intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-1865)

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

87
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận án là làm rõ vị trí, tác động của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ giai đoạn từ năm 1830 đến năm 1865 trong toàn bộ quá trình đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ và tác động của phong trào này đối với nước Mỹ và thế giới. Để thực hiện được mục đích trên, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu: Một là, phân tích cơ sở cũng như những nhân tố tác động đến phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865; hai là, khôi phục lại một cách hệ thống và toàn diện về phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865; ba là, phân tích các kết quả, những mặt tích cực và hạn chế của phong trào từ đó khái quát những đặc trưng của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830-1865)

  1. MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Nước Mỹ  là một quốc gia phát triển và văn minh, nhưng trong lịch sử  lại   từng tồn tại một chế độ nô lệ tàn ác khi mà những người da đen được đưa đến từ  châu Phi xa xôi phải lao động cực nhọc mà không được đối xử  như  con người.  Ngày nay, nhân loại tiến bộ  đang hướng tới việc xây dựng một thế  giới không   phân biệt đối xử, thì đứng dưới góc độ  lịch sử, việc nghiên cứu  phong trào đấu  tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  trong thế  kỷ  XIX (1830 ­ 1865) vẫn có ý nghĩa   khoa học và thực tiễn. Những hoạt động lẻ tẻ đấu tranh chống lại chế độ nô lệ đã  khởi phát từ  cuối thế  kỷ  XVIII nhưng phải đến thập niên 30 của thế  kỷ  XIX nó  mới phát triển thành một phong trào rầm rộ cho đến tận năm 1865. Đối với nô lệ  da đen, chế độ nô lệ quá khắc nghiệt và tự do với họ là khát khao cháy bỏng nhất.  Đối với người da đen tự do, dù không phải là tài sản sở hữu của chủ nô nhưng họ  vẫn bị  kìm kẹp và cảm thấy khó thở  trong xã hội bất công của người da trắng.   Còn trong suy nghĩ của những người da trắng miền Bắc dù dưới góc độ  kinh tế,   tôn giáo hay đạo đức, xã hội thì chế độ nô lệ là đều cần phải xóa bỏ.  Ngược lại,  các chủ nô ở miền Nam lại muốn duy trì sự tồn tại của chế độ nô lệ. Vào thế kỷ  XIX, mâu thuẫn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ lại càng gay gắt mà đỉnh cao là  cuộc Nội chiến lịch sử  (1861­1865) và sự  tồn tại của chế  độ  nô lệ  chính là nút   thắt. Có thể thấy, sở hữu nô lệ và sự tồn tại của chế độ nô lệ là một vấn đề phức   tạp, nhạy cảm, liên quan đến lợi ích của các nhóm thế  lực đối lập, thậm chí liên   quan đến sự bền vững của quốc gia. Như vậy, lịch sử nước Mỹ đã giải quyết vấn  đề này như thế nào, phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ trong 35 năm  trước Nội chiến Mỹ có gì khác hơn so với các hoạt động đấu tranh trước đó và tại  sao đến thế  kỷ  XX, phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da đen  vẫn tiếp tục, vai trò của người da trắng và người da đen trong cuộc đấu tranh này   như  thế  nào là những vấn đề  khoa học tác giả  muốn lý giải. Thực tế  cho thấy  ở  Mỹ hiện nay, dù người Mỹ gốc Phi đã có một vị thế mới và đóng góp đáng kể cho  1
  2. sự  thịnh vượng chung của nước Mỹ  song tình trạng phân biệt chủng tộc và định  kiến nặng nề  với người da đen vẫn còn tồn tại  ở  nhiều bang. Đồng thời,   việc  hiểu rõ hơn về  lịch sử  xã hội Mỹ  cũng góp phần thúc đẩy sự  hiểu biết lẫn nhau   trong quá trình phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ trên nhiều phương   diện. Bản thân tác giả  cũng mong muốn nghiên cứu các vấn đề  liên quan đến  quyền con người, chế độ nô lệ trong quá khứ và chế độ nô lệ hiện đại, những vấn   đề  xã hội liên quan đến các nhóm yếu thế  trong xã hội trong đó có các nạn nhân   của nạn buôn bán người. Vì thế tác giả chọn đề tài “Phong trào đấu tranh xóa bỏ   chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  (1830 – 1865)” làm hướng nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ  Lịch sử của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ Mục đích của luận án là làm rõ vị trí, tác động của phong trào đấu tranh xóa  bỏ chế độ nô lệ giai đoạn từ năm 1830 đến năm 1865 trong toàn bộ quá trình đấu  tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ và tác động của phong trào này đối với nước Mỹ  và thế  giới. Để  thực hiện được mục đích trên, tác giả  tập trung vào giải quyết  những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Một là, phân tích cơ sở cũng như những nhân tố  tác động đến phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  từ  năm 1830 đến   năm 1865; Hai là, khôi phục lại một cách hệ thống và toàn diện về phong trào đấu  tranh xóa bỏ chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  từ  năm 1830 đến năm 1865; Ba là, phân tích các  kết quả, những mặt tích cực và hạn chế của phong trào từ đó khái quát những đặc   trưng của phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  từ  năm 1830 đến năm  1865. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.Đối tượng nghiên cứu của đề  tài là phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ ở Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về  phạm vi không gian: luận án làm rõ nội dung của phong trào đấu tranh  xóa bỏ chế độ nô lệ trên các bang sáp nhập vào lãnh thổ Mỹ trước năm 1865. 2
