intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử Việt Nam: Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955-1975

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:30

124
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu với các mục tiêu: góp phần xác định một số khái niệm và thuật ngữ nằm trong hệ thống đề tài nghiên cứu, phân loại các biện pháp trong chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955-1975 và nêu đặc điểm, tính chất của chính sách này; góp phần đánh giá đúng vai trò, vị trí kinh tế - xã hội của người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử Việt Nam: Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955-1975

  1. Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. LÊ HUỲNH HOA 2. PGS. TS. PHAN AN Phản biện 1: PGS. TS. PHAN XUÂN BIÊN Phản biện 2: PGS. TS. NGUYỄN VĂN TIỆP Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại: Trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh vào hồi….…giờ….….ngày…….tháng……năm………. Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. Thư viện Trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Thư viện Khoa Học Xã Hội – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh 3. Thư viện Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh
  2. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người Hoa  ở Việt Nam là một tộc người có tỉ lệ khá đông so  với những tộc người khác, ngoài tộc người Kinh. Lịch sử  hình thành  cộng đồng của người Hoa  ở Việt Nam cũng có những thăng trầm gắn  liền với bối cảnh của từng chính quyền thống trị  trong lịch sử  Việt   Nam. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), các quốc gia Đông Nam   Á vừa giành được độc lập về  chính trị  và cố  gắng giành độc lập về  kinh tế  trong bối cảnh phải thoát khỏi  ảnh hưởng kinh tế  của yếu tố  “ngoại kiều”, mà chủ yếu là Hoa kiều. So với các nước ở Đông Nam Á,  sau năm 1954, vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam phức tạp hơn.  Mặc dù,  đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả  trong và ngoài nước  nghiên cứu nhiều khía cạnh liên quan đến cộng   đồng người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam  giai đoạn 1955 – 1975 nhưng   đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống và toàn diện   chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa  ở   miền Nam  Việt Nam cùng tác động nhiều mặt cũng như lý giải nguyên nhân vì sao   chính sách đó ra đời. Từ ý nghĩa trên, chúng tôi chọn đề tài: “Chính sách   của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam   giai đoạn 1955 – 1975” làm Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt   Nam; Mã số 62 22 03 13.  2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xử lí nguồn tư liệu liên quan đến các nội dung cơ bản trong chính sách   đối với người Hoa của chính quyền Sài Gòn qua một số  khía cạnh chủ  yếu:   quốc tịch, kinh tế, tổ chức xã hội, giáo dục, báo chí.  Hệ   thống,   hoàn   chỉnh   nội   dung   cơ   bản   trong   chính   sách   của   chính   quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975.  
  3. 4 Lý giải nguyên nhân hình thành cùng những tác động nhiều mặt của các biện  pháp đó. Xây dựng một bức tranh toàn diện về sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa –  xã hội của cộng đồng người Hoa ở MNVN giai đoạn 1955 – 1975. 3. Mục đích nghiên cứu Góp phần xác định một số khái niệm và thuật ngữ nằm trong hệ thống   đề tài nghiên cứu, phân loại các biện pháp trong chính sách của chính quyền Sài   Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 và nêu đặc   điểm, tính chất của chính sách này. Góp phần đánh giá đúng vai trò, vị trí kinh tế ­ xã hội của người Hoa ở  miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975.  Qua đó, giúp người đọc phân định được rõ sự  khác nhau cũng như  sự  thống nhất giữa chính sách của các nhà cầm quyền Việt Nam đối với người Hoa  ở Việt Nam. Trên cơ  sở đó, tác giả luận án có điều kiện để  tiếp tục phát triển   đề  tài trong việc tìm hiểu chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà   nước CHXHCN Việt Nam đối với người Hoa ở Việt Nam. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối trượng nghiên cứu: Hoàn cảnh ra  đời, nội dung chính sách của   chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam cùng những tác   động của chính sách. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Ở miền Nam Việt Nam, bao gồm: 35 t ỉnh và Đô thành   Sài Gòn năm 1956 cho đến năm 1975 là 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn, theo địa   giới hành chính của VNCH. Về  thời gian: Từ  ngày 26 tháng 10 năm 1955 ­ Ngày ra đời Hiến  ước   tạm thời quyết định: “Việt Nam là một nước Cộng hòa”, đến ngày 30 tháng 4   năm 1975 – Ngày chính quyền Sài Gòn đầu hàng Chính phủ  Cách mạng  Lâm 
  4. 5 thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tổng thể  là dựa vào phương pháp luận của  chủ  nghĩa duy vật biện chứng, chủ  nghĩa duy vật lịch sử  và quan điểm của  Đảng   Cộng   sản   Việt   Nam,   Nhà   nước   CHXHCN   Việt   Nam.   Phương   pháp   nghiên cứu cụ  thể  là kết hợp hai phương pháp cơ  bản của sử  học Mác­xít là   phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp điều tra dân tộc học, phương pháp đối chiếu, so sánh .  Ngoài ra các biện pháp kĩ thuật  như: chụp ảnh, ghi âm, quay phim, scan … cũng  được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài. 6. Nguồn tài liệu, tư liệu của luận án Nguồn tài liệu quan trọng nhất và sử dụng chủ yếu nhất trong luận án  là tài liệu lưu trữ từ các phông Lưu trữ hiện được bảo quản tại Trung tâm Lưu  trữ quốc gia II (TPHCM), Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III (Hà Nội).  Tài liệu về  chủ  trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam,   Nhà nước VNDCCH, Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Ngoài ra, luận án còn   tham khảo các công trình nghiên cứu của Học viện Hành chánh Quốc gia Sài   Gòn về “Vấn đề Hoa kiều” ở VNCH giai đoạn 1955 – 1975.  7. Đóng góp của luận án Tập hợp tư liệu và hệ thống hoá được một lượng lớn tư liệu đáng tin   cậy của chủ đề nghiên cứu về  các chính sách về quốc tịch, kinh tế và tổ  chức   xã hội của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975. Luận án hệ  thống chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người  Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975.  Luận án tổng kết một bước có hệ thống nội dung, đặc điểm, tính chất   chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam  giai đoạn 1955 – 1975.
