Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh tại Việt Nam giai đoạn hiện nay
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của luận án "Chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh tại Việt Nam giai đoạn hiện nay" là xác lập căn cứ khoa học từ đó đề xuất những giải pháp, định hướng xây dựng chính quyền thông minh tại các đô thị cấp tỉnh của Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh tại Việt Nam giai đoạn hiện nay
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM TIẾN LUẬT CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ THÔNG MINH CẤP TỈNH TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 9 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI, 2022
- Công trình được hoàn thành tại:………………….………..………….. ………………………………………………………………………… Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Võ Kim Sơn 2. PGS.TS Bế Trung Anh Phản biện 1: …………………………………………………………… ……………………………….…………………………… Phản biện 2: …………………………………………………………… ………………………………..…………………………… Phản biện 3: …………………………………………………………… ………………………………….………………………… Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ - Phòng họp….. Nhà ……, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 77, đường Nguyễn Chí Thanh , P. Láng Hạ, Q. Đống Đa, TP. Hà Nội Thời gian: vào hồi ……… giờ ….. ngày … tháng …. Năm ……… Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam hoặc thư viện của Học viện Hành chính Quốc gia.
- DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ STT Tên công trình Nơi công bố Năm công bố Ứng dụng mô hình đô thị thông minh thúc đẩy phát 1 Tạp chí tài chính 2015 triển kinh tế - xã hội Việt Nam Những thách thức trong xây dựng chính quyền điện Tạp chí quản lý 2 2018 tử ở Việt Nam nhà nước Định hướng xây dựng Đô thị thông minh tại Tạp chí quản lý 3 2018 Việt Nam nhà nước
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài TPTM hay Đô thị thông minh đã và đang trở thành xu thế phát triển mạnh mẽ của thời đại, là một cuộc cách mạng về quản lý đô thị. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này, trong những năm trở lại đây vấn đề xây dựng đô thị thông minh đang trở nên cấp bách, không chỉ xuất phát từ vai trò trọng yếu của các đô thị đối với phát triển kinh tế-xã hội cả nước mà còn vì những vấn đề lớn đang nảy sinh tại các đô thị như dân số tăng, kéo theo áp lực về môi trường, giao thông, y tế, nhà ở; Hạ tầng lạc hậu, quá tải; Cạnh tranh kinh tế giữa các đô thị, các vùng tăng; Đòi hỏi của người dân về chất lượng cuộc sống tăng. Mặt khác, Chính phủ cũng đang đẩy mạnh yêu cầu về CCHC và hệ thống quản lý, hạ tầng và mức độ ứng dụng, phát triển CNTT-TT tại Việt Nam đang có những bước tiến rõ rệt. Hiện cả nước đã có một số thành phố bắt đầu triển khai xây dựng Đề án TPTM như: Huế (năm 2015); Hà Nội (2015); Đà Nẵng (7/2016); thành phố Hồ Chí Minh (8/2016); Cần Thơ (9/2016)… Trong một đô thị thông minh, hoạt động QLNN của bộ máy chính quyền (hay “Chính quyền điện tử”, “Chính quyền thông minh”) đóng vai trò chủ đạo. Những năm qua, xây dựng CPĐT, CQĐT các cấp luôn được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ quan trọng và luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng dụng CNTT, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong các CQNN. Nhiều Văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy ứng dụng CNTT, CNTT được coi là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển mới và bảo vệ Tổ quốc; là động lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH hoà nhập với quốc thế trong thời đại cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) bảo đảm phát triển nhanh và bền vững đất nước Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng CQTM tại các đô thị cũng gặp phải rất nhiều rào cản như: hạ tầng kỹ thuật CNTT-TT chưa hoàn thiện, đồng bộ, các phân mềm, ứng dụng CNTT triển khai trong hoạt động QLNN và CSDL chuyên ngành chưa được đồng bộ kết nối liên thông 4 cấp, từ Trung ương đến cấp xã. Bên cạnh đó, nhận thức về ứng dụng và phát triển CNTT của các cấp lãnh đạo tại các đơn vị vẫn còn hạn chế. Vì vậy, việc triển khai ứng dụng chưa đồng đều, tiến độ triển khai còn chậm, thiếu sự tích cực. Sự phối hợp giữa các sở, ngành của thành phố nhiều lúc chưa tốt, nên việc kết nối và tích hợp thông tin, dữ liệu còn nhiều bất cập. Không chỉ cán bộ, công chức, mà nhiều người dân cũng chưa có sự quan tâm đúng mức tới vấn đề này, nên chưa thúc đẩy được mạnh mẽ nhu cầu ứng dụng CNTT-TT trong các CQNN,... 1
