intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

30
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm chỉ ra và miêu tả được đặc điểm ngôn ngữ của ca từ trong các bài hát Xoan Phú Thọ trên hai phương diện hình thức và ngữ nghĩa. Phân tích và làm sáng tỏ phần nào được đặc trưng văn hóa – văn học của các bài hát Xoan Phú Thọ thông qua đặc điểm ngôn ngữ của ca từ. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ

  1. Ụ V T TRƢỜ Ọ SƢ M HÀ N I TRẦN THỊ DIỄM H NH Ặ ỂM CA TỪ TRONG HÁT XOAN PHÚ THỌ Chuyên ngành : gôn ngữ học Mã số : 9.22.90.20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾ SĨ Ô Ữ HỌC Hà Nội - 2021
  2. LUẬ ƢỢC HOÀN THÀNH T I TRƢỜ I HỌ SƢ M HÀ N I gƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. T VĂ T Ô Viện Từ điển và Bách khoa thư Việt Nam 2. S.TS. ẶNG THỊ HẢO TÂM Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Khang Viện Ngôn ngữ học Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên Phản biện 3: PGS. TS Trần Kim hƣợng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Luận án được bảo vệ trước Hội đồng cấp trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi … giờ, ngày … tháng ..... năm 2021 Có thể tìm đọc luận án tại: - Thư viện Quốc gia; - Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
  3. MỞ ẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm văn học dân gian từ góc nhìn Ngôn ngữ học xưa nay đã có lịch sử lâu dài và đạt được những thành tự đáng kể. Nhưng nghiên cứu và soi chiếu lí thuyết Ngôn ngữ học vào ca từ của một thể loại dân ca vùng miền thì vẫn còn một khoảng trống lớn cần được lấp đầy. Đó là một hướng đi nhiều triển vọng, hấp dẫn và hứa hẹn những thành tựu mới. 1.2. Hát Xoan là di sản văn hóa phi vật thể quý báu của vùng đất Tổ Phú Thọ nói riêng và trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Đây là loại hình dân ca được sinh ra ở một vùng văn hóa cổ, mang đậm tính nghi lễ, phong tục - còn gọi là hát cửa đình hay “Khúc môn đình”, được trình diễn vào hội làng mùa xuân. Hát Xoan là hình thức nghệ thuật diễn xướng tổng hợp: ca – múa - nhạc, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng. 1.3. Hát Xoan Phú Thọ đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại (3 – 2 - 2018). Cũng như nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác, hát Xoan đang đứng trước sự tiếp biến văn hóa và nguy cơ mai một. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bảo tồn và làm lan tỏa giá trị của di sản này cho các thế hệ kế tiếp. Trong những tìm hiểu về ngôn ngữ tiếng Việt và về văn học dân gian, chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về ca từ trong hát Xoan Phú Thọ. Xuất phát từ những lí do trên, luận án đã lựa chọn đề tài “Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Chỉ ra và miêu tả được đặc điểm ngôn ngữ của ca từ trong các bài hát Xoan Phú Thọ trên hai phương diện hình thức và ngữ nghĩa. 2.2. Phân tích và làm sáng tỏ phần nào được đặc trưng văn hóa – văn học của các bài hát Xoan Phú Thọ thông qua đặc điểm ngôn ngữ của ca từ. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 1
  4. - Tìm hiểu những vấn đề cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài. - Khảo sát và tập hợp tư liệu có liên quan về hát Xoan. - Miêu tả đặc điểm ngôn từ trong hát Xoan Phú Thọ trên hai phương diện: hình thức (các hình thức kết cấu văn bản, thể, vần, nhịp, sự hòa phối thanh điệu) và ngữ nghĩa (nhan đề, các trường từ vựng, một số biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ hát Xoan). 4. ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung xem xét ngôn ngữ trong ca từ 42 bài hát Xoan Phú Thọ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của ca từ các bài hát Xoan Phạm vi tư liệu là nhan đề, lời bài hát của 42 bài hát Xoan phổ biến ở tỉnh Phú Thọ. 5. hƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Ngôn ngữ học điền dã 5.2. Phân tích - miêu tả 5.3. Phân tích diễn ngôn 5.4. Nghiên cứu liên ngành 5.5. Thủ pháp thống kê, phân loại 6. Những đóng góp của luận án - Về mặt lý luận: Những kết quả đạt được của luận án có thể làm phong phú hơn cho những nghiên cứu về ca từ của một thể loại dân ca vùng miền trên đất nước. Hướng nghiên cứu của đề tài có thể vận dụng trong nghiên cứu ca từ của các tác phẩm âm nhạc có lời (dân gian và hiện đại) của Việt Nam. - Về mặt thực tiễn: Những kết quả đạt được của luận án có thể giúp giải mã sức hấp dẫn, sự độc đáo của loại hình âm nhạc hát Xoan Phú Thọ dưới góc độ Ngôn ngữ học. 2