  5. 6 Luận án góp phần bổ sung lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách  phát triển bền vững cộng đồng người Hoa ở Việt Nam hiện nay.  8. Cấu trúc của luận án Luận án ngoài phần Mở  đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục,   phần nội dung được trình bày trong 4 chương: Chương 1 Cơ sở lí luận, cách tiếp cận vấn đề, tình hình nghiên cứu và   tổng quan về người Hoa và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam Việt Nam Chương 2 Chính sách về  quốc tịch của chính quyền Sài Gòn đối với   người Hoa ở Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 Chương 3 Chính sách về  kinh tế  của chính quyền Sài Gòn đối với  người Hoa ở Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 Chương 4 Chính sách về  tổ chức xã hội của chính quyền Sài Gòn đối  với người Hoa ở Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN, CÁCH TIẾP CẬN VẤN ĐỀ, TÌNH HÌNH  NGHIÊN CỨU, TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI HOA VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI  GÒN Ở MIỀN NAM VIỆT NAM 1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN, CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1.1. Cơ sở lí luận Trong luận án, khái niệm Người Hoa được dùng là để chỉ những người  Hoa ở Miền Nam Việt Nam, gắn với bối cảnh xã hội của Miền Nam Việt Nam,  với thực thể  thống trị  là Chính quyền Sài Gòn (Chính quyền VNCH). Do vậy,   luận án không đề  ra nội dung khái niệm mới mà đi vào cơ  cấu thành phần, đối   tượng của nội dung khái niệm người Hoa chỉ   ở  miền Nam Việt Nam, là đối  tượng chính sách của Chính quyền Sài Gòn giai đoạn 1955 – 1975. Đó là: 1.  Người Hoa sinh tại Việt Nam (Minh Hương và Hoa kiều thổ  sinh); 2. Người   Hoa không sinh tại Việt Nam (Hoa kiều – với tư cách ngoại kiều).  1.1.2. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
  6. 7 1.1.2.1. Thuyết xung đột tộc người:  Xung đột tộc người có xuất hiện trong trường hợp của VNCH, khi mà  chính quyền VNCH cho thi hành chính sách Việt Nam hóa khối ngoại kiều, mà   chủ yếu là Hoa kiều sinh sống trên lãnh thổ VNCH.  1.1.2.2. Các thuyết chức năng Thuyết tiếp biến văn hóa: Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, mỗi   tộc người có một nền văn hóa mang nét đặc thù riêng. Trải qua quá trình định cư  và sinh sống lâu dài trên một vùng lãnh thổ, sự  tiếp xúc văn hóa giữa các tộc   người đương nhiên xảy ra.  Thuyết đa nguyên: Thuyết đa nguyên văn hóa giải thích sự tồn tại khác   biệt của các tộc người do khác biệt về nguồn gốc và văn hóa.  1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM 1.2.1. Trên phương diện nghiên cứu về  lịch sử  hình thành cộng đồng người   Hoa ở Việt Nam  Các  công  trình  đều  khẳng  định  người  Hoa   đến Việt   Nam  sớm, từ  những năm đầu công nguyên và hầu hết các chính quyền Việt Nam đều có  những chính sách nhằm quản lí người Hoa chặt chẽ.  1.2.2. Trên phương diện nghiên cứu về hoạt động kinh tế của người Hoa ở Việt  Nam Các công trình đều khai thác kĩ sinh hoạt kinh tế của người Hoa giai đoạn  1955 – 1975, nhưng chưa chỉ  rõ được quan hệ  trực tiếp từ  chính sách của chính   quyền Sài Gòn đến hoạt động kinh tế của người Hoa giai đoạn 1955 – 1975. Để  khắc phục những khiếm khuyết trên, luận án bổ sung chính sách của chính quyền  Sài Gòn đối với người Hoa trên lĩnh vực kinh tế bao gồm các biện pháp nhằm quản   lí hoạt động kinh tế và cả các tổ chức kinh tế cùng tác động trực tiếp của nó đến   sinh hoạt kinh tế của cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955   – 1975. 