- Trên cơ sở đó, Luận án hướng đến nghiên cứu các khía cạnh của việc xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động ứng dụng CNTT-TT trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành của Chính quyền. Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng việc xây dựng Chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh của Việt Nam để từ đó thấy được những thách thức đang gặp phải đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng CQTM, hiện đại tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam hướng đến xây dựng thành công Đô thị thông minh tại Việt Nam trong giai đoạn phát triển CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Xác lập căn cứ khoa học từ đó đề xuất những giải pháp, định hướng xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh của Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận trong xây dựng CQTM tại đô thị cấp tỉnh; - Nghiên cứu thực tiễn xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh hiện nay dựa trên việc tìm hiểu các điều kiện trong xây dựng CQTM như: điều kiện về thể chế, pháp lý; Bộ máy quản lý nhà nước; Điều kiện về nguồn nhân lực; Cơ sở hạ tầng CNTT-TT; Điều kiện về Kinh tế- xã hội tại các đô thị. Trên cơ sở đó, đánh giá những kết quả đạt được trong xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh. - Phân tích những hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong việc xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh hiện nay; - Đề xuất những giải pháp trong việc xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam. 3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Chính quyền thông minh tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam (05 thành phố trực thuộc Trung ương). 3.2. Khách thể nghiên cứu - CBCCVC, công dân tại các đô thị cấp tỉnh của Việt Nam; 2
- 3.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các điều kiện trong xây dựng CQTM. Đánh giá những kết quả đạt được và chưa đạt được trong xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh. Trên cơ sở đó để xuất các giải pháp phù hợp với yêu cầu thực tiễn xây dựng CQTM. Phạm vi về và thời gian: Dữ liệu nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2021. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án sử dụng các phương pháp luận chủ yếu trong nghiên cứu khoa học quản lý công như phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cùng với các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về xây dựng CQTM tại đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu và viết luận án nghiên cứu sinh đã sử dụng các phương pháp khác nhau như: Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu thứ cấp, Phương pháp hội thảo, Phương pháp phỏng vấn sâu, Phương pháp điều tra xã hội học. 5. Câu hỏi nghiên cứu và Giả thuyết khoa học 5.1. Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu 1: Chính quyền đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Câu hỏi nghiên cứu 2: Các đô thị ở Việt Nam đáp ứng được ở mức độ nào về các điều kiện để xây dựng CQTM? Tại sao còn nhiều hạn chế trong xây dựng CQTM tại đô thị cấp tỉnh hiện nay? Câu hỏi nghiên cứu 3: Làm thế nào để xây dựng được CQTM tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam? 5.2. Giả thuyết nghiên cứu Tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam đã và đang đầu tư lớn cho các điều kiện xây dựng CQTM bao gồm: Xây dựng hạ tầng CNTT-TT; ứng dụng CNTT-TT trong công tác quản lý; đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ CBCCVC, thiết lập lại bộ máy tổ chức nhà nước,... hướng tới xây dựng thành công mô hình CQTM. Chính quyền hiện nay ở các đô thị cấp tỉnh mới chỉ đáp ứng được những điều kiện căn bản của CQĐT. Công dân đã có thể thực hiện được một số giao dịch hoàn chỉnh mà không phải đến các cơ quan hành chính để thực hiện, DVCTT cũng được mở rộng ở mức độ 3 hoặc mức độ 4. Tính phức tạp, quy mô công nghệ cũng được nâng cao, tăng mức độ tương tác giữa công dân và Chính phủ. Tuy 3
- vậy, vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong quá trình xây dựng CQTM, có thể kể đến như: Hạ tầng CNTT-TT chưa được xây dựng đồng bộ theo hướng hiện đại, nguồn nhân lực hạn chế, một số TTHC vẫn áp dụng các phương thức giao dịch truyền thống, chưa tận dụng hết được những thành quả khoa học mà CNTT-TT mang lại. Để xây dựng thành công Chính quyền đô thị thông minh cần áp dụng nhiều giải pháp khác nhau, trong đó đặc biệt là các giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hoá hạ tầng kỹ thuật, CNTT-TT, đảm bảo vấn đề an toàn thông tin và cải cách TTHC. 6. Đóng góp của đề tài trong lĩnh vực nghiên cứu 6.1. Về lý luận Một là, làm rõ lý luận về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng CQTM tại đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam. Hai là, luận giải được các điều kiện cơ bản trong xây dựng và hoàn thiện Chính quyền đô thị thông minh. Ba là, nâng cao nhận thức của việc ứng dụng CNTT-TT trong hoạt động điều hành và QLNN tại các đô