  5. Đây cũng có thể là một đóng góp làm giàu thêm cho phần tư liệu và cách nhìn nhận, đánh giá về di sản hát Xoan. Những kết quả đạt được ban đầu của luận án cũng có thể gợi ý cách tiếp cận các thể loại âm nhạc dân gian khác - món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương: hƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu; cơ sở lí luận và thực tiễn hƣơng 2: Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ xét về hình thức hƣơng 3: Đặc điểm ca từ trong hát Xoan Phú Thọ xét về ngữ nghĩa ƢƠ 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1.Tổng quan về tình hình nghiên cứu về ca từ hát Xoan Phú Thọ 1.1.1. Những nghiên cứu về “ca từ” nói chung 1.1.1.1. “Ca từ”là gì? “Ca từ” (lyric) là lời ca, lời bài hát bắt nguồn ở phương Tây, có thể từ tên một nhạc cụ là đàn Lia (tiếng Pháp = lyre), hoặc “lyre” còn có nghĩa là tài làm thơ. Ngoài ra, gốc từ này còn xuất hiện trong poème lyrique hoặc lyrisme nghĩa là thơ trữ tình. Theo các khái niệm đã nêu của các tác giả trên thế giới và Việt Nam, luận án cho rằng: “ca từ” là tất cả phần ngôn ngữ văn học trong bài hát bao gồm nhan đề và phần lời để hát. 1.1.1.2. Những nghiên cứu về “ca từ” trong tác phẩm âm nhạc dân gian a. Ngoài nước Những nghiên cứu về ca từ trong các tác phẩm âm nhạc trên thế giới thường nghiêng về góc nhìn từ lĩnh vực âm nhạc. Các nhà nghiên cứu thường 3
  6. đặt ca từ trong mối quan hệ với các yếu tố khác như vũ đạo, âm nhạc, tiết tấu và diễn xướng. b. Ở Việt Nam Những nghiên cứu về ca từ trong các tác phẩm âm nhạc ở Việt Nam chủ yếu là những công trình nghiên cứu ca từ dưới góc độ của lĩnh vực âm nhạc, lịch sử, văn hóa dân gian, dân tộc học. Trong số ít những công trình tìm hiểu về lĩnh vực này, có thể kể tới một số bài viết của các tác giả như Trần Kim Phượng, Nguyễn Thị Bích Hạnh, Trần Anh Tư. Như vậy, lịch sử nghiên cứu về ca từ dưới góc nhìn Ngôn ngữ học chưa có bề dày và kết quả còn hạn chế. Điều này cho thấy sự cần thiết có thêm các công trình tìm hiểu về ca từ trong các tác phẩm âm nhạc có lời ở Việt Nam nhất là vốn dân ca, nhạc cổ truyền. 1.1.2. Những nghiên cứu về hát Xoan Phú Thọ 1.1.2.1. Trên các phương diện văn hóa, lịch sử, xã hội và nghệ thuật a. Những vấn đề lịch sử, xã hội liên quan đến hát Xoan - Nguồn gốc, tên gọi - Các vấn đề liên quan tới tục lệ của hát Xoan (mục đích, địa bàn và lịch trình đi hát của các phường Xoan, cơ cấu tổ chức phường Xoan, trang phục của các đào, kép Xoan) b. Những vấn đề văn hóa, nghệ thuật liên quan đến hát Xoan - Về phương thức trình diễn hát Xoan - Về âm nhạc trong hát Xoan - Về vũ đạo trong hát Xoan - Về văn học và ngôn ngữ trong hát Xoan 1.1.2.2. Những tìm hiểu về ca từ trong hát Xoan Phú Thọ a/ Những nhận xét của các tác giả Việt Nam Các tác giả như Tú Ngọc, Trần Quang Hải, Nguyễn Thụy Loan, Đặng Hoành Loan, Nguyễn Khắc Xương, Dương Huy Thiện có nhắc tới yếu tố ca từ của các bài hát Xoan trong các tài liệu [83] , [87], [88], [108], [112], [113], [116], [121], [123], [130],… Các ý kiến, nhận xét của các tác giả đa phần đề cập đến ca từ hát Xoan dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu âm nhạc và văn hóa dân gian. 4
  7. b/ Những nhận xét của các tác giả nước ngoài Các tác giả Bountheng Souksavatd (Lào), Bussakorn Binson (Thái Lan), Tan Sooi Beng (Đài Loan), Xiao Mie (Trung Quốc), Sheen Dae Cheol (Hàn Quốc), Triyono Bramantyo (Inđônêxia), Gisa Jahnichen (Đức), Joe Peter (Pháp), Yves Defrance (Pháp), Panikos G. Giorgoudes (Hy Lạp), Maria Walcher (Áo),… đã đưa ra những nhận xét về giá trị của hát Xoan (âm nhạc, lễ nghi, diễn xướng, cách hát,…) và các phương thức bảo tồn, làm lan tỏa hát Xoan. 1.1.2.3. Nhận xét chung Có thể nói, khi nghiên cứu hát Xoan, các tác giả thường đi sâu vào mô tả rồi từ đó xác định những yếu tố biểu trưng như nguồn gốc lịch sử, xã hội các khía cạnh văn hóa, nghệ thuật. Việc nghiên cứu một số khía cạnh trong văn hóa, nghệ thuật tuy đã có những công trình mang tính chuyên sâu về từng mặt như âm nhạc, diễn xướng, vũ đạo, dân tộc học,… nhưng vẫn chưa có được những nhận xét, kết luận một cách đầy đủ và rõ ràng. Các nghiên cứu về giá trị ca từ dưới góc nhìn Ngôn ngữ học nhìn chung còn rất ít và chưa phải là những khảo sát toàn diện, tỉ mỉ. 1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn 1.2.1. Cơ sở lí luận 1.2.