  7. 8 1.2.3. Trên phương diện nghiên cứu về hoạt động văn hóa – xã hội của người  Hoa ở Việt Nam Các công trình nghiên cứu về  tổ  chức xã hội – sinh hoạt văn hóa của  cộng   đồng  người  Hoa  ở  Miền Nam  Việt  Nam  khá phong phú. Nghiên  cứu   “Chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa  ở  miền Nam Việt  Nam giai đoạn 1955 – 1975” cung cấp một bức tranh tổng thể về các biện pháp   nhằm quản lí hành chính và một số hình thức thể hiện của tổ chức xã hội của  người Hoa ở miền Nam Việt Nam. Với lịch sử  nghiên cứu vấn đề  trên, luận án có cơ  sở  đi sâu tìm hiểu   chính sách đối với người Hoa của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam   giai đoạn 1955  – 1975 dưới một góc nhìn toàn diện hơn;  đồng thời,  tiếp tục  những nhận định mà các công trình trước giải quyết chưa triệt để  hoặc mới  dừng ở mức độ gợi mở.  1.3. TỔNG   QUAN   VỀ   NGƯỜI   HOA   VÀ   SỰ   RA   ĐỜI   CỦA   CHÍNH  QUYỀN SÀI GÒN Ở MIỀN NAM VIỆT NAM  1.3.1.  Khái quát về cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trước năm 1955 1.3.1.1. Quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam Người Hoa có mặt rất sớm  ở  các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có   Việt Nam. Sự  hiện diện đông đảo của người Hoa tại Việt Nam thực sự  bắt   đầu từ  cuối thế  kỷ  XVII, bắt nguồn từ  những cu ộc chính biến lớn từ  Trung   Hoa.  1.3.1.2. Dân số người Hoa ở Việt Nam  Theo sự  tổng hợp của tác giả  luận án từ   Địa phương chí của 30 tỉnh,  thành phố ở  miền Nam Việt Nam năm 1956 số Hoa kiều trên 18 tuổi là 119.519  người, chiếm tỷ lệ 1,38%. 1.3.2.   Khái quát về  sự  ra đời của chính quyền Sài Gòn  ở  miền Nam Việt  Nam 1.3.2.1. Sự ra đời chính quyền Sài Gòn sau Hiệp định Genève
  8. 9 Ngày 26­10­1955, Hiến ước tạm thời được tuyên bố tại Dinh Độc Lập  quy định Việt Nam là một nước Cộng  hòa, Quốc trưởng lấy danh hiệu là Tổng  thống VNCH.  Chính quyền VNCH (chính quyền Sài Gòn) được hình thành  ở  miền Nam Việt Nam từ năm 1955 với mục đích thực hiện cho mưu đồ “chống  Cộng”, che đậy cho âm mưu xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Chính quyền mới   này phải đối phó với rất nhiều vấn đề  khẩn trương về  chính trị  và quân sự   ở  Miền Nam Việt Nam, trong đó có “Vấn đề Hoa kiều”. 1.3.2.2. “Nha Trung Hoa Sự vụ” trong cơ cấu tổ ch ức chính quyền Sài  Gòn Ngay  khi Ngô Đình Diệm về  Việt Nam giữ  chức Thủ  tướng  Chính  phủ QGVN  ngày 7­7­1954 đã chỉ  định cho Bộ  Nội  vụ  áp dụng các biện pháp  quản lí người Hoa. Về  mặt tổ  chức, chính quyền Sài Gòn đã thành lập Nha  Trung Hoa Sự vụ đặt tại Phủ  Tổng thống  ngày 10­9­1956. Nguyễn Văn Vàng  được cử  làm Đặc ủy THSV tại Phủ Tổng thống kiêm Phó Đô trưởng Sài Gòn  để có điều kiện tiếp xúc hàng ngày với người Hoa.  Do sự gần gũi về  mặt địa lý và văn hóa với Việt Nam, mà người Hoa   đến định cư  ở Việt Nam sớm, thường xuyên và với số lượng lớn  sự tiếp biến  văn hoá Việt – Hoa và giải thích quá trình tiếp biến văn hoá Việt – Hoa trong   lịch sử. Trước năm 1955, trong số ngoại kiều sống ở Việt Nam, Hoa kiều là đối  tượng mà chính quyền Sài Gòn quan tâm nhất. Bởi vì: Về  dân số, tổng số  người Hoa cư  ngụ  trên lãnh thổ  VNCH rất quan   trọng đối với các hạng ngoại kiều khác chia làm hai nhóm: Nhóm sinh tại Việt  Nam gọi là Hoa kiều thổ sinh; Nhóm không sinh tại Việt Nam, nhưng đến Việt  Nam làm ăn, sinh sống gọi là Hoa kiều (tư cách ngoại kiều). Về  kinh tế, nhờ  sự  giúp đỡ  của chính quyền thực dân Pháp và nhờ   ở  những tổ  chức xã hội dưới nhiều hình thức chặt chẽ,  cùng với óc kinh doanh  và có vốn, thêm tính nhẫn nại, cần cù, người Hoa ở  miền Nam Việt Nam   đã 