thị cấp tỉnh của Việt Nam. 6.2. Về thực tiễn Một là, cung cấp những kiến thức nền tảng, làm rõ thực tiễn việc chuyển đổi CQĐT thành CQTM tại đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những nghiên cứu sau. Hai là, Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách xây dựng Chính quyền đô thị thông minh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của Việt Nam. 7. Cấu trúc của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung của luận án được kết cấu thành bốn (04) Chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về Chính quyền đô thị thông minh. Chương 2: Cơ sở khoa học về xây dựng Chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh. Chương 3: Thực trạng xây dựng Chính quyền đô thị thông minh tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam. Chương 4: Định hướng và giải pháp để xây dựng Chính quyền đô thị thông minh tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam. 4
- PHẦN NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ THÔNG MINH Trên thế giới, cũng như trong nước đã có rất nhiều đề tài, dự án, nghiên cứu xoay xung quanh mảng đề tài về xây dựng đô thị thông minh, chính quyền đô thị thông minh có thể kể đến những công trình nghiên cứu sau. 1.1. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đô thị thông minh Gồm 6 công trình nghiên cứu nước ngoài và 7 công trình, bài viết trong nước liên quan đến vấn đề xây dựng đô thị thông minh. 1.2. Các đề tài nghiên cứu về Chính quyền đô thị thông minh Có rất nhiều các đề tài, bài viết nghiên cứu về vấn đề xây dựng chính quyền đô thị thông minh. Tác giả đã tìm hiểu 6 công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến mảng đề tài này và 8 công trình nghiên cứu trong nước. Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên là tài liệu có giá trị tham khảo lớn đối với tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. 1.3. Đánh giá khái quát các công trình liên quan và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong Luận án 1.3.1. Những vấn đề mà các công trình liên quan đến đề tài Luận án đã đạt được Thứ nhất, Các đề tài đã cung cấp được những kiến thức căn bản, bao quát về vấn đề nghiên cứu xây dựng CQĐT. Đó không chỉ là những quan điểm, lý luận trong việc xây dựng CQĐT, mà còn là thực tiễn xây dựng CQĐT tại một số quốc gia trên thế giới. Thứ hai, khẳng định vai trò quan trọng của việc xây dựng đô thị thông minh với hạt nhân là CQTM tại Việt Nam. Thứ ba, các giải pháp về phát triển, hoàn thiện khung pháp lý, hoàn thiện mô hình, xu hướng phát triển chính quyền đô thị cấp tỉnh hiện đại tại Việt Nam hướng đến một CQTM hơn cũng là chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm. Thứ tư, đã đưa ra quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, nội dung, định hướng phát triển đối với CQĐT hiện đại tại các thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết những nghiên cứu của các tác giả được thực hiện tại thời điểm Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của việc xây dựng CQĐT, vì vậy, việc nghiên cứu thực tiễn xây dựng CQĐT trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, để đảm bảo tính cập nhật của vấn đề đang rất được quan tâm này. Hơn nữa, các đề tài nghiên cứu mới dừng lại ở các thành phố cụ thể, do đó chưa có tính khái quát trên phạm vi cả nước. 5
- 1.3.2. Những vấn đề đặt ra cho Luận án cần tập trung nghiên cứu Trong Luận án này, nghiên cứu sinh tiếp tục giải quyết những vấn đề sau: - Một là, làm rõ khái niệm, vị trí, vai trò của việc ứng dụng CNTT-TT xây dựng Chính quyền đô thị thông minh; - Hai là, xây dựng nền tảng cơ sở lý luận và thực tiễn làm cơ sở hình thành phương thức QLNN hiện đại của Chính quyền đô thị cấp tỉnh tại Việt Nam; - Ba là, khảo sát, phân tích thực trạng các điều kiện và kết quả đạt được trong xây dựng Chính quyền đô thị thông minh tại các đô thị cấp tỉnh. Chỉ ra các yếu tố còn hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó trong quá trình xây dựng CQTM; - Bốn là, đề xuất giải pháp, định hướng xây dựng CQTM tại các Đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam bao gồm: giải pháp về tạo lập môi trường pháp lý, Cải cách bộ máy hành chính nhà nước; Nâng cao tiêu chuẩn đội ngũ CBCCVC trong CQNN; Đầu tư Hạ tầng CNTT-TT, đề xuất các giải pháp tạo lập môi trường giao dịch hành chính điện tử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động nội bộ và giữa các CQNN, trong giao dịch của CQNN với tổ chức và cá nhân; hỗ trợ đẩy mạnh CCHC, làm cho hoạt động của CQNN công khai, minh bạch hơn, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Như vậy, thực hiện công trình nghiên cứu này tác giả hướng đến hệ thống hóa đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh tại Việt Nam. Từ những kết quả nghiên cứu đạt được, tác giả có những khuyến nghị trong việc hoàn thiện CQĐT tại các thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay hướng đến CQTM, hiện đại làm hạt nhân xây dựng TPTM. Chương 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ THÔNG MINH CẤP TỈNH 2.1. Các khái niệm cơ bản Luận án đã tiến hành khai thác hóa, làm rõ một số khái niệm như: Khái niệm Quản lý, Quản lý Nhà nước. CNTT, Khái niệm đô thị, đô thị cấp tỉnh, Khái niệm chính quyền, CQĐP, chính quyền đô thị. 2.2. Một số vấn đề lý luận về Chính quyền thông minh và xây dựng Chính quyền thông minh Đề làm rõ cách hiểu về CQTM, tác giả đã phân tích từ cách hiểu về khái niệm CQĐT. Từ đó, có thể hiểu CQTM là mức hoàn thiện của CQĐT, trong xây dựng đô thị thông minh CQTM đóng vai trò trung tâm. Tùy vào mục tiêu chiến lược phát triển của đô thị mà chính quyền đô thị đưa ra những tiêu chuẩn, mục tiêu riêng để hoàn thiện CQTM đáp ứng được mục tiêu trong quản lý, điều hành làm hạt nhân đề xây dựng thành công đô thị thông minh. 6
- Trong mô hình CQTM, DVC được cải tổ toàn diện khi có sự lồng ghép giữa CNTT- TT với ưu tiên của người dùng - đây là phần thiết yếu trong các chiến lược hiện đại hóa chính phủ, để tạo ra các giá trị công. CQTM tập trung vào điều hành chính quyền, tính công khai, tính minh bạch, sự đồng hành và tin tưởng của người dân vào chính phủ, và cuối cùng là nâng cao hiệu quả và hiệu suất công việc. DVC trong mô hình CQTM được chuyển đổi các quy trình nội bộ; Chuyển đổi cách thiết kế và cung cấp dịch vụ; Chia sẻ dữ liệu: Đóng góp cộng đồng (crowdsourcing) về thông tin/dữ liệu và phân tích dữ liệu. Thủ tục hành chính liên thông: các nền tảng CNTT để chia sẻ thông tin, dịch vụ và tăng cường cộng tác. - CQTM là mức hoàn thiện của CQĐT để đánh giá kết quả đạt được của một mô hình CQTM cần dựa trên các tiêu chí đánh giá về: - Chất lượng DVC: được cải tổ toàn diện khi có sự lồng ghép giữa CNTT- TT với ưu tiên của người dùng. Các quy trình nội bộ được cải tiến, hướng tới sự thuận tiện tối ưu. Dữ liệu được cung cấp, được chia sẻ. Thủ tục hành chính được liên thông. - Mức độ tương tác, giao dịch giữa Chính phủ với công dân, doanh nghiệp và sự hài lòng của người dân trong việc sử dụng các dịch vụ và Chính phủ cung cấp. Như vậy, CPTM tập trung vào cách điều hành chính phủ. Kết quả đạt được là tăng tính công khai, tính minh bạch, sự đồng hành và tin tưởng của người dân vào chính phủ, nâng cao hiệu quả và hiệu suất công việc. Điều kiện cơ bản trong xây dựng CQTM gồm: - Yếu tố thể chế pháp lý - Yếu tố tổ chức bộ máy quản lý nhà nước - Yếu tố nguồn nhân lực - Yếu tố cơ sở hạ tầng kỹ thuật, Công nghệ thông tin và truyền thông - Yếu tố kinh tế-xã hội Bên cạnh đó, tác giá đã phân tích các vai trò và lợi ích của CQTM, các mô hình giao dịch trong CQTM. Đồng thời làm rõ sự khác nhau giữa Chính quyền truyền thống và CQTM. 2.3. Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng Chính quyền điện tử hướng đến Chính quyền thông minh tại một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Luận án tập trung nghiên cứu mô hình cách thức xây dựng, hoàn thiện CQĐT hướng đến CQTM tại: Hoa Kỳ, Anh, Australia và Singapore. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng CQTM tại Việt Nam. 7
- Chương 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN THÔNG MINH TẠI CÁC ĐÔ THỊ CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM 3.1. Khái quát Tổ chức bộ máy nhà nước tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay Phân cấp hành chính ở Việt Nam theo chiều dọc, gồm cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Ở mỗi cấp đều thành lập HĐND và UBND tương ứng từng cấp. Mô hình này hiện được áp dụng tại cả khu vực nông thôn và đô thị ở Việt Nam. 3.2. Thực trạng các điều kiện xây dựng Chính quyền thông minh tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam 3.2.1. Điều kiện về thể chế pháp lý trong xây dựng và phát triển Chính quyền thông minh Những năm qua, xây dựng CPĐT, CQĐT các cấp luôn được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ quan trọng và luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng dụng CNTT, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy ứng dụng CNTT. Ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Ngày 15/4/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36- NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Các bộ, ngành và các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT. Thành phố Hà Nội cũng như các đô thị cấp tỉnh cũng đã ban hành các văn bản để triển khai, thực hiện các Nghị Quyết của Chính phủ. Về môi trường pháp lý: Một số văn bản quy phạm pháp luật luật liên quan đến CPĐT đang được khẩn trương xây dựng như: Luật Giao dịch điện tử do Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội chủ trì. Nghị định của Chính phủ về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (do Bộ TTTT chủ trì). Luật CNTT do Bộ Thông tin Truyền thông chủ trì. Nghị định của Chính phủ quy định việc nghiên cứu, sản xuất và sử dụng mật mã không thuộc phạm vi bí mật nhà nước do Ban Cơ yếu Chính phủ chủ trì. Các văn bản này đang góp phần hình thành nên môi trường pháp lý, giúp cho CPĐT được xây dựng và phát triển. Tuy nhiên, năng lực xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực CNTT-TT còn nhiều hạn chế, đầu mối quản lý về việc rà soát, điều chỉnh và xây 8
