉnh lại mạng lưới phân phối của  mậu dịch quốc  doanh, giao thêm nhiệm vụ cho  hợp tác xã mua bán để không chỉ phục vụ nhân dân tại  chỗ mà còn phục vụ nhu cầu của nhân dân các nơi về sơ tán. 17
  18. Bước vào năm 1966 ­ 1967, Chính phủ chủ trương phải đảm bảo 3 yêu cầu cơ bản  sau: “Một là, ra sức động viên mọi lực lượng, phát huy mọi khả năng; đảm bảo yêu cầu   của chiến tranh để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược; hai là, đảm bảo các nhu cầu thiết   yếu về đời sống, bồi dưỡng sức dân để sản xuất và chiến đấu lâu dài; ba là, qua sản xuất   và chiến đấu, làm cho nền kinh tế của ta thêm lớn mạnh” [23;10]. ­ Tổ chức xây dựng và phát triển thương nghiệp trong tình hình mới Về  Nội thương:  Bao gồm  thương nghiệp quốc doanh,  hợp tác xã  mua bán và  thương nghiệp tư bản tư nhân. Thương nghiệp quốc doanh Với công tác phòng chống chiến tranh phá hoại: Mạng lưới  thương nghiệp quốc  doanh được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thời chiến. Các cơ sở  mậu dịch quốc  doanh  ở  các thành phố, thị  xã được di chuyển về  khu vực nông thôn và ngoại thành.   Ngành thương nghiệp đã phân tán được hệ thống kho tàng, hàng hóa, hạn chế được thiệt  hại do địch gây ra. Tính trong thời gian từ 1965 ­ 1968, “tổng số thiệt hại do địch gây ra   là 26,498 triệu đồng, trong đó 15,343 triệu đồng là tài sản cố  định, còn trên 11 triệu   đồng là vật tư, hàng hóa và tiền mặt” [35;1]. Đầu vào của thương nghiệp quốc doanh: Để  đảm bảo thực hiện nhiệm vụ phân  phối, thương nghiệp quốc doanh phải gia tăng việc nắm nguồn hàng, tăng tối đa đầu vào  cho quá trình cung  ứng. Có ba nguồn hàng chủ yếu: Nhập khẩu qua viện trợ, vay nợ và  mậu dịch; các xí nghiệp quốc doanh và các cơ  sở gia công giao nộp sản phẩm; thu mua   nông sản của các hợp tác xã nông nghiệp, nghề cá, muối và HTX tiểu thủ công nghiệp…  Đầu ra  của thương nghiệp quốc doanh:  Có 4 khoản mục chính là cấp phát trực  tiếp; bán lẻ  theo chế  độ  cung cấp định lượng; bán lẻ  theo chế  độ  cung cấp không định  lượng và bán lẻ bình thường. Hợp tác xã mua bán Hợp tác xã mua bán đóng vai trò là trợ thủ đắc lực của mậu dịch quốc doanh, chịu   trách nhiệm bán lẻ ở thị trường nông thôn và các điểm tập trung dân cư ở nông thôn. Sự  phát triển của hợp tác xã mua bán phụ thuộc vào sự phát triển của quan hệ sản xuất Xã  hội Chủ  nghĩa và lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, phụ  thuộc vào điều kiện sống  và tổ chức lao động ở nông thôn. Đây cũng là quá trình thực hiện phân công lao động hợp  lý giữa các hình thức thương nghiệp Xã hội Chủ nghĩa, phát huy được tốt hơn vai trò của   từng thành phần trong phục vụ sản xuất và đời sống.  Hợp tác xã mua bán trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại có 5 nhiệm vụ chính: Một là, làm đại lý bán hàng công nghiệp cho thương nghiệp quốc doanh  ở  thị  trường nông thôn. Hai là, nhận ủy thác thu mua nông sản, thực phẩm cho thương nghiệp   quốc doanh. Ba là, kinh doanh hàng ngoài diện, ngoài mức kế hoạch của Nhà nước, bằng   18
  19. cách khai thác nguồn hàng tiềm tàng trong nông thôn một cách linh hoạt để bổ sung cho thị  trường có tổ chức. Đây là một nhiệm vụ khẩn cấp của hợp tác xã mua bán trong giai đoạn   này khi mà việc khai thác nguồn hàng trở thành nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của ngành  thương nghiệp.  Bốn là, góp phần cải tạo thị  trường nông thôn, cải tạo người buôn bán  nhỏ. Năm là, cung ứng một phần hàng tiêu dùng cho nhân dân thành phố sơ tán về các xã ở  nông thôn. Thương nghiệp tư bản tư nhân và Thị trường tự do Thương nghiệp  tư  bản tư  nhân  hoạt động gắn với thị  trường tự  do. Về  mặt lý  thuyết, thương nghiệp tư bản tư  nhân và thị trường tự do sẽ không thể hiện diện trong   thị  trường  Xã hội Chủ  nghĩa.  Ở  miền Bắc giai đoạn này, mặc dù, Nhà nước cố  gắng  thắt chặt thị trường tự do, độc tôn thương nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên  nhân khác nhau, thị trường tự do, trong đó có chợ, đã xuất hiện trở lại khá phổ biến cả ở  nông thôn và thành thị. Thị  trường tự  do có cơ  hội phát triển song hành với hệ  thống   thương nghiệp quốc doanh và tập thể.  