  9. 10 chi phối toàn bộ  nền kinh tế  VNCH, nhất là nắm các ngành có liên quan mật   thiết đến đời sống hàng ngày của dân bản xứ. Do vậy, dưới thời Pháp thuộc,  nền kinh tế Việt Nam có một diện mạo: Pháp thống trị, nắm mọi quyền hành   kinh tế; Hoa kiều là tầng lớp trung gian thương mại ; còn người dân Việt bị bóc  lột nặng nề. Về chính trị, nhóm Hoa kiều hải ngoại là đối tượng cần tranh thủ của   cả  CHND Trung Hoa và Đài Loan. Bên nào cũng nhận Hoa kiều hải ngoại là  công dân của mình, nên những hoạt động của người Hoa trở  thành mối quan  tâm của chính quyền VNCH. Ngoài ra, VNCH còn phải đương đầu với  công  cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam Việt Nam  của nhân dân hai miền Nam,  Bắc Việt Nam. Người Hoa trở  thành một lực lượng mà chính quyền Sài Gòn  cần phải tranh thủ, lôi kéo. Như  vậy, từ  nhân số  đông đảo, đến địa vị  và quyền lợi kinh tế  mà   người Hoa có được  ở  Việt Nam cùng với việc tổ  chức được một hệ  thống  chặt chẽ  liên kết với nhau trên nhiều phương diện: luật lệ, tổ  chức y tế, sự  bành trướng của trường học không chịu sự  kiểm soát,  và sự  lớn mạnh không  ngừng của các nhật báo và tạp chí  Hoa ngữ. Chính quyền Sài Gòn ngay từ khi   mới thành lập đã tập trung giải quyết vấn  đề  Hoa kiều trên nhiều phương   diện: chính trị; kinh tế; văn hóa – xã hội. CHƯƠNG 2 CHÍNH SÁCH VỀ QUỐC TỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN  ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 ­1975 2.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CHÍNH SÁCH VỀ QUỐC TỊCH CỦA CHÍNH  QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM  GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 1.1.1. Chính sách về  quốc tịch của một số  chính quyền Đông Nam Á đối với   người Hoa ở Đông Nam Á Các quốc gia Đông Nam Á lựa chọn biện pháp bản địa hóa  người Hoa vào quốc gia mình, nhằm quốc hữu hóa sản nghiệp cũng  
  10. 11 như đưa người Hoa từ thân phận ngoại kiều trở thành công dân của xứ  sở mình.  1.1.2. Tình hình quốc tịch của người Hoa ở Việt Nam trước năm 1955 Dưới thời chính quyền thực dân Pháp, các hạng người sau đây không  có quốc tịch Trung Hoa:   thứ  nhất, người Minh Hương;  thứ  hai, người Trung  Hoa lấy thẻ  Việt Nam;  thứ  ba, dân thiểu số   ở  biên giới Việt Trung. Cho đến  trước năm 1955, tình hình quốc tịch của người Hoa  ở  Việt Nam luôn  ở  trong  tình trạng không rõ ràng và phức tạp.  2.2. NỘI DUNG  CHÍNH  SÁCH VỀ  QUỐC TỊCH  CỦA CHÍNH QUYỀN  SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA  Ở  MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI   ĐOẠN 1955 – 1975 2.2.1. Về việc xác định quốc tịch cho người Hoa ở miền Nam Việt Nam 2.2.1.1. Giai đoạn 1955 – 1963 Chính quyền Sài Gòn phân tách hai nhóm:  Nhóm sinh tại Việt Nam   đương nhiên có quốc tịch Việt Nam gồm hai đối tượng là Minh Hương và Hoa  kiều thổ  sinh;  Nhóm người Hoa sinh ngoài lãnh thổ  Việt Nam, với tư  cách   ngoại kiều, hay còn gọi là   Hoa kiều.  Chính quyền sử  dụng quyền lập pháp,  hành pháp nhằm giải quyết vấn đề quốc tịch của người Hoa ở  miền Nam Việt  Nam.  2.2.1.2. Giai đoạn 1963 – 1975  Chính quyền Sài Gòn tập trung vào hai vấn đề: thứ nhất, chính quyền  đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế  những rắc rối của việc khai nhận quốc   tịch Việt Nam bằng tờ khai danh dự; thứ  hai, xem xét việc thực hiện quy chế  lưỡng tịch đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam. 2.2.2. Về việc nhập tịch cho người Hoa ở miền Nam Việt Nam 2.2.2.1. Giai đoạn 1955 – 1963 Chính quyền Sài Gòn thi hành qua hai giai đoạn:  Giai đoạn 1: từ  năm 