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học i. Diễn ngôn và phân tích diễn ngôn a. Diễn ngôn và văn bản b. Phân tích diễn ngôn c. Các giai đoạn chính của phân tích diễn ngôn c1/ Giai đoạn thứ nhất: Ngữ pháp văn bản Giai đoạn “ngữ pháp văn bản” là giai đoạn tìm đường tiếp cận diễn ngôn. Các nghiên cứu đã cho thấy con đường noi theo ngữ pháp câu là không thỏa đáng với diễn ngôn. c2/ Giai đoạn thứ hai: Phân tích diễn ngôn Khi phân tích diễn ngôn cần xác định những yếu tố tham gia vào nội dung của diễn ngôn. Cụ thể: - Mục đích giao tiếp, ý định của người nói 5
  8. - Các chiến lược văn hóa, diễn ngôn sẵn có trong một cộng đồng ngôn ngữ - Hoàn cảnh xã hội (các cá nhân tham gia tương tác, mối quan hệ, bản chất của bối cảnh tình huống) - Tính chất của các thể loại diễn ngôn đã được quy ước hóa - Khung văn hóa, niềm tin và hành động của các thành viên xã hội d. Một số đường hướng phân tích diễn ngôn Một số đường hướng chính trong phân tích diễn ngôn đã được Nguyễn Hòa miêu tả là: dụng học, biến đổi ngôn ngữ, ngôn ngữ học xã hội tương tác, dân tộc học giao tiếp, tâm lí học xã hội, phê phán, giao tiếp liên văn hóa, và phương pháp phân tích diễn ngôn tổng hợp. Hướng phân tích diễn ngôn của luận án là đường hướng giao tiếp liên văn hóa và phương pháp phân tích diễn ngôn tổng hợp. ii.Những lý thuyết và quan niệm về đoạn, khổ, thể, vần, nhịp và sự hòa phối thanh điệu a. Đoạn Đoạn thơ là “một tập hợp của những câu thơ biểu thị một ý hoàn chỉnh. Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không lệ thuộc vào vần, nhịp, cú pháp, ngữ điệu như đối với một khổ thơ. Số lượng câu thơ trong một đoạn không hạn định” [39, tr.105]. b. Khổ Căn cứ vào các khái niệm khác nhau đã nêu, luận án quan niệm: khổ là một số câu thơ, dòng thơ được sắp xếp thành một đơn vị có quy cách nhất định về vần, luật, âm thanh, nhịp điệu, cú pháp biểu thị những ý nghĩa tương đối hoàn chỉnh. Mỗi khổ thơ được kết thúc bằng một khoảng nghỉ dài. c. Thể Luận án lấy ý kiến của tác giả Nguyễn Thái Hòa để làm căn cứ triển khai: “Thể là kiểu mẫu của văn bản hình thành trong quá trình phát triển của sự giao tiếp bằng lời tương đối ổn định, trở thành quy ước chung, tồn tại trong kí ức của mọi người như một mô hình cấu tạo văn bản, một thứ siêu ngôn ngữ vừa để biểu đạt vừa để định 6
  9. hướng cho sự tiếp thu biểu đạt” [53, tr. 210]. d. Câu - dòng Luận án quan niệm một dòng có thể bao gồm nhiều câu. Vì vậy, luận án sẽ coi dòng là đơn vị cơ sở để tiến hành các khảo sát ở chương 2. e. Vần Vần là đối tượng nghiên cứu của một phân môn trong thi học được gọi là thi vận. Luận án triển khai tìm hiểu các loại vần trong hát Xoan trên cơ sở ý kiến của tác giả Lý Toàn Thắng đã viết: “ Vần là sự tương hợp, sự tương đồng, sự cộng hưởng, sự hài hòa, sự lặp lại của các đặc trưng về nguyên âm, phụ âm, trọng âm, thanh điệu v.v của hai từ hay âm tiết được hiệp vần” [105, tr.67]. g. Nhịp Có một số quan niệm khác nhau về nhịp và nhịp điệu. Luận án xin tiếp cận quan điểm về nhịp của luật thơ. iii. Lý thuyết khái quát về trường từ vựng – ngữ nghĩa Với số lượng những công trình nghiên cứu phong phú, trường từ vựng là một đối tượng nghiên cứu có sức hấp dẫn, lôi cuốn được nhiều người tham gia tìm hiểu. Nó trở thành cơ sở để nghiên cứu nhiều vấn đề ngôn ngữ khác và là một con đường quan trọng để đến với nhận thức, tư duy, văn hóa của một dân tộc. iv. Lý thuyết biểu tượng và biểu tượng ngôn từ Ở đây chúng tôi tiếp thu cách hiểu của tác giả Jean Chevalier, Alain Gheerbrant và lấy đó làm xuất phát điểm để xem xét. “Biểu tượng (tiếng Pháp: symbole, tiếng Anh: symbol) theo nghĩa rộng nhất là một tín hiệu mà mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người: cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lí do, tính tất yếu”[37, tr.423]. Biểu tượng ngôn từ được hình thành thông qua các cấp độ chuyển hoá và sản sinh: từ mẫu gốc (bản tổng kết đã được công thức hoá của khối kinh nghiệm to lớn của các thế hệ tổ tiên), rồi biểu tượng văn hoá (trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục…) và biểu tượng ngôn từ (văn học). 1.2.1.2. Cơ sở văn hóa học 7