- dựng mới các Văn bản quy phạm pháp luật ứng dụng CNTT-TT vẫn còn tản mạn, việc ban hành các Văn bản quy phạm pháp luật bị chậm trễ. Bí mật, bảo mật, an toàn, an ninh thông tin nhìn chung liên quan đến việc bảo vệ các tài sản của hệ thống thông tin và kiểm soát việc truy cập thông tin. An toàn, bảo mật, an ninh thông tin, môi trường pháp lý là các nền tảng cơ bản để các DVC phục vụ người dân và doanh nghiệp được thực hiện trong CPĐT. Môi trường pháp lý ở Việt Nam đang hình thành; các kỹ thuật và công nghệ, hạ tầng hóa công khai về giữ gìn bí mật, an toàn, an ninh thông tin cho kinh tế-xã hội mới đang ở giai đoạn triển khai thí điểm. 3.2.2. Bộ máy quản lý Nhà nước tại các đô thị cấp tỉnh hiện nay Phân cấp hành chính ở Việt Nam theo chiều dọc, gồm bốn (04) cấp từ trung ương đến địa phương: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Mô hình này hiện được áp dụng tại cả khu vực nông thôn và đô thị. Trong khi đó đặc điểm, điều kiện kinh tế-xã hội ở khu vực nông thôn và đô thị có sự khác biệt rất lớn, nhất là tại các khu vực đô thị lớn, các thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam. Việc tổ chức mô hình hành chính bốn cấp hiện nay ở cả nông thôn và đô thị đang khiến cho bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam quá cồng kềnh. Việc quản lý, xử lý công việc, các TTHC thông qua 4 cấp khiến mất rất nhiều thời gian. Chưa nói đến những chức năng, đặc trưng riêng của đô thị có sự khác biệt rất lớn với khu vực nông thôn. Có những thủ tục cần xử lý nhanh nhưng do tổ chức hành chính như vậy, sẽ làm kéo dài thời gian giải quyết. Do vậy, việc lựa chọn mô hình Chính quyền đô thị phù hợp đóng vai trò quan trọng, quyết định tới sự phát triển của đô thị cũng như việc ứng dụng CNTT trong xây dựng CQTM. Hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong bộ máy hành chính nhà nước thúc đẩy tiến trình CCHC. Theo đó việc xây dựng mô hình chính quyền đô thị đang được quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện. Chính quyền đô thị có thể được hiểu đơn giản là chính quyền ở khu vực đô thị, để phân biệt với Tổ chức chính quyền nông thôn-mô hình truyền thống. Một trong những phương án cải cách bộ máy chính quyền đô thị đang được áp dụng thí điểm hiện nay đó là phương án Xây dựng mô hình tổ chức một cấp chính quyền (thành phố), 01 cấp hành chính (quận, huyện, thị xã) và 01 cơ quan hành chính đại diện (xã, phường, thị trấn). Theo đó, Chính quyền đô thị sẽ không tổ chức HĐND ở cấp quận, phường; tăng mạnh tính chất tự chủ và tự quản của thành phố trong quan hệ với Trung ương và trong giải quyết các vấn đề chỉ có ở đô thị. 3.2.3. Điều kiện về nguồn nhân lực Trước hết là đội ngũ cán bộ, công chức phục vụ trong bộ máy nhà nước: Để đáp ứng cho yêu cầu trong thời đại mới, thời đại Công nghệ 4.0 đòi hỏi chất lượng cán bộ, công chức trong cơ quan, bộ máy nhà nước phải đáp ứng được 9
- những yêu cầu nhất định về trình độ CNTT. Theo đó, tại thành phố Hà Nội, tỷ lệ cán bộ chủ chốt cấp Thành phố đã được đào tạo kiến thức cơ bản quản lý điều hành “Cơ quan điện tử” và “Chính quyền điện tử” và các kỹ năng CNTT đạt 80%; tỷ lệ Cán bộ chủ chốt tại đơn vị (cấp Phòng) được đạo tạo về CNTT đạt 40%. Tỷ lệ công chức trong các CQNN thuộc Thành phố được đào tạo về CNTT đạt 100% (tính theo lượt cán bộ được đào tạo). Đối với cán bộ chuyên trách CNTT tại các CQNN của Thành phố được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về CNTT đạt 100%. Khả năng tin học, CNTT của cán bộ, công chức hiện nay là một trong những yếu tố then chốt trong giải quyết công vụ. Hiện nay, Thành phố vẫn rất thiếu cán bộ chuyên trách CNTT giỏi về kỹ thuật đồng thời có kiến thức chuyên môn về QLNN, có đủ khả năng hướng dẫn sử dụng, nâng cao kỹ năng và tham mưu cho lãnh đạo các cấp lập kế hoạch, triển khai các chương trình ứng dụng CNTT tại cơ quan mình. Số cán bộ CNTT của mỗi đơn vị rất ít, mặt khác mỗi cán bộ CNTT lại đảm nhiệm nhiều chức năng. Do vậy nên chưa phát huy được vai trò của cán bộ chuyên trách về CNTT. Đơn vị có cán bộ phụ trách CNTT riêng: 52/59 (88.14%). Số cán bộ làm CNTT từ 3 người