  3. Về phạm vi thời gian: đề tài giới hạn từ năm 1830 đến năm 1865.  4. Các nguồn tư liệu Các tư  liệu gốc liên quan đến hoạt động của phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế độ nô lệ như các tờ báo chống nô lệ, các bài viết chống lại chế độ  nô lệ, các   câu chuyện kể  của những nô lệ  bỏ  trốn, những tự truyện về  cuộc đời nô lệ  của  họ, các văn bản pháp luật của Mỹ liên quan đến việc xóa bỏ chế độ nô lệ thế kỷ  XIX ... Các tài liệu tham khảo khác bao gồm các chuyên khảo, các bài nghiên cứu,  một số  website lịch sử, thư  viện chính thống trên internet, các công trình chuyên   khảo về lịch sử Mỹ, và phong trào giải phóng nô lệ. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1.Về phương pháp luận: Luận án quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác  Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về  nghiên cứu khoa học lịch sử. 5.2. Về phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lịch sử  Phương pháp logic  Phương pháp nghiên cứu tư liệu  Phương pháp bổ trợ khác như tổng hợp, so sánh…  6. Đóng góp của luận án Trước hết, luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống về  phong trào đấu   tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  giai đoạn 1830 đến 1865 dưới góc độ  của nhà  nghiên cứu Việt Nam; Hai là, trên cơ sở những tư liệu thu thập được, luận án làm  sáng tỏ vị  trí, tác động, đặc điểm của giai đoạn đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ  ở  Mỹ từ năm 1830 đến năm 1865 ở Mỹ; Ba là, luận án đã góp phần bổ sung vào hệ  thống tài liệu tham khảo và nâng cao chất lượng của hoạt động nghiên cứu, giảng  dạy lịch sử Mỹ, lịch sử thế giới cũng như các ngành khoa học xã hội liên quan. 3
  4. 7. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận   án được trình bày trong 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề Chương 2: Cơ  sở  và những nhân tố  tác động của phong trào đấu tranh xóa  bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ (1830 ­1865) Chương 3: Tiến trình của phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ  ở  Mỹ  (1830­1865) Chương 4: Một số nhận xét về phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ  nô lệ ở  Mỹ (1830­1865) CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1.Tình hình nghiên cứu của các học giả Việt Nam Nhóm thứ nhất: Bao gồm các giáo trình lịch sử thế giới đại cương và những  công trình về  lịch sử  nước Mỹ. Nhóm thứ  hai, bao gồm các chuyên khảo về  các  vấn đề cụ thể trong lịch sử nước Mỹ, trong đó có vấn đề về chế độ nô lệ  và đấu  tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ. Đặc điểm chung của các công trình trên là tuy có  nhắc đến vấn đề nô lệ và phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ  nô lệ  ở Mỹ  nhưng   chưa được trình bày một cách kỹ  càng, chưa thấy được rõ những hoạt động, tác  động và đặc điểm của phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ, đặc biệt trong   thế kỷ XIX.  1.2. Tình hình nghiên cứu của các học giả ngoại quốc Các công trình bằng tiếng Anh có thể  chia thành từng nhóm liên quan đến  nội dung luận án như  sau:  Nhóm thứ  nhất, tìm hiểu về  chế  độ  nô lệ  nước Mỹ,  thân phận người nô lệ da đen ở Mỹ và sự phản kháng của họ trong các đồn điền ở  miền Nam nước Mỹ. Nhóm thứ hai, tìm hiểu về phong trào đấu tranh xóa bỏ chế  độ nô lệ, những nhân vật lịch sử có đóng góp to lớn cho phong trào và những thành  tựu của phong trào này  ở  Mỹ  vào thế  kỷ  XIX. Nhóm thứ  ba, là tìm hiểu về  tác   động của chế  độ  nô lệ, phong trào giải phóng nô lệ  tới các sự  kiện chính trị, xã   4
  5. hội, luật pháp ở Mỹ thế kỷ XIX. Nhóm thứ tư, các công trình nghiên cứu toàn diện   về chế  độ  nô lệ Mỹ, phong trào giải phóng nô lệ  và kết quả  của nó trong lịch sử  nước Mỹ  1.3. Nhận xét Tại Việt Nam chủ đề  về  “phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ  ở  Mỹ  từ năm 1830 đến năm 1865” nhìn chung chưa được đề cập một cách chuyên sâu và  hệ  thống.  Ưu điểm của các công trình nước ngoài mà tác giả  tiếp cận được là  nguồn tài liệu phong phú, quý giá, thậm chí ở một số công trình còn đưa ra những  tư  liệu gốc hết sức có giá trị. Tuy nhiên, do đa phần các công trình mà tác giả  đã   tiếp cận đều viết dưới dạng tập hợp tư liệu, tập hợp sự kiện, tập hợp ý kiến chứ  hầu như không có sự kết hợp đánh giá tác động và ảnh hưởng của phong trào đấu  tranh xóa bỏ chế độ nô lệ đối với lịch sử nước Mỹ, cuộc sống của người Mỹ gốc   Phi cũng như  tới thế  giới.  Vì vậy, với đề  tài này, tác giả  mong muốn lấp đầy  những khoảng trống về  vấn đề  nghiên cứu trong nước, đồng thời đưa ra những   luận giải cá nhân dưới góc độ  đa chiều, khách quan của một nhà nghiên cứu lịch  sử Việt Nam. CHƯƠNG 2 CƠ SỞ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI PHONG TRÀO ĐẤU TRANH XÓA BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ Ở MỸ (1830­1865) 2.1. Cơ  sở của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ  ở Mỹ  (1830­ 1865) 2.1.1.Cơ sở nhận thức Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ chính là sản phẩm từ nhận  thức của người Mỹ  về  chế  độ  nô lệ. Nền tảng của những nhận thức chính là  những tư  tưởng tiến bộ  về  quyền con người của các nhà triết học châu Âu tiêu  biểu như  John Locke (1632­1704)  và  Thomas Paine (1731­1809).  Nhận thức của  người nô lệ  sau năm 1787 đến trước Nội chiến (1861­1865) mới chỉ  dừng lại  ở  việc tự  giải phóng mình khỏi thân phân nô lệ. Nhưng trong thời kỳ  Nội chiến,   nhận thức của các nô lệ  đã thay đổi. Họ  bắt đầu ý thức được rằng trong cuộc   chiến này, tự do của họ gắn liền với chiến thắng của Liên bang miền Bắc và sự  5