  10. i. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn học với âm nhạc a. Đặc trưng của hình tượng âm nhạc b. Đặc trưng ngôn ngữ văn học trong tương quan với các nghệ thuật khác c. Sự tương tác giữa ngôn ngữ văn học với các loại hình nghệ thuật khác ii. Nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ a. Ngôn ngữ và âm nhạc hỗ trợ cho nhau, nâng đỡ nhau b. Lời được gọt giũa để phù hợp với nhạc iii. Một số khái niệm cơ sở của âm nhạc và hát Xoan được sử dụng trong luận án Các khái niệm được sử dụng trong luận án gồm: Trổ hát, Bẻ làn, nắn điệu, Quả cách, Phong cách hát Nói, Phong cách hát Ngâm, Phong cách ca Xướng. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.2.1. Hát Xoan là gì? 1.2.2.2. Cơ cấu tổ chức và các thành viên trong sinh hoạt hát Xoan. 1.2.2.3. Giao tiếp ứng xử và địa điểm diễn xướng của hát Xoan 1.2.2.4. Mục đích ca hát và trang phục, đạo cụ, nhạc cụ của hát Xoan 1.2.2.5. Đặc điểm diễn xướng và trình tự cuộc hát Xoan 1.2.2.6. Hát Xoan trong đời sống đương đại 1.3. Tiểu kết Hát Xoan là loại hình dân ca xưa của vùng đất Tổ Phú Thọ, được tổ chức trong dịp tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Xoan được người xưa đọc chệch đi của từ Xuân (có nghĩa là mùa xuân). Hát Xoan là điệu hát múa để chào đón mùa Xuân. Đây là lối hát dân gian trong các lễ hội ở vùng trung du Bắc Bộ, tới khi tín ngưỡng thờ thành hoàng phát triển nó được hát ở cửa đình trong các hội làng trở thành dân ca nghi lễ, phong tục. Dù có một số công trình nghiên cứu đề cập đến hát Xoan Phú Thọ ở các góc độ lịch sử, xã hội, văn hóa và nghệ thuật nhưng chưa có bất cứ một công trình nào có hướng nghiên cứu về đặc điểm ca từ hát Xoan Phú Thọ (từ góc độ Ngôn ngữ học). 8
  11. Dựa trên cơ sở lí thuyết về Ngôn ngữ học (phân tích diễn ngôn; một số khái niệm cơ bản về đoạn, khổ,…; trường từ vựng – ngữ nghĩa; biểu tượng ngôn ngữ) và Văn hóa học (mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn học với âm nhạc; nguyên tắc phổ nhạc trên cơ sở lời thơ; một số khái niệm âm nhạc - văn học cơ bản và cơ sở thực tiễn (hát Xoan trong đời sống xã hội, văn hóa), luận án xác định hướng nghiên cứu là tập trung vào các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của ca từ hát Xoan. ƢƠ 2 Ặ ỂM CA TỪ TRONG HÁT XOAN PHÚ THỌ XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC Ở chương này, các nội dung sẽ triển khai là: các hình thức kết cấu, thể, vần, nhịp và sự hòa phối thanh điệu của các văn bản hát Xoan. 2.1. Các dạng kết cấu của văn bản hát Xoan 2.1.1. Dạng kết cấu một đoạn Dạng kết cấu một đoạn chiếm 12/42 bài hát (28,6 %), đều thuộc về chặng hát thứ 3 – chặng hát hội. Kết cấu một đoạn trong bài hát Xoan nghĩa là bài hát Xoan chỉ gồm một đoạn thân bài, không có đoạn mở và đoạn kết. Nhằm truyền tải nội dung lời ca dài, dạng kết cấu này thường vận dụng lối hát theo trổ, cứ hết trổ này sang trổ khác. Dấu hiệu kết thúc một trổ hát và sang trổ khác thường có 1 – 2 câu hát đưa đẩy. 2.1.2. Dạng kết cấu hai đoạn Dạng kết cấu hai đoạn chiếm 13/42 bài (30,9 %) trong đó có 3 bài: Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng đám là các bài hát thuộc chặng hát thờ; 9 bài còn lại đều thuộc chặng hát hội . Các bài Xoan thuộc dạng này có đoạn mở đầu và đoạn thân bài, không có đoạn kết bài. Dạng kết cấu 2 đoạn hơn dạng kết cấu 1 đoạn ở chỗ nó có thêm phần mở bài hát. Chức năng của đoạn mở là chào làng nước, chúc phúc và giới thiệu khái quát nội dung bài hát. Đoạn thân có kết cấu giống như các bài hát Xoan có kết cấu 1 đoạn. 2.1.3. Dạng kết cấu ba đoạn Dạng kết cấu 3 đoạn là hình thức tiêu biểu nhất của hát Xoan. Dạng kết 9
  12. cấu này chiếm 17/42 bài (40,5 %) gồm 14 bài Quả cách và 3 bài là: Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Giáo trống đều là các bài thuộc chặng hát thờ. Đây là hình thức đầy đủ nhất của hát Xoan với kết cấu bao gồm đoạn giáo cách (mở bài), đưa cách (thân bài) và kết cách (kết bài). Kết cấu này thể hiện tính chặt chẽ, mạch lạc, có quy định rõ ràng của hệ thống 14 bài Quả cách. Ngoài. Đặc điềm nổi bật của các bài hát Xoan có kết cấu 3 đoạn là: đoạn giáo cách – chào làng nước, chúc phúc và giới thiệu nội dung bài hát; đoạn đưa cách – kết cấu theo trổ giống như các bài hát có kết cấu một đoạn; đoạn kết cách – có 2 câu hát đệm đưa đẩy cho cả 14 bài Quả cách (Len là len hỡi, len hỡi là len, Ấy giã tiệc này vua là Đại vương) 2.2. Thể trong hát Xoan 2.2.1. Thể 4 tiếng và biến thể Thể 4 tiếng và biến thể chiếm số lượng 9/42 bài (21,4 %). Thể 4 tiếng và biến thể chiếm số lượng 5 bài ở chặng hát thờ, 2 bài ở chặng hát quả cách và 2 bài ở chặng hát hội. Điều này cho thấy hình thức câu thơ phù hợp với nội dung của bài hát. Cụ thể là phần lớn các bài hát thuộc chặng một (hát thờ, hát nghênh thần) và chặng hai (Quả cách) mang nội dung khẩn nguyện gần với lối hát Nói nên thích hợp với thể thơ 4 tiếng. 