trở lên: 15/59 (25.42%). Số cán bộ làm CNTT từ 1 đến 2 người: 37/59 (62.71%). Đơn vị chỉ có cán bộ kiêm nhiệm CNTT: 5/59 (8.47%). Những đơn vị không có Trung tâm CNTT thì có chuyên viên phụ trách CNTT. Phần lớn có trình độ Đại học hoặc Cao đẳng về lĩnh vực CNTT hoặc điện tử viễn thông. Tỷ lệ có chuyên viên phụ trách CNTT ở các đơn vị như sau: - Khối sở ban ngành, số đơn vị có chuyên viên phụ trách CNTT là 28/30 (93.33 %); - Khối quận huyện thị xã, số đơn vị có chuyên viên phụ trách CNTT là 29/29 (100%). Tổng hợp chung tất cả, số đơn vị có chuyên viên phụ trách CNTT là 96.61; Trong số 8% đơn vị chưa có cán bộ chuyên trách CNTT thì hoặc là lãnh đạo Văn phòng hay lãnh đạo Phòng Văn hoá thông tin đảm nhiệm luôn việc này, hoặc là một cán bộ nào đó có biết đôi chút về CNTT được phân công kiêm nhiệm. Do còn hạn chế về trình độ CNTT hoặc hạn chế thời gian nên công việc được giao về CNTT khó đảm bảo chất lượng. Đối với chuyên viên CNTT trong các Trung tâm CNTT, tất cả đều có trình độ đại học trở lên và phần lớn họ đều là biên chế, còn đối với cán bộ hợp đồng chuyên trách CNTT, nền tảng học vấn cũng ít nhất từ Cao đẳng trở lên. Tại thành phố Hồ Chí Minh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công việc được lãnh đạo Thành phố hết sức quan tâm. Tính đến năm 2015, hoạt động đào tạo nguồn nhân lực được tổ chức linh hoạt, kết hợp giữa đào 10
- tạo tập trung và hỗ trợ sử dụng tại chỗ. Thành phố đã tổ chức đào tạo trên 300 lượt cán bộ tin học, tập huấn gần 1.000 cán bộ lãnh đạo và công chức vận hành các hệ thống thông tin; đào tạo ứng dụng tin học tập trung cho 3.100 cán bộ, công chức hành chính. Đến nay, đã đào tạo 3.384 cán bộ, công chức. Đồng thời tổ chức lớp xoá mù, phổ cập tin học cho 150 cán bộ Hội phụ nữ. Những năm gần đây, Đà Nẵng được biết đến như một thành phố năng động với tốc độ tăng trưởng khá ổn định (duy trì trên 9%). Nhiều năm liền, thành phố dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI), Chỉ số mức độ sẵn sàng ứng dụng CNTT (ICT-Index). Thành phố đã xây dựng nhiều cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao, tôn vinh, trọng dụng nhân tài, chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ CBCCVC trong CQNN, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, có phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, thích ứng với sự phát triển và yêu cầu mới của thời đại. Nhìn chung, tại Đà Nẵng, đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC được xác định là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của CBCCVC; tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan, đơn vị. Dù đã đạt được một số thành quả nhất định, thành phố vẫn không ngừng nỗ lực đầu tư có chiều sâu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp hóa; tích cực học hỏi và áp dụng các phương pháp giảng dạy mới để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và đáp ứng được các nhu cầu phát triển của một thành phố trẻ, năng động. Nguồn nhân lực CNTT trong các CQNN thành phố Hải Phòng luôn được Thành phố chú trọng bổ sung, đào tạo, bồi dưỡng. Toàn Thành phố có 104 người có chuyên môn về CNTT có trình độ từ Cao đẳng trở lên. Trong đó, trình độ Thạc sĩ 11 người, chiếm 10,6%; Đại học 85 người, chiếm 81,7%; Cao đẳng 8 người, chiếm 7,7%. Các cán bộ, công chức có trình độ cơ bản về CNTT. Tỷ lệ cán bộ công chức trong các cơ quan QLNN Thành phố có kỹ năng ứng dụng CNTT là 98%. Như vậy, hầu hết cán bộ, công chức trong các cơ quan QLNN Thành phố có đủ trình độ tiếp cận và sử dụng các ứng dụng CNTT. Bình quân mỗi đơn vị có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách về CNTT. Những năm gần đây Thành phố đã tổ chức nhiều khoá đào tạo, tập huấn CNTT cho cán bộ, công chức, đặc biệt các đối tượng là lãnh đạo (CIO), cán bộ chuyên trách về CNTT thuộc CQNN, nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức và quản lý, điều hành. Vì vậy, ở thời điểm hiện tại, đội ngũ cán bộ, công chức trong các CQNN cơ bản đã áp dụng được một số giải pháp ứng dụng CNTT trong thực thi nhiệm vụ theo vị trí công tác. 11