  6. thất bại của Liên minh miền Nam. Lúc này, họ đã đặt sự tự do của mình trong mối   quan hệ  chính trị  với cả  dân tộc nên cuộc đấu tranh của họ  không còn mang tính  chất tự phát như  thời kỳ trước mà gắn liền với những hoạt động chung của Liên  bang nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh, bảo toàn sự thống nhất của quốc gia.  Bên cạnh các nô lệ  thì những người da đen tự  do cũng nhận thức được yêu cầu  xóa bỏ chế độ nô lệ Mỹ, họ coi cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ là một nhiệm   vụ của mình và gắn nó với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và  đòi quyền bình đẳng cho người da đen. Trong khi đó, sau năm khi Hiến pháp Mỹ ra   đời năm 1787, nhận thức của những người da trắng về chế độ nô lệ đã có sự khác  biệt giữa hai miền Nam – Bắc. Ở miền Nam, người da trắng tìm cách ngăn cản sự  nổi dậy của các nô lệ bằng các đạo luật ngày càng nghiêm khắc, tàn bạo và lên án   các hoạt động đấu tranh chống lại chế  độ  nô lệ.  Ở  miền Bắc, nhận thức của   người Mỹ về chế độ nô lệ được đặt trên nhiều phương diện khác nhau từ kinh tế,   chính trị đến đạo đức, xã hội. Quan điểm đạo đức cho rằng chế độ nô lệ là tội lỗi,   quan điểm chính trị cho rằng sự mở rộng của chế độ  nô lệ  về  phía Tây bởi nó sẽ  làm cho cán cân quyền lực nghiêng về  các chủ  nô miền Nam, quan điểm kinh tế  cho rằng chế  độ  nô lệ  bởi nó làm tổn hại nghiêm trọng đến nền sản xuất công   thương, xuất phát từ  quan điểm xã hội, những người phụ  nữ cũng lên án chế  độ  nô lệ  bởi sự  bất công, bất bình đẳng. Trong giai đoạn 1861­1865, nhận thức của   người miền Bắc về chế độ nô lệ  được đặt trong mối quan hệ với nhiệm vụ bảo   toàn sự thống nhất của Liên bang dù ban đầu không phải như vậy. Điển hình cho  nhận thức của những người miền Bắc về  yêu cầu xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  chính là Abraham Lincoln. Mặc dù có sự chia rẽ giữa những người da trắng miền   Nam ủng hộ chế độ nô lệ và những người da trắng miền Bắc phản đối sự tồn tại   của nó nhưng cả hai đều có điểm chung tương đồng trong định kiến chủng tộc với   người da đen. Bởi vậy, thời kỳ  đầu, phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ  chính là việc đưa những người da đen trở  về  châu Phi. Ngay cả  những nhà lãnh  đạo có quan điểm tiến bộ như Jefferson hay Lincoln cũng vẫn chưa thoát khỏi định  kiến này. Điều này cũng là nguyên nhân lý giải tại sao phong trào đấu tranh từ năm   6
  7. 1830 đến năm 1865 dù đã xóa bỏ được chế độ nô lệ nhưng người da đen lại không   thực sự được giải phóng và cuộc đấu tranh của người da đen vẫn còn kéo dài trong   thế kỷ tiếp theo. 1.1.2.Cơ sở thực tiễn 1.1.2.1.Thực trạng chế độ nô lệ *Sự ra đời của chế độ nô lệ Chế độ  nô lệ ở Mỹ được hình thành từ thập niên 60 của thế kỷ  XVII,  hoàn  chỉnh vào thập niên 80 của thế kỷ XVII, sau đó được phát triển và mở rộng vào thế  kỷ XVIII, với sự tấp nập trong hệ thống buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Cơ  sở của chế độ nô lệ là hệ thống lao động da đen được nhập khẩu từ châu Phi. Lợi  nhuận to lớn từ việc sử dụng nô lệ da đen đã khiến chế độ nô lệ trở thành một hệ  thống kinh tế  xã hội vững chắc đến nỗi cuộc chiến tranh giành độc lập của 13  thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ hay còn được coi là cuộc cách mạng tư sản lần thứ nhất   không thể xóa bỏ được. *Bản chất khắc nghiệt của chế độ nô lệ Theo các nhà nghiên cứu, có hai yếu tố  khiến chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  trở  thành   một hình thức tàn bạo nhất trong lịch sử nô lệ thế giới đó là khát vọng lợi nhuận từ  kinh doanh nông nghiệp kiểu tư bản và hai là sự  phân biệt chủng tộc hà khắc.  Sự  phân biệt chủng tộc này thể  hiện ngay từ việc bắt bớ và buôn bán nô lệ. Chế  độ  nô lệ ở nước Mỹ là một chế độ cưỡng bức vì được quản lý bởi một loạt các đạo  luật nô lệ  hà khắc. Các bộ  luật nô lệ  là cơ  sở  pháp lý cho sự  tồn tại vững chắc  của chế  độ  nô lệ. Chính sự  khắc nghiệt của chế  độ  nô lệ  đã thúc đẩy cuộc đấu  tranh giải phóng nô lệ và xóa bỏ chế độ nô lệ.  1.1.2.2. Hoạt động đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trước năm 1830 *Hành động phản kháng của nô lệ da đen Ngay từ thời điểm ban đầu khi bị bắt làm nô lệ, những người da đen đã liên  tục phản kháng để đòi tự do cho bản thân mình. Điều đó thể hiện từ thái độ chống  đối, hành động phá hoại, bỏ  trốn hoặc thậm chí tìm đến cái chết để  thoát khỏi  7