2.2.1.1. Thể 4 tiếng và dòng biến thể 5,6 tiếng Tiểu loại này có 5/9 bài (55,5 %). Đó là các bài: Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Thơ nhang, Đóng đám, Kiều Giang cách. Đặc điểm về thể của các bài hát Xoan này là thể 4 tiếng được sử dụng gần như trong cả bài, đôi khi xen kẽ một số dòng 5 tiếng hoặc 6 tiếng. 2.2.1.2. Thể thơ 4 tiếng và dòng biến thể 7 tiếng trở lên Các bài hát Xoan có thể 4 tiếng và các dòng biến thể 7 – 8 tiếng có 4/9 bài (44,6 %). Đó là các bài: Giáo pháo, Chơi giâu xướng cách, Giương cũng bắn cò và Xẻ ván bắc cầu. Đặc điểm của thể trong 5 bài hát Xoan này là thể 4 tiếng chiếm vai trò chủ đạo, các câu thơ biến thể từ 7 tiếng trở lên xuất hiện ít hơn. 2.2.2. Thể lục bát và biến thể 2.2.2.1. Thể lục bát 10
  13. Các bài hát Xoan có ca từ làm theo thể lục bát và biến thể chiếm 14/42 bài (30,9 %). Thể lục bát và biến thể có 3/14 bài (21,4 %) bài thuộc chặng hát quả cách (gồm: Nhàn ngâm cách, Thu thời cách và Thuyền chèo cách); 11 bài (tương ứng 78,6 %) còn lại đều thuộc chặng hát hội (chặng hát giao duyên). Có (6/14 bài - 42,9 %) xuất hiện trọn vẹn thể lục bát là: Trống quân Đức Bác, Trống quân đón đào, Gài huê, Hát ru, Bỏ bộ, Trèo lên cây bưởi. Hình thức của câu lục bát ở các bài Xoan này có những nét tương đồng với hát đối và hát đố trong hát giao duyên nam nữ vùng đồng bằng Bắc Bộ. 2.2.2.2. Biến thể của lục bát 8 bài hát Xoan còn lại có sử dụng thể lục bát và biến thể là: Thu thời cách, Nhàn ngâm cách, Thuyền chèo cách, Mời rượu, Trồng bông luống đậu, Xe chỉ vá may, Hát đúm và Đường đi trên suối dưới hầm. Đây là những bài hát Xoan có thể thơ lục bát là chủ yếu (trung bình là 63, 4 %) cùng với các biến thể (chiếm gần 36,6%). Các dòng biến thể của thể lục bát trong ca từ hát Xoan thì hiện tượng giãn ra, mở rộng ở các dòng lục (60 – 37,9 %) và các dòng bát (44 – 27,8 %) chiếm ưu thế hơn hiện tượng co lại và giữ nguyên ở các dòng lục (32 – 20,2 %) và dòng bát (22 – 14,1 %). các bài hát Xoan kể trên có biến thể ở dòng lục co lại thường là thể 4 tiếng (chiếm 20,3 %), các biến thể ở dòng lục giãn ra thường là thể 7, 8 tiếng (chiếm 41,8 %); các biến thể ở dòng bát giãn ra thường là 9, 10 tiếng (chiếm 27,8 %). Như vậy, biến thể ở dòng lục với hiện tượng giãn ra chiếm ưu thế hơn so với 3 loại còn lại. 2.2.3. Thể thất ngôn và biến thể 2.2.3.1. Thể thất ngôn và biến thể dưới 15 dòng Về số lượng, các bài Xoan này chiếm 5/11 bài (45, 5 %), là các bài: Phú Kiều, Phú Xích Bích, Bút huê thảo, Phú năm canh và Hát lý. Đây đều là các bài hát Xoan thuộc chặng hát hội. Các bài hát Xoan này mang những đặc điểm: câu thơ thất ngôn không tuân theo luật, số dòng biến thể ít (chỉ dưới 10 câu), 72,8 % các dòng biến thể là từ 8 tiếng trở lên, chỉ có 27, 2 % dòng biến thể từ 6 tiếng trở xuống. Đặc điểm về thể thơ này cũng phù hợp với kiểu hát Ngâm và ca Xướng đối với các bài hát phú và các bài hát thuộc chặng hát hội của cuộc hát Xoan. 11
  14. 2.2.3.2. Thể thất ngôn và biến thể trên 15 dòng Đó là trường hợp của 6/11 bài (54,5 %): Giáo trống, Trường mai cách, Ngư tiều canh mục cách, Hồi liên cách, Tứ dân cách, Đối dãy cách. Có thể thấy đây là các bài Xoan thuộc chặng hát nghênh thần và chặng hát Quả cách. Trong đó có 180/250 (72,0 %) dòng thất ngôn đúng luật, 70/250 (28,0 %) dòng thất luật. Trong 167 dòng biến thể có 49 dòng (29,3 %) theo thể 4 tiếng; 47 dòng (28,1 %) theo thể lục bát; 30 dòng (17,9 %) theo thể 6 tiếng; 23 dòng theo thể 5 tiếng (13,8 %) và 18 dòng (10,9 %) theo thể thơ 8 tiếng trở lên. 2.2.4. Thể song thất lục bát và thể tự do 2.2.4.1.Thể song thất lục bát và biến thể Song thất lục bát và biến thể của nó chỉ chiếm 2/42 (4,7 %) bài hát Xoan. Đó là các bài Tứ mùa cách (Tứ đưa Xoan cách) và Giã cá (Đánh cá – Mó cá). Tứ mùa cách là bài hát thuộc chặng Quả cách nên tính chất quy phạm và khuôn khổ của nó thể hiện rõ nét. Giã cá là bài ca lao động thuộc chặng hát giao duyên