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng ứng dụng CNTT cho cán bộ, công chức cũng như cán bộ chuyên trách CNTT phục vụ cho việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN được Cần Thơ quan tâm đầu tư. Tổng số cán bộ chuyên trách về CNTT trên toàn Thành phố tính đến năm 2015 là 137 cán bộ. Trong đó: - Số cán bộ chuyên trách tại các cơ quan chuyên môn: 86; - Số cán bộ chuyên trách tại UBND quận, huyện và tương đương: 51; - Số cơ quan chuyên môn có cán bộ chuyên trách CNTT: 23; - Số UBND quận, huyện và tương đương có cán bộ chuyên trách CNTT: 09. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chuyên trách về CNTT (văn bằng trong lĩnh vực CNTT): Thạc sĩ là 16%, Đại học chiếm 81%, và Cao đẳng 3%. Tỷ lệ cán bộ, công chức thường xuyên sử dụng máy tính để xử lý công việc tại các cơ quan chuyên môn đạt 100% và tại UBND quận, huyện và tương đương đạt 100%. Trong mọi hoạt động, mọi quy trình của CQTM, yếu tố nguồn nhân lực luôn là yếu tố then chốt. Để vận hành được CQTM, trước hết là nguồn nhân lực làm việc trong hệ thống chính quyền phải được đào tạo nghiệp vụ và nâng cao kỹ năng CNTT, trình độ tin học. Có như vậy, mới có thể vận hành được hệ thống chính quyền và tuyên truyền, phổ biến đến người dân, doanh nghiệp, những người sử dụng những dịch vụ công được cung cấp trong môi trường điện tử hóa, số hóa. Về phía người sử dụng dịch vụ công: Trong việc sử dụng các DVCTT, về phía người sử dụng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Trước hết là những hạn chế về mặt thói quen, nhận thức. Đa số người dân vẫn chưa quen với việc nhập các TTHC online, vẫn quen với hình thức nộp hồ sơ trực tiếp tại trụ sở cơ quan. Đặc biệt việc tiếp cận với các TTHC trực tuyến còn là một trở ngại đối với các công dân là người cao tuổi. 3.2.4. Hạ tầng Cơ sở kỹ thuật Công nghệ thông tin và Truyền thông Hạ tầng kỹ thuật dùng chung của Thành phố cơ bản hoàn thành; Hiện mạng diện rộng (WAN) của Thành phố đã kết nối tới 100% sở, ngành, quận, huyện, thị xã. Ngoài ra có 05 đơn vị hiệp quản đã kết nối. Trung tâm Dữ liệu nhà nước của Thành phố - nền tảng cơ bản của nền hành chính điện tử đã được đưa vào khai thác sử dụng hiệu quả từ năm 2012 đến nay: đã di trú 120 hệ thống thông tin, CSDL lớn của 47 đơn vị về trung tâm; tích hợp các CSDL dùng chung như: Quản lý văn bản và Hồ sơ công việc, hệ thống 1 cửa điện tử cấp huyện và cấp xã, trang/cổng TTĐT; - Hệ thống an toàn, an ninh, bảo mật thông tin được quan tâm triển khai đáp ứng được yêu cầu cấp bách đảm bảo an toàn các hệ thông tin trong CQNN. 12
- Hạ tầng kỹ thuật trong nội bộ các CQNN: Hạ tầng kỹ thuật CNTT trong các CQNN được quan tâm đầu tư, cơ bản đáp ứng nhu cầu triển khai ứng dụng. - Mạng LAN và Internet: 100 % các sở, ban, ngành và UBND quận, huyện, thị xã đều đã có mạng LAN và Internet; 100% UBND xã, phường, thị trấn có kết nối Internet và 70% có mạng LAN. Đến năm 2017, các thành phần cơ bản của CQĐT Thành phố bao gồm Trung tâm dữ liệu nhà nước, mạng WAN, kết nối tới 100% các sở, ban, ngành, quận huyện thị xã. Cổng giao tiếp điện tử Thành phố, cổng DVCTT đã hình thành. Các hệ thống thông tin và CSDL cốt lõi, hệ thống, giải pháp an toàn, an ninh thông tin, hạ tầng kỹ thuật CNTT tại các CQNN của Thành phố đang dần hoàn thiện. Thành phố đã triển khai cổng DVCTT mức độ 3, 4 ở các lĩnh vực: Tư pháp; Tài nguyên và môi trường; Xây dựng; Giáo dục và đào tạo; TTTT,... thống nhất đồng bộ tại 30 quận/huyện và 584 xã/phường/thị trấn. Trong đó, tỷ lệ ứng dụng trong công tác Giáo dục-đào tạo, tuyển sinh, điều hành giao thông, y tế đã có những tích cực. Theo báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện luật CNTT tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Chính quyền Thành phố được hoàn thiện và đưa vào vận hành nền tảng hạ tầng phục vụ cho liên thông, kết nối chia sẻ thông tin giữa các các cấp: Mạng MetroNet kết nối từ thành phố đến sở, ngành, quận, huyện và phường, xã, Trung tâm điều khiển NOC, Hệ thống thư điện tử thành phố, Hệ thống Hội nghị truyền hình trực tuyến; Hệ thống liên thông Quản lý vãn bản và hồ sơ công việc [31]. Đến nay, có thể nói thành phố Đà Nẵng đã hoàn thành về cơ bản các thành phần trụ cột của mô hình CQĐT. Lộ trình được được triển khai từ chỗ xây dựng Khung kiến trúc chung nhằm chuẩn hóa về mặt kiến trúc, công nghệ và nền tảng dữ liệu cho mô hình CQĐT, cho phép các CQNN phối hợp với các doanh nghiệp xây dựng các giải pháp ứng dụng theo hình thức xã hội hóa. Khung kiến trúc làm nền tảng để từng bước triển khai hiệu quả các chương trình, đề án ứng dụng CNTT của Thành phố bằng nhiều nguồn kinh phí khác nhau. Hạ tầng CNTT của thành phố Hải Phòng có bước phát triển nhanh. 100% quận huyện, sở, ngành có mạng nội bộ LAN (năm 2007 là 70%); một số đơn vị có điều kiện đã xây dựng mạng ở mức độ cao hơn như WAN, Wifi (đạt 50%); 100% các đơn vị có kết nối internet băng thông rộng, tốc độ cao; 98% số máy tính được kết nối Internet (năm 2007 bình quân 64,57%). Tỷ lệ trung bình máy tính/công chức đạt 90% (năm 2007 là 59,4%); 100% đơn vị có máy chủ triển khai đồng bộ với hệ thống mạng (năm 2007 gần 50%). Theo báo cáo về tình hình ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN tại thành phố Cần Thơ giai đoạn 2011-2015 (ban hành kèm theo Kế hoạch số 131/KH-UBND ngày 28/11/2016 của UBND Thành phố), tính đến cuối năm 2015, 13