  8. cảnh nô lệ. Cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh  ở  Bắc Mỹ  đã   tạo điều kiện cho các nô lệ bỏ trốn hoặc nổi loạn.  Sau cách mạng, chế độ nô lệ dù  có bị tấn công chủ yếu ở miền Bắc nhưng lại vẫn phát triển mạnh mẽ ở miền Nam   và lan rộng ra miền Tây nước Mỹ. Sự phản kháng của họ diễn ra dưới nhiều hình  thức, nhưng tất cả đều mang tính chất tự phát, lẻ  tẻ và không đưa đến thắng lợi.  Tuy nhiên, những phản kháng ban đầu này cũng chính là cơ sở thúc đẩy cho phong  trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở giai đoạn sau. *Hoạt động của các lực lượng da trắng tiến bộ Lực lượng chống chế độ nô lệ của người da trắng trước năm 1830 chủ yếu  là lực lượng tôn giáo. Để hỗ trợ cho các hoạt động chống lại chế độ  nô lệ, nhiều   tổ  chức và nhóm xã hội đã được thành lập nhằm chống buôn bán, nhập khẩu nô  lệ, chống bắt cóc và hỗ  trợ  kinh tế  cho các nô lệ  tự  do, nô lệ  bỏ  trốn. Bên cạnh  các hội chống chế độ nô lệ, là sự xuất hiện của phong trào thuộc địa hóa  cuối thế  kỷ  XVIII ­ đầu thế  kỷ  XIX. Ban đầu, hoạt động của phong trào này thu hút sự  tham gia của nhiều cá nhân tiến bộ. Tuy nhiên, sau đó dần lụi tàn do những hạn  chế về tài chính cũng như định kiến phân biệt chủng tộc. Sự đi xuống của phong   trào thuộc địa hóa buộc các nhà hoạt động chống lại chế độ  nô lệ cần phải thành  lập các tổ chức khác với mục tiêu và định hướng hoạt động hợp lý hơn. 2.2. Những nhân tố tác động tới phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô   lệ ở Mỹ (1830­1865) 2.2.1. Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trên thế giới Vào năm 1788, Jacques Pierre Brissot đã sáng lập  Hội bạn bè của người da   đen để  đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1848, dưới nền  Cộng hòa thứ hai (1848­1852), Hiến pháp chính thức quy định xóa bỏ chế độ nô lệ  trên toàn đế quốc Pháp. Năm 1807, nước Anh tuyên bố xóa bỏ mua bán nô lệ châu   Phi. Vào năm 1833, Nghị  viện Anh đã thông qua Luật giải phóng nô lệ. Đến năm  1838, tất cả  các nô lệ   ở  đế  quốc Anh được tự  do. Bên cạnh chính sách của các   nước thực dân trong việc xóa bỏ chế độ nô lệ thì cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô  8
  9. lệ  trên thế  giới, đặc biệt là  ở  châu Mỹ  đã tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh  xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ.  2.2.2. Phong trào tôn giáo “Đại thức tỉnh” lần thứ nhất và lần thứ hai  Hai phong trào tôn giáo lớn mang tên cuộc “Đại thức tỉnh lần thứ  nhất”  (1720­1770) và cuộc “Đại thức tỉnh lần thứ  hai” (1790­1850) đều có  ảnh hưởng   tới các nhà hoạt động đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  trên nhiều phương   diện. Nếu như tư tưởng tôn giáo cải cách trong phong trào “Đại thức tỉnh lần thứ  nhất” hướng tới sự cứu rỗi công bằng, khoan dung tôn giáo và coi chế  độ nô lệ là  một tội ác nhằm thay đổi nhận thức về  mặt đạo đức của cá nhân thì cuộc “Đại  thức tỉnh lần thứ  hai”  ảnh hưởng đến các nhà hoạt động trong phong trào đấu  tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  theo hai hướng cơ  bản. Thứ  nhất, sự  cứu rỗi   trong tôn giáo trở thành một phương tiện để thực hiện các cải cách xã hội trong đó   có xóa bỏ chế độ nô lệ. Thứ hai, tại miền Nam sau khi tiếp thu tư tưởng tôn giáo   cải cách từ  các nhà truyền giáo, mục sư  người da trắng thì bản thân các nô lệ  đã  chủ động tổ chức nên các “chiến dịch phục hưng tôn giáo của người da đen”, xây  dựng niềm tin và thực hiện những nghi lễ tôn giáo của riêng họ.  2.2.3.Sự phát triển của nền kinh tế tư bản Mỹ và nhu cầu xóa bỏ chế độ  nô lệ Từ  sau cuộc chiến tranh giành độc lập, nền kinh tế  Mỹ  bắt đầu có những  bước chuyển mạnh mẽ. Trái ngược với sự phát triển kinh tế công thương nghiệp  ở  miền Bắc, miền Nam lại tập trung vào kinh tế  nông nghiệp đồn điền. Mặc dù  có đầy đủ các điều kiện cho phát triển công nghiệp như tài nguyên về  nước, than  đá và sợi bông nhưng nền công nghiệp ở miền Nam vẫn tụt hậu hơn nhiều so với   miền Bắc.Xét dưới góc độ kinh tế, chế độ  nô lệ đang đi ngược lại lịch sử bởi nó  ngăn cản sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nước Mỹ muốn xây dựng một thuế  quan thống nhất, muốn sử dụng lao động tự do, muốn thúc đẩy các sáng tạo về kỹ  thuật công nghiệp thì cần phải xóa bỏ chế độ nô lệ. 2.2.4. Mâu thuẫn giữa hai miền Nam Bắc nước Mỹ 9
  10. Vào thế kỷ XIX, hai miền Nam Bắc nước Mỹ có những mâu thuẫn sâu sắc  tác động lớn đến lịch sử  nước này. Xét về  mặt kinh tế, trong khi các bang miền   Bắc chủ  yếu phát triển công thương nghiệp thì miền Nam lại duy trì nền nông  nghiệp đồn điền sử dụng sức lao động của nô lệ. Xét về mặt chính trị, mâu thuẫn  giữa hai miền Nam Bắc phản ánh sự  hai quan điểm khác nhau giữa một bên ủng  hộ việc tập trung quyền hành ở chính quyền Liên bang được Đảng Cộng hòa của  A.Lincoln  ủng hộ  (chủ  yếu  ở  miền Bắc) và việc phân chia quyền hành cho các   tiểu bang vốn được ủng hộ bởi Đảng Dân chủ (đa phần ở miền Nam). Xét về mặt   đạo đức tôn giáo, đa phần người Quaker ở miền Bắc ủng hộ tư tưởng khoan dung   tôn giáo, coi chế  độ  nô lệ  là tội ác đi ngược lại với Kinh thánh. Tất cả  các lý do  trên dù xét dưới góc độ nào, dù trực tiếp hay gián tiếp đều phản ánh hai quan điểm   trái ngược về  vấn đề  nô lệ  giữa hai miền Nam­Bắc nước Mỹ.   