Thị trường tự do có hai bộ phần gồm thị trường tự do có tổ  chức và thị  trường tự  do không có tổ chức. Trong thị trường tự do, đặc biệt là thị trường không có tổ  chức, tệ  đầu cơ, tích trữ hàng hóa diễn ra thường xuyên. Một số mặt hàng thuộc độc quyền quản   lý của nhà nước cũng được bán bất hợp pháp tại các chợ này.  Về Ngoại thương: Bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu. Phương châm ngoại thương là: Tranh thủ sự giúp đỡ nhưng vẫn phải nêu cao tinh thần   tự  lực cánh sinh.“Chúng ta sử dụng tốt sự giúp đỡ  của các nước anh em, đồng thời phải   phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh để xây dựng một nền kinh tế tự chủ và phải góp   phần tích cực của ta vào sự hợp tác của các nước anh em” [66;536]. Hoạt động xuất, nhập khẩu của thương nghiệp miền Bắc trong giai đoạn này do  Nhà nước độc quyền; cơ chế xuất nhập khẩu chủ yếu là vay nợ  và viện trợ; Nhà nước   bao cấp các hoạt động ngoại thương. Hoạt động xuất khẩu: Do chiến tranh phá hoại của Mỹ, sản xuất bị  đình đốn và tổn hại nghiêm trọng.  Trước tình hình đó, Chính phủ  đã có chủ  trương chuyển dịch kinh tế, tăng cường phát  triển các ngành phục vụ  trực tiếp cho sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu. Do vậy, hoạt  động xuất khẩu giai đoạn này bị  ngưng trệ. Giá trị  xuất khẩu hàng năm bị  giảm  dần.  Năm 1964 xuất khẩu 97,1 tri ệu rúp, năm 1966 xuất khẩu 67,8 tri ệu rúp đến năm 1968  chỉ còn xuất khẩu 42,7 tri ệu rúp [82;498]. Tổng c ộng 4 năm (1965 ­ 1968 ) “kim ngạch   xuất khẩu đượ c 247 triệu rúp, bình quân mỗi năm đạt 61,8 triệu rúp bằng 73% giai   đoạn 1961­1964 và bằng 105% giai đoạn 1958­1960. Nếu so v ới kim ngạch xu ất nh ập   19
  20. khẩu thì bằng 16,5 %  và bằng 4% giá trị  sản lượ ng công nông nghiệp. Trong đó, tỷ   trọng các nhóm hàng hóa: Công nghiệp nhóm A chiếm 19,6% kim ngạch xu ất kh ẩu,   công   nghiệp   nhóm   B   chiếm   57,6%   trong   đó   thủ   công   nghiệp   trên   33%.   Nông   sản   nguyên dạng chiếm 22,8% kim ng ạch xu ất kh ẩu”  [82;499]. Thị  trường xuất khẩu bao gồm ba nhóm nước: khu vực 1 (bao gồm các nước  Xã  hội Chủ  nghĩa), khu vực 2 (các nước Tư  bản Chủ  nghĩa), khu vực 3 là các nước khác.  Trong đó khu vực 1 chiếm 80% lượng hàng xuất khẩu. Liên Xô là đối tác xuất khẩu  chính của miền Bắc với ½ giá trị hàng xuất khẩu vào thị trường khu vực 1 và 40% lượng  giá trị xuất khẩu của miền Bắc Việt Nam.  Về mặt hàng xuất khẩu: bao gồm 3 mặt hàng cơ bản: Công nghiệp A (chủ yếu là  khoáng sản), công nghiệp B (thủ công nghiệp và nông lâm sản chế biến), nông sản thô.  Trong đó tỷ  trọng công nghiệp A và nông sản thô có chiều hướng giảm mạnh. Công   nghiệp B tăng nhanh. Nhập khẩu Giai đoạn này, miền Bắc nhập khẩu từ 3 nguồn: Các nước Xã hội Chủ nghĩa, Tư  bản Chủ nghĩa và Dân tộc Chủ nghĩa. Trong đó, khu vực các nước Xã hội Chủ  nghĩa có  Liên Xô, Trung Quốc, CHDC Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungari, Rumani, Triều Tiên, Cu  Ba, Mông Cổ… Khu vực các nước Tư  bản Chủ  nghĩa có Pháp, Nhật, Thuỵ  Điển, Thuỵ  Sỹ, Na Uy, Tây Đức. Các nước Dân tộc Chủ nghĩa chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nhập   khẩu lớn nhất là từ  các nước XHCN; Trong khối các nước XHCN, Liên Xô và Trung   Quốc là hai nước chiếm tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu lớn nhất của miền Bắc Việt Nam   (97% lượng giá trị nhập khẩu là từ  các nước  Xã hội Chủ nghĩa, trong đó riêng Liên Xô  là khoảng 40% và Trung Quốc ­ 38% ) [82;482]. Nhập khẩu của miền Bắc bấy giờ, phản ánh rất rõ nét sự phụ thuộc của nền kinh   tế của miền Bắc đối với các nước Xã hội Chủ nghĩa khác. Hàng nhập khẩu có 5 nhóm chính là: Nguyên nhiên vật liệu, hàng tiêu dùng, dụng   cụ  phụ  tùng, thiết bị  lẻ  và thiết bị  toàn bộ. Nhập khẩu  hàng nguyên nhiên, vật liệu và  hàng  tiêu dùng  là chủ  yếu. Tỷ  trọng của hàng tiêu dùng đến năm 1968 đã chiếm 33%   lượng giá trị hàng nhập khẩu. Trong khi đó, khác với giai đoạn trước (1960 ­ 1964), giá trị  thiết bị toàn bộ và kỹ thuật có tăng song tỷ trọng của nó trong nhập khẩu lại giảm mạnh.  Kim ngạch xuất nhập khẩu mất cân đối nghiêm trọng. Nhập siêu trở thành căn bệnh  mãn tính của nền thương nghiệp miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn này. Đặc biệt, năm  1968, nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu lên đến 12 lần (xuất: 42.900.000 R; nhập: 465.700.000   R). 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2