nên linh hoạt hơn trong việc vận dụng thể thơ song thất lục bát. 2.2.4.2. Thể tự do Có 6/42 (14,3%) bài hát Xoan sử dụng thể tự do. Thể tự do là hình thức cấu trúc bài gồm các câu dài ngắn khác nhau, đan xen, không ổn định theo một thể nhất định. Đó là các bài Thu thời cách (Mừng thu cách), Đông thời cách (Đưa đông cách), Xoan thời cách (Mừng Xoan cách) - 3 bài hát chỉ mùa là thuộc về chặng hát Quả cách); còn Xin huê - Đố chữ, Bợm gái và Cầu Bạch cầu bông - 3 bài hát thuộc chặng hát hội. Trong tổng số 441 dòng của 6 bài Xoan có sự kết hợp của 100 dòng 4 tiếng (22,7 %), 116 dòng lục bát (26,3%), 94 dòng 7 tiếng (21,3 %), 50 dòng (11,3 %) 8 tiếng trở lên, 40 dòng (9,1 %) 5 tiếng và 41 dòng 6 tiếng (9,3 %). 2.3. Vần trong hát Xoan Có 1368/2302 dòng (59,4 %) của 42 bài hát Xoan xuất hiện vần. Trong đó, đứng ở vị trí cao nhất là loại vần lưng (vần trong 1 khổ) chiếm 444/1368 dòng (32,5%). Đứng thứ 2 là vần cách (vần giữa các khổ) chiếm 382/1368 dòng (27,9 %). Đứng thứ 3 là vần chân (vần trong một khổ) chiếm 363/1368 dòng (26,5%). 2.3.1. Vần trong một khổ 12
  15. Đây là loại vần chiếm số lượng và tỉ lệ cao nhất: 807/1368 dòng (~ 59,9 %). Ba loại vần chiếm ưu thế trong một khổ của các bài hát Xoan là vần lưng (204/807 - 25,3 %), vần chân (189/807 – 23,4 %) và vần hỗn hợp (163/807 – 20,2 %). Vần chân và vần lưng trong các bài hát Xoan thường tuân theo luật thơ của các thể lục bát, 4 chữ và thất ngôn. Vần chân thường xuất hiện nhiều hơn trong các bài hát Xoan thuộc chặng 1 hát thờ, nghênh thần. Vần lưng thường xuất hiện nhiều hơn trong các bài hát Xoan thuộc chặng 3 hát giao duyên. Vần hỗn hợp thường chiếm ưu thế ở các bài Xoan thuộc chặng hát 2 hát các bài Quả cách. 2.3.2. Vần giữa các khổ Ca từ hát Xoan có 561/1368 (~ 40,1 %) trường hợp vần giữa các khổ thơ. Hiện tượng vần giữa các khổ thơ chiếm 47, 4 % là cùng thể thơ, cùng trong một đoạn (như giáo cách, đưa cách hoặc kết cách). Kết quả khảo sát cũng cho thấy có 52,6 % trường hợp vần giữa các khổ thơ mà thể khác nhau hoặc là vần từ đoạn nọ sang đoạn kia của bài hát Xoan. 2.4. Nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan 2.4.1. Nhịp 2.4.1.1. Nhịp chẵn trong các dòng có số tiếng chẵn (4, 6 và 8 tiếng) a. Đối với các câu 4 tiếng Loại nhịp 2/2 trong thể thơ 4 tiếng chiếm 94,9% trên tổng số câu thơ được khảo sát. b. Đối với các câu 6 và 8 tiếng Đối với những bài Xoan hình thành trên thể thơ lục bát, lối phân nhịp 2 hoặc 4 chiếm ưu thế với các kiểu cấu trúc: câu 6 là 2/2/2; 2/4/ hoặc 4/2; câu 8 là 2/2/2/2 4/2/2; 2/4/2; 2/2/4 hoặc 4/4. Có 89,3 % các câu ca theo thể lục bát phân chia nhịp chẵn. 2.4.1.2. Nhịp lẻ trong các dòng có số tiếng lẻ (5,7 và 9 tiếng) Lối phân nhịp lẻ trước chẵn sau (3/2 với thể 5 tiếng và 3/4 hoặc 3/2/2 với thể bảy tiếng) trong câu thơ thất ngôn cũng là đặc trưng của thơ ca Việt Nam (khác với thơ thất ngôn của Trung Quốc là chẵn trước lẻ sau). Ca từ hát Xoan 13
  16. cũng không nằm ngoài cách ngắt nhịp này. 2.4.2. Sự hòa phối thanh điệu 2.4.2.1. Thanh điệu phối đúng luật BT Trong số 2302 dòng được khảo sát có 198 câu hát đưa đẩy, cụm từ phụ cố định, câu hát chuyển đoạn, kết thúc trổ hát. Trong 2104 dòng còn lại có 1187 dòng (56,4 %) thanh điệu phối đúng luật BT. 2.4.2.2. Thanh điệu phối không đúng luật Có 917/2104 dòng (43,6 %) phối không đúng luật BT. Trong 917 dòng phối không đúng luật BT có thể chia nhỏ hơn: các dòng có nhiều thanh B hơn (543/917 - 59,2 %), các dòng có nhiều thanh T hơn (374/917 dòng - 40,8 %). 2.5. Tiểu kết Như vậy, chương 2 đã đi vào khảo sát và phân tích đặc điểm hình thức của ca từ hát Xoan trên bốn vấn đề cơ bản. Một là kết cấu văn bản của hát Xoan. Kết cấu văn bản hát Xoan được chia theo đoạn. Kết cấu đoạn trong hát Xoan được chia thành 3 loại: một đoạn, hai đoạn và ba đoạn. Kết quả khảo sát cho thấy kết cấu ba đoạn chiếm ưu thế (17/42 bài ~ 40.5 %) và chủ yếu là các bài hát Xoan thuộc chặng hai (chặng hát Quả cách). Điều này chứng minh rằng hình thức kết cấu của văn bản hát Xoan quy định rõ nội dung của ca từ. Cụ thể là các bài hát thuộc chặng Quả cách là các bài hát đủ 3 đoạn và là những bài hát mang tính quy phạm và mực thước hơn so với các bài của chặng 1 và chặng 3. Hai là thể trong hát Xoan. Thể trong ca từ hát Xoan đã được nhìn nhận chủ yếu ở các thể: 4 tiếng và biến thể, lục bát và biến thể, thất ngôn và