  11. 12 1956 đến năm 1961, đối tượng chủ yếu là nhóm người Hoa sinh tại Việt Nam.   Tiêu chuẩn xét đơn chỉ căn cứ vào các điều kiện luật định, rất dễ dãi. Do sự dễ  dãi này, tính đến 1­1960 chỉ còn khoảng 2.550 Hoa kiều với tư cách ngoại kiều;  Giai đoạn 2: từ năm 1961 đến ngày 1­11­1963: chính quyền hạn chế việc người  Hoa sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam nhập Việt tịch. Do vậy, số lượng người Hoa   sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam nhập Việt tịch rất ít, tính đến  hết năm 1963 là 759  người.  2.2.2.2. Giai đoạn 1963 – 1975  Với nhóm  người Hoa sinh tại  Việt  Nam :  điều chỉnh tình trạng cho  người Hoa không có cha, mẹ   ở  Việt Nam ;  điề u ch ỉnh tình trạ ng cho   ng ườ i  Nùng miề n B ắc di c ư vào  miề n  Nam sau năm 1954. Với nhóm người Hoa sinh ngoài lãnh thổ  Việt Nam: kiểm soát người  Hoa sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam ; nhập tịch cho người Hoa sinh ngoài lãnh thổ  Việt Nam; điều chỉnh tình trạng cho người Hoa sinh ngoài lãnh thổ Việt Nam. 2.2.3. Vấn đề hồi hương và trục xuất người Hoa ở miền Nam Việt Nam Đối tượng hồi  hương về   Đài  Loan:   Người Hoa sinh tại Việt  Nam   không đồng ý điều chỉnh tình trạng quốc tịch theo tinh thần của Dụ số 48 ngày  21­8­1956; Người Hoa sinh ngoài lãnh thổ  Việt Nam, sinh sống tại VNCH với   tư  cách ngoại kiều, muốn về  THDQ và người Hoa bị  trục xuất khỏi lãnh thổ  Việt Nam vì lý do an ninh buộc phải rời khỏi Việt Nam trước ngày 31­8­1957. Đối tượng người Hoa bị trục xuất về  Đài Loan: theo Tổng Nha Cảnh  sát Quốc gia VNCH, tính đến 2 ­ 1971,  số  Hoa kiều bị  trục xuất khoảng 200   người. Nhìn chung, vấn đề  quốc tịch của người Hoa  ở   miền Nam Việt Nam  là vấn đề nan giải và cũng là vấn đề đầu tiên mà chính quyền Sài Gòn phải đối  mặt khi giải quyết những vấn đề  liên quan đến người Hoa  ở  miền Nam Việt  Nam. Chính quyền Sài Gòn áp dụng chính sách buộc tất cả người Hoa sinh tại   miền Nam Việt Nam phải nhập Việt tịch. 
  12. 13 2.3. TÁC   ĐỘNG   TỪ   CHÍNH   SÁCH   VỀ   QUỐC   TỊCH   CỦA   CHÍNH  QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM  GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 2.3.1. Đối với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 2.3.1.1. Phản  ứng của người Hoa đối với chính sách về  quốc tịch của   chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam Những phản  ứng cũng như  sự  đấu tranh của người Hoa về  vấn đề  quốc tịch của họ ở VNCH cho thấy: Người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam không  đồng tình với chính sách nhập Việt tịch của chính quyền Sài Gòn giai đoạn   1955 – 1963. Từ  sự phản  ứng về  vấn đề  quốc tịch sẽ  gây ra những phản  ứng   dây chuyền sau này của người Hoa đối với tất cả  các biện pháp của chính  quyền Sài Gòn áp dụng trên khối người Hoa  ở   miền Nam Việt Nam giai đoạn  1955 – 1975. 2.3.1.2. Sự phân hóa về chính trị trong cộng đồng người Hoa ở miền Nam  Việt Nam 1. Một bộ  phận đông đảo người Hoa thuộc tầng lớp lao động bị  chèn  ép đấu tranh chống chính quyền Sài Gòn và Đế  quốc Thực dân kiểu mới dưới   ngọn cờ của MTDTGP miền Nam Việt Nam;  2. Một bộ phận tư sản Hoa kiều, chi ếm s ố ít, giữ  vai trò chi phối nền   kinh tế VNCH, cấu kết chặt chẽ với Mỹ ­ Chính quyền Sài Gòn;  3. Xuất hiện tầng lớp tiến bộ: tiểu thương, tiểu ch ủ, giáo giới người  Hoa ngày càng quan tâm đến tình hình chiến sự tại miền Nam Việt Nam và chịu   ảnh hưởng bởi đường lối của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt   Nam. 2.3.2. Đối với chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 2.3.2.1. Chính quyền Sài Gòn đối phó với phản  ứng Đài Loan về  vấn   đề quốc tịch của người Hoa ở miền Nam Việt Nam Chính phủ THDQ đã khuyến cáo Chính phủ VNCH không nên quá gắt  