Vào đầu thế  kỷ  XIX, cuộc đấu tranh giữa chủ  nô miền Nam và giai cấp tư  sản miền Bắc diễn ra   khá gay gắt khi những bang mới gia nhập Liên bang. Tháng 3 năm 1820, Quốc hội  thông qua một dự  án thỏa hiệp mang tên gọi  Thỏa  ước Missouri  tạo ra thế  cân  bằng giữa hai bên chống chế độ nô lệ và muốn duy trì chế độ này. Sự nhượng bộ  của tư sản miền Bắc vẫn không ngăn cản được ý định muốn mở rộng chế độ sang  phía Tây của chủ  nô miền Nam. Năm 1854, Quốc hội  đã thông qua  Đạo luật   Kansas – Nebraska, kết quả  của đạo luật này là một chuỗi các cuộc chạm trán  giữa những người ủng hộ và chống chế độ nô lệ diễn ra ở lãnh thổ Kansas và một  số thị trấn gần bang Missouri giữa năm 1854 và 1861. Cùng với những xung đột ở  Kansas, các nghị  sĩ trong Quốc hội với hai quan điểm đối lập cũng công kích lẫn  nhau ngay trong các cuộc họp. Đỉnh cao của các mâu thuẫn là cuộc chiến đau  thương chưa từng có mà lịch sử  gọi là Nội chiến Mỹ  (1861­1865).  Dù mục đích  tham chiến ban đầu không phải là giải phóng nô lệ  nhưng những nhà lãnh đạo  Liên bang đã biết khéo léo hướng đến tới việc thủ  tiêu chế  độ  nô lệ    để  giành  chiến thắng trong khi đó miền Nam lại thất bại vì vẫn cố chấp bảo vệ vật cản đó.  10
  11. CHƯƠNG 3 TIẾN TRÌNH CỦA PHONG TRÀO ĐẤU TRANH XÓA BỎ CHẾ ĐỘ NÔ LỆ Ở MỸ (1830­1865) 3.1. Tiến trình đấu tranh bí mật, bất hợp pháp 3.1.1. Đấu tranh bí mật – Hoạt động của “Đường sắt ngầm” “Đường sắt ngầm”  là một mạng lưới được hình thành và phát triển trong  khoảng 30 năm trước Nội chiến (1861­1865) nhằm hỗ trợ nô lệ da đen miền Nam   bỏ  trốn đến với vùng đất tự do. Để  tới được “miền đất hứa” của mình, nô lệ  đã  phải trải qua một hành trình đầy gian nan và vất vả. Kinh phí hoạt động của  “Đường sắt ngầm” chủ  yếu được quyên góp,  ủng hộ  từ  những người Quaker,  những cá nhân có tấm lòng hảo tâm và những người tham gia hoạt động trong  tuyến “Đường sắt ngầm”. Các hoạt động của “Đường sắt ngầm” là hoàn toàn bí  mật nên các ngôn ngữ giao tiếp đều phải được mật mã hóa.  3.1.2. Đấu tranh bạo lực 3.1.2.1.Sự phản kháng của nô lệ da đen trước Nội chiến Bên cạnh việc bỏ  trốn, nô lệ  cũng không ngần ngại tiến hành các cuộc nổi  loạn, khởi nghĩa vũ trang dù trên thực tế đa phần không đem lại thắng lợi mà chỉ là  sự  đàn áp đẫm máu. Nhưng tất cả các hành động đó luôn cho thấy sự  kiên cường,   tinh thần chiến đấu đến cùng vì tự do của bản thân, gia đình và cộng đồng người da   đen. Trong giai đoạn này có nhiều cuộc khởi nghĩa và nổi loạn ám ảnh người miền  Nam như Nat Turner (1831), Creole (1841), Cherokee Nation (1842). Sự nổi dậy và  lòng quả  cảm của các nô lệ  chứng tỏ  họ  có khả  năng tự  giải phóng nếu được   trang bị  về  mặt vũ khí và huấn luyện quân sự. Đó chính là mong muốn của John   Brown khi tiến hành cuộc đột kích ở Harpers Ferry. 3.1.2.2.Cuộc đột kích của John Brown John Brown là một người da trắng có quan điểm chống nô lệ  triệt để. Ông  cho rằng, cách duy nhất để  xóa bỏ  chế độ  nô lệ  là tiến hành khởi nghĩa vũ trang.   Cuộc đột kích vào kho vũ khí Harpers Ferry không nằm ngoài dự  định đó. Rạng  11
  12. sáng ngày 17 tháng 10 năm 1859, quân Brown tiến hành đột kích. Dù có sự chuẩn bị  kỹ lưỡng, nhưng quân đội của Brown vẫn thất bại. 3.1.2.3.Sự phản kháng của nô lệ da đen trong thời kỳ Nội chiến Nội chiến bùng nổ, đối với nhiều nô lệ miền Nam đây là cơ hội vàng để tự  giải phóng. Chiến tranh khiến các chủ nô miền Nam gặp khó khăn trong việc quản   lý nô lệ. Họ  lao động ít hơn, bỏ  trốn ra ngoài nhiều hơn. Những nô lệ  bỏ  trốn   được sự hỗ trợ rất lớn từ các tổ chức từ thiện và tôn giáo của miền Bắc. 3.2. Tiến trình đấu tranh công khai, hợp pháp 3.2.1. Xây dựng và phát triển mạng lưới các tổ  chức chống chế  độ  nô  lệ 3.2.1.1.Tổ chức của người Mỹ gốc Phi Điển hình là Hội nghị  của người da đen tự  do – Negro Conventions (1830­ 1864). Các Hội nghị của người da đen tự do thể hiện sự phát triển của mạng lưới  các nhà hoạt động xã hội da đen vào giữa thế  kỷ  XIX. Từ cuộc gặp đầu tiên vào   năm 1830 ở Philadelphia đã có hàng chục các Hội nghị khác diễn ra trước khi Nội   chiến bùng nổ với các cấp độ khác nhau từ liên bang cho đến bang rồi các hạt cơ  sở, vùng, miền. Mục tiêu của các Hội nghị  là kêu gọi sự  hợp tác giữa người da   trắng và người da đen trong cuộc chiến chống lại chế độ nô lệ và đòi quyền bình   đẳng cho người da đen tự  do. Các đại biểu tham dự  Hội nghị  chủ  yếu là nô lệ  từng bỏ trốn. Họ đến từ nhiều ngành nghề và vị trí khác nhau như mục sư, thương   nhân, chính trị gia, nhà văn, nhà báo và các nhà hoạt động chống chế độ nô lệ. 3.2.1.2. Hội chống chế độ nô lệ Vào cuối thế kỷ XVIII, một số người Quaker và người da trắng tiến bộ khác  đã thành lập nên các Hội chống chế độ nô lệ rải khắp nước Mỹ. Mục đích ban đầu  của các hội này là ngăn chặn quá trình nô lệ hóa những người da đen tự do và bảo   vệ quyền của họ. Về sau, cùng với việc tăng nhanh số lượng nô lệ bỏ trốn từ miền  Nam sang miền Bắc, các Hội này lại bí mật quyên góp hỗ trợ  nô lệ  bỏ trốn. Hoạt  động của Hội chống chế độ nô lệ đạt đến đỉnh điểm vào thập niên 30 của thế kỷ  12