biến thể, song thất lục bát và biến thể và thể tự do. Ba thể chiếm ưu thế hơn cả trong ca từ hát Xoan là thể lục bát, 4 tiếng và thể thất ngôn. Thể 4 tiếng được sử dụng chủ yếu trong các bài hát thuộc chặng hát nghênh thần. Thể thất ngôn chiếm ưu thế trong các bài hát chặng quả cách. Thể lục bát xuất hiện nhiều ở chặng hát giao duyên. Sở dĩ có đặc điểm này là vì thể trong các bài hát nghênh thần gần với các bài vè dân gian với nội dung ngợi ca công đức của những người anh hùng, người có công,những vị vua hay Thành hoàng làng; thể thất ngôn trong các bài quả cách tương đồng với thể thất ngôn các bài thơ Đường với nội dung gần với văn chương 14
  17. Nho giáo bằng việc kể lại tích xưa, truyện xưa; còn chặng ba, người hát có thể thoải mái bộc lộ tâm tình qua thể lục bát. Như vậy, hình thức của thể trong mỗi bài, chặng hát Xoan cũng liên quan đến và có thể quyết định nội dung của nó. Ba là vần trong hát Xoan. Vần trong ca từ hát Xoan được chia thành các loại: vần trong một khổ (vần chân, vần lưng, vần liền, vần cách, vần ôm, vần hỗn hợp) và vần giữa các khổ thơ. Trong hai loại này chiếm ưu thế lớn nhất là vần trong một khổ. Vần trong một khổ thơ có vần chân, vần lưng và vần hỗn hợp có tần số xuất hiện nhiều hơn cả và mang lại giá trị liên kết cũng như giá trị tu từ cao. Hơn thế nữa, vần trong hát Xoan còn là phương tiện biểu đạt nội dung của nhân vật trữ tình trong ca từ hát Xoan. Bốn là nhịp và sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan. Nhịp trong ca từ hát Xoan có 2 loại: nhịp chẵn trong các câu thơ có số tiếng chẵn (4,6 hoặc 8 tiếng) và nhịp lẻ trong các câu thơ có số tiếng lẻ (5, 7 hoặc 9 tiếng). Sự hòa phối thanh điệu của ca từ hát Xoan được chia làm 2 nhóm: nhóm các dòng có thanh điệu phối đúng luật BT ( ~ 57,3 %) và nhóm các dòng có thanh điệu phối không đúng luật BT (~ 42,7 %). Nhóm các dòng có thanh điệu phối không đúng luật BT được phân xuất nhỏ hơn thành hai loại: nhóm các câu thơ có nhiều thanh B hơn và nhóm các câu thơ có nhiều thanh T hơn. Điều này cho thấy hát Xoan là một loại hình âm nhạc dân gian linh hoạt trong việc vận dụng sức mạnh của sự hòa phối thanh điệu để làm nên giá trị của các bài hát. ƢƠ 3 Ặ ỂM CA TỪ TRONG HÁT XOAN PHÚ THỌ XÉT VỀ MẶT NGỮ ĨA Chương này được triển khai trên 3 phương diện là: nhan đề, trường từ vựng, một số biểu tượng ngôn từ trong hát Xoan. 3.1. Ngữ nghĩa qua hệ thống nhan đề các bài hát Xoan 3.1.1. Nhan đề trong mối quan hệ với đề tài 3.1.1.1. Nhóm nhan đề “thiên nhiên” Đề tài thiên nhiên gồm 6/42 bài (14,3 %). Đó là các bài có nhan đề chỉ mùa, chỉ thời gian như: Xoan thời cách (Mừng Xoan cách), Hạ thời cách, Thu 15
  18. thời cách, Đông thời cách (Đưa đông cách), Tứ mùa cách, Nhàn ngâm cách. 3.1.1.2. Nhóm nhan đề “khẩn nguyện”và “tích xưa” Nhóm nhan đề ứng với đề tài “khẩn nguyện” và “tích xưa” có 14/42 bài - 33,3 %. Đề tài “khẩn nguyện” gồm 7 bài: đều thuộc chặng hát thờ Hát nhập tịch chào vua, Hát chúc thành hoàng, Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang, Đóng đám, Mời rượu và đề tài “tích xưa” (7 bài: có 5 bài thuộc chặng hát Quả cách, 2 bài thuộc chặng hát hội (Phú Kiều và Phú Xích Bích). Điều này cho thấy các bài hát thuộc đề tài“khẩn nguyện” và “tích xưa” có 12/14 bài (85,7%) là những bài hát thuộc chặng 1 và chặng 2 – các chặng hát mang tính nghi thức lề lối và bài bản. Chỉ có 2/14 bài (14,3%) thuộc chặng hát thứ 3 – chặng hát hội. 3.1.1.3. Nhóm nhan đề “lao động” và “giao duyên” Nhóm nhan đề ứng với đề tài“lao động” và “giao duyên” có 22/42 bài (52,4 %). Có thể chia thành nhóm nhan đề ứng với đề tài “lao động” (10 bài – 45,5 % - có thể chia nhỏ hơn thành các nhóm nhỏ: đề tài nghề nghiệp và đề tài quan hệ xóm làng. Nhóm đề tài nghề nghiệp gồm các bài Ngư tiều canh mục cách, Thuyền chèo cách (Hò đò cách), Giã cá, Xe chỉ vá may, Giương cung bắn cò). Nhóm đề tài quan hệ xóm làng gồm các bài Tứ dân cách, Cầu bạch cầu bông, Xẻ ván bắc cầu, Đường đi trên suối dưới khe, Trồng bông luống đậu). Đề tài “giao duyên” (12 bài – 54,5 %). Các bài ca giao duyên là những bài hát có nội dung hát đối và hát đố giữa bên nam và bên nữ. 3.1.2. Đề tài và mạch lạc trong các bài hát Xoan 3.1.2.1. Đề tài được triển khai nhất quán Đề tài của các bài Xoan được triển khai nhất quán từ nhan đề đến từng ca từ, từng đoạn trong bài. Thiên nhiên, sự vật, thời tiết, nghi lễ và cả con người trong các bài này đều được miêu tả bằng những từ ngữ thuộc về trường nghĩa mà nhan đề đã gọi tên. 3.1.2.2. Đề tài được phát triển và mở rộng Mạch đề tài của một bài hát Xoan không những được triển khai nhất quán mà còn có khả năng mở rộng và phát triển sang các đề tài khác. Chẳng hạn như với đề tài thiên nhiên có một chủ đề bao quát (tứ thời) với đường dẫn liên kết 16