  13. 14 gao về vấn đề quốc tịch đối với người Hoa ở Việt Nam.  Tuy nhiên, việc quốc  tịch hóa Hoa kiều ở VNCH vẫn được thực thi theo luật định của VNCH  vì phía  VNCH cho rằng đây giải quyết vấn đề  quốc tịch của ngoại kiều thuộc phạm   vi nội trị của một chính thể, nước ngoài không được can thiệp. 2.3.2.2. Chính quyền Sài Gòn đối phó với phương sách Hoa vận của  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Về  mặt tổ  chức: Ngày 1­9­1965, Thiếu Tướng Chủ  tịch UBHPTƯ đã  chấp thuận “Kế  hoạch chống công tác Hoa vận Việt cộng” ; Hoạt động đối  phó: dù việc tổ chức và phân công rất rõ ràng, nhưng trên thực tế các Tiểu  ban  hầu như không hoạt động.  Để  giải quyết vấn  đề  quốc tịch của người Hoa  ở  miền Nam Việt   Nam, chính quyền Sài Gòn đã dùng đến biện pháp cao nhất của một thể  chế  Cộng hòa để  giải quyết. Đó là việc chính quyền ban hành các văn bản Luật,  Dụ và các Sắc lệnh là những công cụ pháp chế mạnh nhất và hữu hiệu nhất.  Đầu tiên, chính quyền Sài Gòn ban hành luật nhằm xác định quốc tịch   cho người Hoa ở miền Nam Việt Nam. Bằng việc ban hành Bộ Luật Quốc tịch   Việt   Nam,   chính   quyền   phân   tách   ba   hạng   người   Hoa   ở   Việt   Nam:   Minh   Hương, Hoa kiều thổ sinh và Hoa kiều. Đối với nhóm người Hoa sinh tại Việt  Nam (Minh Hương và Hoa kiều thổ  sinh) theo luật pháp của VNCH quy định   những người này đương nhiên có quốc tịch VNCH. Sau khi xác định quốc tịch   cho người Hoa  ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn chia nhóm người   Hoa ở Miền Nam Việt Nam thành hai nhóm: Nhóm điều chỉnh tình trạng (Minh   Hương và Hoa kiều thổ  sinh) và Nhóm nhập Việt tịch (Hoa kiều với tư  cách   ngoại kiều). Người Minh Hương và Hoa kiều thổ  sinh đương nhiên có quốc   tịch VNCH, chỉ xin điều chỉnh tình trạng quốc tịch.  Dưới tác động của chính sách quốc tịch và tổ  chức xã hội của chính   quyền Sài Gòn, cộng đồng người Hoa  ở miền Nam Việt Nam chịu  ảnh hưởng  
  14. 15 sâu rộng nhất. Tuy nhiên, với tư  cách là chủ  thể  ban hành chính sách, chắc  chắn xảy ra những tác động đối với chính quyền Sài Gòn giai đoạn 1955 –   1975. Đối với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam: Chính sách của   chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam ra đời trong   bối cảnh VNCH có chiến tranh. Đối tượng người Hoa  ở miền Nam Việt Nam   trở  thành lực lượng quan trọng mà các bên tham chiến đều muốn tranh thủ.   Trên phương diện chính trị, cộng đồng người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam bị  phân hóa về  mặt chính trị. Người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam phân hóa thành  các xu hướng chính trị sau: một bộ phận ngả về phía THDQ; một bộ phận ngả  về  CHND Trung Hoa; một bộ  phận  ủng h ộ  chính sách của chính quyền Sài  Gòn và một bộ phận hướng về phía cách mạng Việt Nam. Đối với chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam Về mặt đối ngoại, chính quyền Sài Gòn phải đối phó với sự phản ứng   từ THDQ và cộng đồng người Hoa  ở miền Nam Việt Nam. Việc chính quyền   Sài Gòn không đặt quan hệ  ngoại giao với Đài Loan như  đề  nghị  của Chính  phủ này vào năm 1955 có liên quan đến việc chính quyền Sài Gòn ban hành và   cho thi hành chính sách đối với người Hoa trên phương diện chính trị.  Về   mặt   đối   nội,  chính   quyền  Sài   Gòn   phải   đối   phó  khó   khăn   với   những phản ứng của người Hoa ở miền Nam Việt Nam. Bên cạnh đó, một vấn  đề  mới nảy sinh trong vấn đề  Hoa kiều là chính quyền Sài Gòn phải đối phó   với phong trào Hoa vận ngày càng lớn mạnh của phía cách mạng. Chính sách về quốc tịch của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở  Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 đã thành công trên phương diện  pháp luật và hành chính. Đa số  người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam đều nhập   Việt tịch trong giai đoạn này và trở thành công dân VNCH. Theo thống kê đến   ngày 31­1­1960, số người Hoa trên 18 tuổi đã nhập Việt tịch là 231.158/232.397  người.