  13. XIX  khi  Hội  chống  chế   độ  nô  lệ  nước  Mỹ  được   thành  lập  và  William  Lloyd  Garrison cho xuất bản tờ báo chống lại chế độ nô lệ đầu tiên mang tên  Người giải   phóng. * Hội chống chế độ nô lệ nước Mỹ (AASS) Đầu năm 1831, một nhóm người chống chế độ nô lệ  gặp nhau ở thành phố  New York để  lên kế  hoạch thành lập một Hội chống chế  độ  nô lệ của toàn Liên  bang. Trụ  sở  của AASS đóng ở  thành phố  New York. Để  thực hiện mục tiêu xóa  bỏ  hoàn toàn chế  độ  nô lệ, Hội đã xây dựng một mạng lưới hệ  thống cơ  sở  và   tiến hành nhiều hoạt động khác nhau. Hoạt động chủ  yếu tại cơ sở  của AASS là  tổ chức các cuộc họp thảo luận về phương pháp đấu tranh, gửi đơn kiến nghị lên  Quốc hội, xuất bản  ấn phẩm tuyên truyền, tổ chức các buổi diễn thuyết... Hai cơ  quan phát ngôn chính thức của AASS là tờ  “  The Liberator ” (Người giải phóng)  của William Lloyd Garrison thành lập năm 1831 và tờ tạp chí hàng tuần mang tên “  National Anti­Slavery Standard ” (Ngọn cờ chống chế độ nô lệ quốc gia) của Lydia  Maria Child và David Lee Child thành lập năm 1840. *Hội chống chế độ nô lệ Mỹ và quốc tế (AFSS) Hội chống chế độ nô lệ Mỹ và quốc tế (AFSS) được thành lập vào tháng 5  năm 1840 bởi một nhóm các nhà hoạt động chống chế độ nô lệ tách ra khỏi AASS   vì sự khác biệt trong chủ trương chống chế  độ  nô lệ. Những người sáng lập nên  AFSS không đồng tình với việc phát huy vai trò của phụ nữ trong đấu tranh xóa bỏ  chế   độ   nô   lệ.   Cơ   quan   tuyên   truyền   chính   thức   của   AFSS   là   “ American   and   Foreign Anti­Slavery Reporter” (Báo Hội chống chế độ nô lệ và quốc tế). Ngoài ra,  “The Liberty Almanac”  (Niên giám tự  do) cũng được xuất bản như  một cơ  quan   phát ngôn của Đảng Tự  do. AFSS theo đuổi quan điểm ôn hòa trong phong trào  chống chế  độ  nô lệ. Họ  tin tưởng rằng chế  độ  nô lệ  sẽ  bị  xóa bỏ  nếu dựa vào  hoạt động chính trị. Một chủ trương nữa là phủ nhận quyền của phụ nữ trong các   hoạt động xã hội. Thời gian tồn tại của AFSS không kéo dài, năm 1855, họ chấm  13
  14. dứt các cuộc họp thường niên và đến năm 1859, Ban chấp hành của AFSS chính  thức giải tán. 3.2.2. Đấu tranh trên lĩnh vực truyền thông 3.2.2.1.Báo chí Tờ báo có ảnh hưởng lớn đầu tiên trong lịch sử đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô  lệ   ở  Mỹ  là tờ  “The Liberator” (Người giải phóng) ra đời năm 1831 của William  Lloyd Garrison. Tờ báo này không phải là  ấn phẩm duy nhất trong thế  kỷ  XIX có  nội dung đấu tranh xóa bỏ  chế độ  nô lệ, nhưng sự ra đời của nó đã đánh dấu một   bước tiến vượt bậc trong phong trào, tạo nền tảng cho hàng loạt hoạt động đấu  tranh khác trên lĩnh vực truyền thông. Garrison cho rằng, tuyên truyền về tội ác của  chế  độ  nô lệ  là cách duy nhất để  chấm dứt chế  độ  Ngoài tờ  “Người giải phóng”  của William Lloyd Garrison, nhiều tờ tạp chí khác cũng góp phần là những công cụ  tuyên truyền có sức  ảnh hưởng mạnh mẽ  trong phong trào xóa bỏ  chế  độ  nô lệ  trong giai đoạn từ năm 1830 đến năm 1865. Nhiều nhà báo người Mỹ gốc Phi bằng   tài năng của mình đã phơi bày một cách chân thực nhất sự tàn ác của chế độ  nô lệ  và nỗ lực tìm tự do của nô lệ. 3.2.2.2.Sách, tác phẩm văn học Nhiều tác phẩm văn học thời kỳ  này không chỉ  có giá trị  nghệ  thuật to lớn   mà còn là một bức tranh sinh động lột tả một cách chân thực đầy màu sắc về  số  phận khốn khổ của những người nô lệ như tiểu thuyết “Uncle Tom’s Cabin” (Túp  lều bác Tom) của Harriet Beecher Stowe và cuốn sách “The Impending Crisis of the   South: How to Meet It ” (Cuộc khủng hoảng trước mắt của miền Nam: Làm thế  nào để  đối mặt với nó). Bên cạnh các cuốn sách của người da trắng là những tác  phẩm của người da đen như  Magaret Matilda Odell với cuốn “Memoir và Poems   của Phillis Wheatley” (Hồi ức và thơ của nữ thi sĩ Phillis Wheatley), “Một nô lệ bỏ  trốn” của William Wells Brown,  “Đời sống nô lệ” của  Richard Hildreth,  “Những  hồi ức” của Archy Moore, loạt chuyện kể về David Barrett của Hiram Wilson, hồi   14
  15. ký của Jermain Wesley Lougen (1859), hồi ký của James W.C Pennington, “12 năm  nô lệ” của Solomon Northup hay tự truyện của Fredrick Douglass... 3.2.2.3.Diễn thuyết trước công chúng Để vạch trần tội ác của chế độ nô lệ và kêu gọi sự ủng hộ, AASS đã tổ chức  nhiều buổi diễn thuyết trước công chúng khắp miền Bắc. Nhiều nhà diễn thuyết sử  dụng các quan điểm về tôn giáo để tuyên truyền chống lại tội ác của chế độ nô lệ.   Số  khác như  Tappan hay Garrison thì thường hướng vào các vấn đề  cải cách giáo  dục, cải cách đất đai, sự  phát triển của nền kinh tế  công thương hay quyền công   dân cho người da đen. Còn đối với những diễn giả vốn là nô lệ thì lại nhấn mạnh  vào các câu chuyện thực tế từ cuộc đời của mình để làm bài học thúc đẩy sự vươn   lên của các nô lệ.  3.2.3.4. Các tài liệu tuyên truyền khác Một trong số đó là “Appeal to the Christian Women of the South” (Lời kêu gọi  phụ  nữ  theo đạo Thiên chúa  ở  miền Nam) của  Angelina Emily Grimké. Grimké  hướng vào phụ  nữ  theo Thiên chúa giáo  ở  miền Nam để  kêu gọi họ  đứng lên  chống lại chế độ nô lệ. Nhiều tài liệu khác được in dưới dạng các cuốn sách nhỏ,   các tờ rơi, các pano, áp phích nhằm giúp độc giả tiếp cận một cách dễ dàng nhất và   dễ  hiểu đối với mọi tầng lớp. Điển hình là tờ  áp phích nổi tiếng mang tên “Anti­ Slavery Wafers” (Những chiếc bánh thánh chống chế độ nô lệ) và tờ áp phích tuyên  truyền có tên gọi “Slave Market of America” (Chợ nô lệ của Mỹ). 3.2.3. Đấu tranh nghị trường 3.2.3.1.Gửi các đơn kiến nghị, bản trưng cầu dân ý Một hoạt động không thể  thiếu trong đấu tranh nghị  trường của các  Hội   chống chế độ  nô lệ là gửi các kiến nghị, bản trưng cầu dân ý lên Quốc hội. Thời  kỳ  hoạt động sôi nổi nhất của hình thức này là giai đoạn từ  1837 đến 1839 dù   trước đó Ban chấp hành AASS cũng đã tập hợp chữ ký quần chúng và đệ trình lên  Quốc hội Mỹ nhiều lần nhằm xóa bỏ chế độ nô lệ. 3.2.3.2.Thành lập các đảng phái 15