  19. giữa các tiểu chủ đề (xuân, hạ, thu, đông). Hoặc chủ đề bao quát tứ dân với các tiểu chủ đề (sĩ, nông, công, thương), (ngư , tiều, canh, mục). Tóm lại, hiện tượng phát triển, mở rộng hay “lấn sân” sang các đề tài khác cho ta thấy mạch của đề tài một bài hát Xoan không bị bó hẹp, không là duy nhất. 3.2. ác trƣờng từ vựng trong ca từ hát Xoan Các trường từ vựng được khảo sát và phân tích trong ca từ hát Xoan tổng cộng là 6854 từ bao gồm: con người (2039 lần ~ 30,9%), thời gian (1083 lần ~ 16,4 %), vũ trụ (967 lần ~ 14,6 %), thực vật (915 lần ~ 13,9%), động vật (854 lần ~ 12,4%) và lễ hội (726 lần ~ 11,0%). 3.2.1. Trường từ vựng “con người” Các từ ngữ biểu thị con người trong ca từ hát Xoan gồm 6 lớp từ định danh thông qua các tiểu trường biểu thị: cảm xúc, hoạt động, địa vị, nghề nghiệp, giới tính và bộ phận cơ thể. Cụ thể: 3.2.1.1. Tiểu trường từ vựng “tình thái” của con người Tiểu trường chỉ cảm xúc, tình cảm có tần số xuất hiện cao nhất 401/2039 lần (~ 19,6 %). Tiểu trường này gồm các lớp từ chỉ đặc trưng: tâm lí tình cảm; trạng thái sự vật, hiện tượng; mùi vị, màu sắc; tính chất tuyệt đối; chiều hướng, nhiệt độ, số lượng. 3.2.1.2. Tiểu trường từ vựng « hoạt động » của con người Tiểu trường biểu thị hoạt động của con người trong 42 bài hát Xoan chiếm 390/2039 lần (~ 19,3%) bao gồm 2 lớp từ: hoạt động độc lập chiếm 297/390 lần (~ 76,1 %); quan hệ và tình thái chiếm 93/390 lần (~ 23,9 %). 3.2.1.3. Tiểu trường từ vựng “ địa vị xã hội”: có tần số xuất hiện là 383/2039 (~ 18,7 %), xuất hiện nhiều hơn ở các bài hát Xoan đề tài nghi lễ. 3.2.1.3. Tiểu trường từ vựng “giới tính con người”: có tần số xuất hiện là 361/2039 lần (~ 17,8 %), xuất hiện nhiều nhất ở các bài hát Xoan đề tài giao duyên. 3.2.1.5. Tiểu trường từ vựng “nghề nghiệp”: có tần số xuất hiện là 332/2039 (~ 16,3%), xuất hiện phổ biến trong các bài hát Xoan đề tài lao động . 3.2.1.6. Tiểu trường từ vựng “bộ phận cơ thể người”: có tần số xuất hiện ít nhất 172/2039 lần (8,4 %). 17
  20. 3.2.2. Trường từ vựng “thời gian” Trường từ vựng biểu thị thời gian xuất hiện 1083/6584 lần - 16,4%, gồm các tiểu trường: thời gian mùa – thời tiết (551/1083 lần– 50,9 %); thời gian ngày – tháng - năm (289/1083 lần – 26,7 %) và thời gian quá khứ - hiện tại – tương lai (243/1083 lần – 22,4%). 3.2.3. Trường từ vựng “vũ trụ” Trường từ vựng biểu thị vũ trụ xuất hiện 967/6584 lần - 14,6%, gồm 2 tiểu trường: sự vật – hiện tượng tự nhiên (627/967 lần ~ 64,8 %); không gian (340/967 lần – 35,2%). 3.2.4. Trường từ vựng “thực vật” Trường từ vựng biểu thị thực vật trong hát Xoan xuất hiện 915/6584 lần - 13,9 % trong đó gồm các tiểu trường: Cây (389/915 lần - 42,5%); Hoa (361/915 lần ~ 39,5%) và Rau – Củ - Quả (165/915 lần – 28,0 %). 3.2.5. Trường từ vựng “động vật” Đây là trường từ vựng đứng thứ 5 trong các trường từ vựng được khảo sát của các bài hát Xoan (854/6584 lần - 12,4 %). Trong này được chia thành 5 nhóm: Ngư (235/854 lần – 27,5 %); Điểu (198/854 lần - 23,1%); Thú (138/854 lần – 16,2 %); Trùng (171/854 lần – 20,0 %) và động vật tưởng tượng (112/854 lần - 13,2 %). 3.2.6. Trường từ vựng “lễ hội” Trường từ vựng “lễ hội” trong ca từ hát Xoan đứng vị trí thứ 6, là trường từ vựng nhỏ nhất, chiếm 726/6584 lần (~ 11,0 %). Trường từ vựng này bao gồm các tiểu trường: tên gọi của lễ hội (281/726 ~ 37,8%); tính chất của lễ hội (250/854 lần ~ 32,9%); hoạt động của lễ hội ( 195/854 lần ~ 29,3%). 3.3. Một số biểu tƣợng ngôn ngữ - văn hóa trong ca từ hát Xoan 3.3.1. Một số biểu tượng nổi bật trong ca từ hát Xoan 3.3.1.1. “Hoa” (huê) – Biểu tượng của thời gian, của sắc đẹp, tuổi trẻ, người con gái và của phẩm chất tâm hồn. Trong ca từ hát Xoan, biểu tượng hoa thường được nói chệch thành huê (để tránh phạm húy) xuất hiện 141 lần. Đây là biểu tượng xuất hiện nhiều nhất về tần số và số bài hát: 28/42 bài ở cả 3 chặng hát (chặng 2 và chặng 3 chiếm 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2