  15. 16
  16. 17 CHƯƠNG 3 CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN  ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 –  1975 3.1. HOÀN   CẢNH   RA   ĐỜI   CHÍNH   SÁCH   VỀ   KINH   TẾ   CỦA   CHÍNH  QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA Ở MIỀN NAM VIỆT NAM  GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 3.1.1. Chính sách về  kinh tế  của một số  chính quyền Đông Nam Á đối với  người Hoa ở Đông Nam Á Sau Chiến tranh Thế giới thứ   hai (1945), các nước Đông Nam  Á hầu hết đã giành được độc lập chính trị.   Các chính quyền  ở  Đông  Nam Á đều sử dụng luật để quốc hữu hóa sản nghiệp của người Hoa;   đồng thời, cấm một số  nghề  mà người Hoa  ở  Đông Nam Á tỏ  ra  ưu  thế, đặc biệt là nghề thương mại. 3.1.2. Tình hình  hoạt động  kinh tế  của người Hoa  ở  Việt Nam trước năm   1955 Ở  miền Nam Việt Nam,  đến trước năm 1955, n gười Hoa gần như  nắm trọn vẹn quyền chi phối kinh tế  ở ngành phân phối sỉ, lẻ, ngành thu mua,   chuyên chở, chế biến ngũ cốc, thực phẩm, tạp hóa và cho vay lãi.  3.2. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN  ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA  Ở MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 –   1975 3.2.1. Đối với tổ chức kinh tế của người Hoa ở miền Nam Việt Nam 3.2.1.1. Phòng thương mại người Hoa ở Nam Kỳ Ngày 2­2­1963, Nha THSV tiến hành giải thích khéo léo với các hội   viên Phòng thương mại Hoa kiều để họ tự động xin giải tán.  3.2.1.2. Quỹ bù trừ Hoa kiều Nha THSV yêu cầu Tổng Thanh tra Lao động và An ninh xã hội (Bộ 
  17. 18 Lao động) giải tán Quỹ bù trừ Hoa kiều, vì quỹ này tồn tại dưới danh nghĩa một  Hiệp hội Hoa kiều (thành phần gồm chủ nhân và công nhân Hoa kiều).  3.2.2. Đối với hoạt động kinh tế của người Hoa ở miền Nam Việt Nam 3.2.2.1. Giai đoạn 1955 – 1963 Việc hạn chế  quyền sở  hữu bất động sản của người Hoa: ban hành  Dụ số 26 ngày 20­4­1956; việc cấm Hoa kiều làm 11 nghề ở Miền Nam Việt   Nam: Tổng thống VNCH ban hành Dụ số 53 ngày 5­6­1956.  3.2.2.2. Giai đoạn 1963 – 1975 Đối với hoạt động bảo hiểm: quy chế  hoạt động bảo hiểm được  ấn  định bởi Sắc luật số 15/65 ngày 17­9­1965.  Đối với hoạt động ngân hàng:  quy định người Hoa đã nhập Việt tịch   muốn xin thành lập một ngân hàng phải có ít nhất 70% vốn của các cổ đông có   quốc tịch Việt Nam.  Đối với hoạt động nhập cảng:  quy định  vốn các công ty theo tỷ  lệ:  30% vốn “Việt gốc Hoa”, 70% vốn Việt Nam. Giữa năm 1966, muốn được cấp  giấy phép nhập cảng, phải có ít nhất 70% cổ  đông quốc tịch Việt Nam trên 15  năm. 3.3. TÁC ĐỘNG TỪ  CHÍNH SÁCH VỀ  KINH TẾ  CỦA CHÍNH QUYỀN   SÀI GÒN ĐỐI VỚI NGƯỜI HOA  Ở  MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI   ĐOẠN 1955 – 1975 3.3.1. Đối với cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 3.3.1.1. Phản  ứng  của  người   Hoa   đối  với  chính  sách  về   kinh  tế   của  chính   quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam Người Hoa đồng loạt ngưng hoạt động trong lĩnh vực thu mua, tồn   trữ, chuyển vận và phân phối khiến hàng hóa khan hiếm, giá cả  tăng vọt, hàng  hóa nhập cảng bị ứ đọng tại thương cảng Sài Gòn.  Mặc dù có những phản ứng  gay gắt, người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam cũng phải nhanh chóng nhập Việt 