  16. Đảng Tự  do ra đời vào tháng 12 năm 1839 do một nhóm những nhà hoạt  động chống chế  độ  nô lệ  thành lập. Trong năm 1848, nhiều thành viên của Đảng  Tự  do gặp nhau  ở Buffalo, New York thành lập một Đảng mới với tên gọi Đảng  Đất Tự  do. Đảng này sau đó sáp nhập vào Đảng Cộng hòa năm 1854. Nền tảng  của Đảng Cộng hòa cũng chính là những cá nhân hoạt động tích cực trong phong   trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ. Đại hội chính thức đầu tiên của Đảng Cộng   hòa được tổ chức vào ngày 6 tháng 7 năm 1854 tại Jackson, Michigan Từ đó Đảng  Cộng hòa nhanh chóng tạo được  ảnh hưởng sâu rộng  ở  các bang miền Bắc. Vào  cuộc bầu cử năm 1860, với sự trúng cử  của Abraham Lincoln, Đảng Cộng hòa đã  thật sự  kiểm soát được Quốc hội. Kết quả  này đã tác động mạnh vào hệ  thống  luật pháp nhằm thay đổi các quy định về  chế độ  nô lệ, mang lại quyền tự do cho  người Mỹ gốc Phi. 3.2.4. Lồng ghép với phong trào xã hội khác 3.2.4.1. Phong trào tôn giáo và xóa bỏ chế độ nô lệ Sang thế kỷ XIX, các cuộc cải cách tôn giáo đã thúc đẩy tiến trình phát triển   của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ. Ở miền Bắc các cuộc cải cách tôn  giáo phát triển mạnh mẽ, được các nhà sử học gọi là cuộc “Đại thức tỉnh tôn giáo  lần thứ hai”. Phụ nữ là một thành phần tích cực trong phong trào cải cách tôn giáo.  Nói cách khác, tôn giáo cũng là một công cụ  hữu hiệu cho phong trào đòi quyền  bình đẳng giới cho phụ  nữ. Nhiều nữ  diễn giả đã sử  dụng Kinh thánh làm cơ  sở  cho việc thuyết phục xóa bỏ  chế  độ  nô lệ. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa hai miền   Nam ­ Bắc về chế độ nô lệ đã dẫn tới sự chia rẽ về tôn giáo giữa hai miền trong   những năm 1836­1840.  Trong khi nhiều nhà thờ  miền Bắc đấu tranh đòi xóa bỏ  chế độ nô lệ, coi chế độ nô lệ là đi ngược lại với Kinh thánh thì ở miền Nam quan   niệm rằng chế  độ  nô lệ chỉ  là một điều không tốt chứ  không phải là tội lỗi.  Cho  đến trước khi Nội chiến bùng nổ, vai trò của tôn giáo trong cuộc chiến chống lại   chế  độ  nô lệ  được thể  hiện rất rõ, từ  việc khai thác những nội dung nhân đạo   trong Kinh thánh để tác động vào niềm tin của giáo dân đến sự tham gia của nhiều  16
  17. vị giám mục, mục sư, giáo sĩ trong các hoạt động của phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế độ nô lệ, thậm chí tại nhiều nơi, nhà thờ còn là địa điểm họp mặt của các nhà  hoạt động trong phong trào dù gặp phải không ít sự  phản đối từ  các giáo dân là  chủ nô ở miền Nam. 3.2.4.2. Phong trào nữ quyền và xóa bỏ chế độ nô lệ Phụ nữ trong phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ hoạt động khá yên lặng, không   gây chú ý nhưng có tính tổ chức và mang lại hiệu quả khá cao. Đầu tiên, họ  tham   gia vào các hội kín, các tổ chức tôn giáo, các câu lạc bộ  phụ nữ bí mật đòi quyền   bình đẳng cho phụ nữ và nô lệ như Hội chống chế độ nô lệ Mỹ, Hội những người   bạn… Họ gặp nhau, cầu nguyện, góp quỹ cho các hoạt động, viết báo và xuất bản  sách. Năm 1837, 71 đại biểu từ 8 bang miền Bắc tổ chức  Hội nghị giải phóng nô lệ  đầu tiên của phụ nữ Mỹ ở New York; họ đã xuất bản những ấn phẩm nói về nghị  quyết của đại hội, hình thành ủy ban điều hành hoạt động hội, tổ chức chiến dịch   vận động lấy chữ  ký trong các cuộc đấu tranh giải phóng nô lệ  gửi tới Quốc hội   Mỹ . Hàng trăm phụ nữ da trắng đã trở thành những nhà hoạt động tích cực trong  phong trào giải phóng nô lệ  dù họ  xuất thân từ  các gia đình chủ  nô giàu có.  Bên  cạnh sự  đóng góp của những phụ  nữ  da trắng và phong trào phụ  nữ  đối với kết   quả của phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ thì cũng có những phụ nữ da đen đã dũng  cảm ghi tên mình vào lịch sử chống lại chế độ nô lệ. 3.2.4.3.Phong trào công nhân và xóa bỏ chế độ nô lệ Phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ còn thu hút nhiều người công  nhân và cộng sản Mỹ tham gia, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 1848 đến năm 1865.   Sự tồn tại của chế độ nô lệ là đi ngược lại với lợi ích của những người lao động tự  do da trắng – những người không thể cạnh tranh với nguồn lao động giá rẻ như nô  lệ da đen. Một khi chế độ nô lệ bị xóa bỏ, sức lao động được giải phóng, không chỉ  tạo điều kiện cho phát triển kinh tế quốc gia mà còn tác động tích cực đối với tầng   lớp lao động nghèo nước Mỹ. Với nhận thức như vậy, trong những thập niên 40, 50  của thế kỷ XIX, những người công nhân, những người lao động nghèo, những chủ  17