  18. 19 tịch để tiếp tục hành nghề. Số Hoa kiều thổ sinh hồi hương về THDQ rất ít. 3.3.1.2. Hoạt động kinh tế của người Hoa ở   miền Nam Việt Nam giai  đoạn 1955 – 1975  Trên lĩnh vực hoạt động kinh tế  người Hoa  ở   miền Nam Việt Nam  giai đoạn 1963 – 1975 vẫn chi phối các ngành: Trong ngành nông nghiệp, người  Hoa độc quyền mua bán, chuyên chở  và phân phối cho thị  trường.  Trong lĩnh  vực phân phối, hoạt động thương mại chia làm 3 loại: bán lẻ, buôn xỉ  và xuất  nhập cảng; Hoạt động xuất nhập cảng được hỗ trợ  bởi hệ thống tài chính dồi  dào từ các ngân hàng mà chủ của nó là người Hoa.  3.3.2. Chính quyền Sài Gòn đối phó với những phản ứng từ chính sách về kinh  tế của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam 3.3.2.1. Chính quyền Sài Gòn đối phó với phản ứng của người Hoa về  các biện pháp kinh tế đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam Người Hoa ở miền Nam Việt Nam  vẫn tiếp tục được làm những nghề  bị cấm nếu chọn một trong ba biện pháp: nhập Việt tịch; sang môn bài cho vợ,  con có Việt tịch mà phải có hôn thú đúng phép;  hùn vốn với người Việt và để  người Việt đứng tên theo tỷ lệ  51% vốn của người Việt và 49% vốn của Hoa  kiều.  3.3.2.2. Chính quyền Sài Gòn đối phó với phản  ứng của Đài Loan về  các biện pháp kinh tế đối với người Hoa ở miền Nam Việt Nam Chính  quyền  Sài   Gòn  quyết  tâm  dùng  biện  pháp  kinh  tế   để   nhanh  chóng đưa khối Hoa kiều còn do dự về vấn đề quốc tịch ở VNCH cần phải có   quyết định dứt khoát. Mối bang giao giữa VNCH và THDQ bị đẩy đến cực độ.   Ở  lần phản  ứng này, phía THDQ tỏ  ra gay gắt hơn lần phản  ứng về vấn đề  quốc tịch.   Từ những cứ liệu như đã trình bày, có thể xác định:
  19. 20 Có 2 lý do khiến chính quyền Sài Gòn đưa ra những những biện pháp  nhằm quản lí người Hoa trên lĩnh vực kinh tế. Thứ nhất, do vai trò trội yếu của   người Hoa đối với nền kinh tế miền Nam Việt Nam. Thứ hai, các biện pháp về  kinh tế nhằm hỗ trợ cho biện pháp quốc tịch. Trên phương diện quốc tịch, trong một thời gian ngắn, chính quyền đã   đưa đa số  người Hoa sinh sống  ở   miền Nam Việt Nam  nhập Việt tịch. Nếu  không đồng ý nhận quốc tịch VNCH, thì người Hoa  ở  miền Nam Việt Nam  được chọn một trong hai giải pháp là trở  về  quê hương Đài Loan, hoặc nếu   chọn ở lại VNCH thì tư cách mới sẽ là ngoại kiều.  Trên  phương diện kinh tế, chính quyền Sài Gòn nhằm 2 mục tiêu.  Mục tiêu thứ  nhất, là giành độc lập kinh tế  từ  người Hoa, các biện pháp kinh  tế của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa chỉ tập trung vào hai việc đó là  hạn chế   ảnh hưởng của người Hoa  ở  các lĩnh vực mà người Hoa có  ưu thế  như: Bất động sản, nhập cảng, ngân hàng và cấm 11 nghề mà đa số người Hoa   hoạt động.  Khác với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, lực lượng Hoa kiều  ở  Miền Nam Việt Nam là một lực lượng đáng kể  để  chính quyền tranh thủ,   vận động, lôi kéo về  phía mình nhằm thực hiện cho mưu đồ  “tiêu diệt Cộng   sản” của các nước “tự do”. Mục đích của chính quyền Sài Gòn rất rõ ràng: Hoa   kiều nào muốn tiếp tục hành những nghề  bị  cấm thì phải nhập Việt tịch.  Các  biện pháp của chính quyền Sài Gòn đưa ra nhằm xóa bỏ các tổ chức kinh tế và   quản lí hoạt động kinh tế của người Hoa ở miền Nam Việt Nam.  Dưới tác động của chính sách đối với người Hoa của chính quyền Sài  Gòn, người Hoa ở  miền Nam Việt Nam  vẫn giữ  ảnh hưởng bao trùm, chỉ  một   nhóm nhỏ tư sản người Hoa kiểm soát đa số các cơ  sở  kinh tế của  Miền Nam  Việt Nam và giữ  vai trò chi phối sản xuất, họ  làm chủ  hoàn toàn và trực tiếp  điều khiển cơ  sở  sản xuất.   Với mục đích thu hồi chủ  quyền kinh tế, chính  quyền Sài Gòn đã đụng chạm đến tất cả quyền lợi của ngoại kiều trên lãnh thổ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2