  18. đất nhỏ ở Mỹ đã cùng với những người da đen và những chủ tư sản cùng đứng lên  vì mục tiêu xóa bỏ chế  độ  nô lệ  và hỗ  trợ  Liên bang giành chiến thắng trong Nội  chiến. CHƯƠNG 4 MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH XÓA BỎ CHẾ ĐỘ  NÔ LỆ Ở MỸ (1830­1865) 4.1. Kết quả  của phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ   ở  Mỹ  (1830­1865) 4.1.1. Sự ra đời “Tuyên ngôn giải phóng nô lệ” năm 1863 Kết quả lớn đầu tiên của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế  độ  nô lệ  từ  năm  1830 đến năm 1865 là sự  ra đời của Tuyên ngôn giải phóng nô lệ vào năm 1863.  Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng xét về mặt quân sự, bản Tuyên ngôn giải phóng   nô lệ đã mang lại những tác động đúng như  mong muốn bằng việc tạo ra sự  hỗn   loạn ở miền Nam và lấy đi của quân Liên minh nhiều nguồn lao động giá trị. Xét  về  mặt ngoại giao, thì văn kiện này cũng đã thành công trong việc tập hợp cho miền  Bắc sự ủng hộ của hàng nghìn người lao động Anh và Châu Âu – những người luôn  muốn chứng kiến nhân dân lao động giành quyền tự  do  ở  khắp nơi trên thế  giới.   Xét về mặt nhân quyền, văn kiện đã mang lại hy vọng cho hàng triệu người da đen  vào một tương lai tươi sáng, khôi phục lại niềm tin cho những người đã tham gia  đấu tranh bền bỉ  vì nền tự  do của nước Mỹ. Đó chính là kết quả  đầu tiên quan   trọng nhất của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ. Không dừng lại ở đó, bản  Tuyên ngôn giải phóng nô lệ đã tạo đà cho những bước tiến sâu sắc hơn với sự ra  đời của các Tu chính án thứ 13, 14 và 15. 4.1.2. Các tu chính án Với việc bổ  sung các nội dung liên quan đến xóa bỏ  chế  độ  nô lệ  và công  nhận quyền công dân của người da đen trong Hiến pháp Mỹ, người Mỹ gốc Phi đã  bước sang một trang sử mới, vị thế luật pháp thay đổi, có quyền bầu cử  và tham   18
  19. gia chính thức vào các hoạt động chính trị. Đây chính là những kết quả  sâu sắc  nhất mà phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ hướng tới và đã thành công. * Tu chính án thứ 13 (Sửa đổi Hiến pháp lần thứ 13) Ngày  18 tháng 12 năm 1865, Tu chính án thứ  13 chính thức được thông qua  xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ trên lãnh thổ Liên bang Mỹ. * Luật các quyền dân sự năm 1866 và Tu chính án thứ 14 (1868) Luật các quyền dân sự năm 1866 là một bước tiến quan trọng trong quá trình  đòi nhân quyền cho người da đen vào thời kỳ sau Nội chiến. Đạo luật chứa đựng ba  yếu tố  cơ  bản đưa người da đen vào dòng chảy của lịch sử  xã hội nước Mỹ  một   cách công bằng với người da trắng: là công nhận quyền bình đẳng của mọi người  dân bất kể màu da, chỉ rõ các quyền công dân của họ và đưa ra chế  tài cho bất cứ  một hành vi bất bình đẳng nào với người da đen. Tu chính án thứ 14 được đề xuất  ngày 13 tháng 6 năm 1866 và   phê chuẩn ngày 9 tháng 7 năm 1868, đề  cập đến   quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật trong đó có những người công dân   mới ­ tức những nô lệ mới được trả tự do sau Nội Chiến. * Tu chính án thứ 15 (Sửa đổi Hiến pháp lần thứ 15) Tu chính án thứ  15  được đề  xuất vào ngày 26 tháng 2 năm 1869 và phê  chuẩn chính thức vào ngày 3 tháng 2 năm 1870. Tu chính án đảm bảo quyền được   bỏ phiếu của tất cả các công dân (bao gồm cả những người “công dân mới được  trả tự do”) sau Nội chiến. 4.2. Tác động tích cực của phong trào đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở  Mỹ (1830­1865) 4.2.1. Tác động tới diễn biến và kết quả Nội chiến (1861­1865) Thái độ  và hành động của nô lệ  khiến cho cả quân Liên bang và Liên minh  phải thay đổi các chính sách dù trực tiếp hay gián tiếp nhằm kết thúc chế độ nô lệ.  Đó cũng là một cách giúp nô lệ đến gần với tự do hơn. Chính phủ  Liên bang nhờ  biết cách tập hợp lực lượng cũng đã giành ưu thế trong cuộc chiến. 4.2.1.1. Quân Liên bang giành ưu thế từ các chính sách hỗ trợ nô lệ 19
  20. Thứ nhất là các chính sách hỗ trợ cựu nô lệ. Thứ hai là các chính sách tuyển lính da đen. Thứ ba là chính sách giải phóng nô lệ. 4.2.1.2. Chính sách của chính phủ Liên minh với nô lệ Trước mùa thu năm 1862, chính phủ Liên minh đã cho phép sung công các nô  lệ. Không chỉ vậy, một số người da trắng miền Nam còn muốn vũ trang cho những   người da đen ngay từ khi chiến tranh bắt đầu và những nhà cầm quyền địa phương   đã cho phép tuyển mộ  người da đen làm các công việc phục vụ  quân đội. Tuy   nhiên, do có quá nhiều ý kiến phản đối trong chính phủ Liên minh cho nên khi đưa  ra luật tuyển lính da đen vào năm 1863 thì Liên minh gần như đã bị phá hủy bởi sự  tấn công dữ dội của các lực lượng Liên bang và những xung đột nội bộ của chính   nó. Sự thất bại lớn nhất của miền Nam  ở chỗ, chế độ  mà họ  đang muốn bảo vệ  lại là vật cản của họ trong cuộc Nội chiến. 4.2.2. Tác động tới cuộc sống của người Mỹ gốc Phi Phong trào đấu tranh xóa bỏ  chế  độ  nô lệ  đã thực hiện được mục tiêu lớn   nhất của nó sau Nội chiến là giải phóng nô lệ da đen. Người Mỹ gốc Phi giờ đây về  mặt luật pháp được công nhận bình đẳng với người da trắng. Một là, những tác   động tích cực về  mặt kinh tế.  Tự  do đồng nghĩa với vị  thế  kinh tế  mới đối với  người da đen đã được xác lập. Từ địa vị của những người nô lệ không sở hữu bất   cứ  tư liệu sản xuất nào giờ  đây họ  đã được sở  hữu đất đai.  Hai là, tác động tích   cực về mặt xã hội. Về tôn giáo, trước khi chế độ nô lệ kết thúc, nô lệ da đen không  được tham gia nhà thờ của người da trắng nhưng khi tự do họ đã xây dựng nhà thờ  của riêng mình. Đa số các nhà thờ của người da đen thuộc Hội thánh Baptist và Hội   Giám lý (gốc từ đạo Tin lành). Về  giáo dục, người da đen đã có cơ  hội được học  tập nhiều hơn. Ba là, tác động tích cực trong đời sống chính trị.  Thứ  nhất, việc  ban hành các bộ  luật về  nhân quyền và bổ  sung các điều khoản mới của Hiến   pháp giúp người da đen có cơ  sở  pháp lý để  thực hiện quyền công dân. Hai là,  người da đen được tham gia vào các cơ  quan nhà nước, vào bộ  máy chính quyền  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2