- tổng số cán bộ, công chức được trang bị máy tính. Bao gồm số cán bộ, công chức hành chính của tất cả các cơ quan chuyên môn sở, ban, ngành và của UBND các quận, huyện và tương đương được trang bị máy tính bao gồm cả máy tính để bàn và máy tính xách tay là 1.952. Như vậy có thể thấy Hạ tầng kỹ thuật CNTT-TT là một trong những điều kiện cần khi xây dựng CQĐT tiến tới CQTM. Tại năm thành phố cấp tỉnh, Hạ tầng kỹ thuật đã được đầu tư, nâng cấp đảm bảo yếu tố bước đầu trong việc xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam. Hạ tầng kỹ thuật CNTT trong các CQNN tuy đã được cải thiện đáng kể trong thời gian qua, tạo nền tảng cho triển khai thành công các ứng dụng CNTT, nhưng vẫn chưa bảo đảm nhu cầu thực tế đặc biệt là vấn đề an toàn, an ninh thông tin. Hạ tầng bảo đảm an toàn, an ninh, bảo mật thông tin hầu như chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống phòng chống virus chủ yếu mới chỉ triển khai ở mức đơn lẻ tại các máy trạm, chưa xây dựng được các hệ thống phòng chống virus, chống thư rác tổng thể và hầu như chưa triển khai ứng dụng chữ ký số và chứng thực số. 3.2.5. Điều kiện về kinh tế-xã hội tại các đô thị cấp tỉnh Thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam là các đô thị loại đặc biệt hoặc đô thị loại I và được xác định là các đô thị trung tâm cấp quốc gia. Là các thành phố lớn, có nền kinh tế phát triển, là khu vực quan trọng về quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế-xã hội là động lực phát triển cho cả quốc gia. Các thành phố này có cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ phát triển, có nhiều cơ sở giáo dục bậc cao, dân cư đông, thuận lợi về giao thông vận tải. Tính đến năm 2020, Việt Nam hiện có 05 thành phố trực thuộc Trung ương trong đó có 02 thành phố thuộc đô thị loại đặc biệt là: Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 03 thành phố thuộc đô thị loại I là các thành phố: Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. Như vậy, có thể thấy trong 05 thành phố trực thuộc Trung ương có 02 đô thị loại đặc biệt đó là Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hai thành phố này dẫn đầu cả nước về diện tích, số dân cũng như mật độ dân số cũng cao nhất so với ba thành phố còn lại cũng như cả nước. Các thành phố còn lại là: Cần Thơ, Đà Nẵng và Hải Phòng là những đô thị loại I đều có dân số lớn, trình độ phát triển kinh tế-xã hội cao so với cả nước. Tại 05 thành phố trực thuộc Trung ương đều là những đô thị dẫn đầu cả nước về diện tích, số dân. Tại các thành phố đều có nền kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng hiện đại nhất so với cả nước, đặc biệt là dân cư có trình độ cao, đây chính là những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng CQĐT tiến tới xây dựng CQTM tại Việt Nam. Điều kiện phát triển về kinh tế, xã hội tại các đô thị cấp tỉnh được xem là những thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển CQTM. Tuy vậy vẫn còn một số những thách thức trong quá trình phân bổ nguồn lực dành cho phát triển CQTM, 14
- bởi việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng bộ đòi hỏi nhiều kinh phí. Do đó, việc thiếu nguồn vốn, nguồn nhân lực cao cấp cũng là một trong những thách thức lớn trong việc triển khai xây dựng CQTM. Các dịch vụ mà Chính phủ muốn cung cấp càng phức tạp, tinh vi thì chi phí cho chúng càng lớn. Việt Nam là quốc gia đang phát triển, do vậy nguồn ngân sách còn nhiều hạn chế, việc đầu tư ngân sách cho phát triển CNTT phục vụ xây dựng CQTM cần cân nhắc rất nhiều so với cách lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vấn đề nhân lực cho triển khai CPĐT cũng bất cập. Đây là lĩnh vực mới đòi hỏi cao về lao động trí tuệ. Song lực lượng chuyên gia giỏi, có đủ năng lực vẫn mỏng và cho đến nay, chính sách thu hút nguồn lực chất lượng cao để phục vụ xây dựng CQTM vẫn còn nhiều hạn chế. 3.3. Những kết quả đạt được trong xây dựng Chính quyền thông minh tại các đô thị cấp tỉnh 3.3.1. Ứng dụng Công nghệ thông tin trong nội bộ của cơ quan nhà nước Các ứng dụng CNTT dùng chung của thành phố Hà Nội đã được triển khai đồng bộ, cụ thể như sau: - Phần mềm Quản lý văn bản và Hồ sơ công việc (QLVB&HSCV): 100% sở, ban, ngành; UBND quận, huyện, thị xã và 60% số xã, phường, thị trấn đã cài đặt phần mềm QLVB&HSCV trên môi trường mạng; - Hệ thống thư điện tử của Thành phố: Tỷ lệ công chức của Thành phố được cấp hòm thư điện tử đạt 97% - số liệu đến tháng 5/2014 và viên chức (không bao gồm viên chức sự nghiệp ngành y tế, giáo dục) đạt 72%; 100% CBCCVC được cấp hòm thư điện tử trong giải quyết công việc; - Chữ ký số: Thành phố đã triển khai ứng dụng chữ ký số dùng riêng trong giao dịch hành chính; ứng dụng chữ ký số trong trao đổi văn bản điện tử giữa các CQNN với UBND Thành phố và giữa các CQNN với nhau đã đạt được những hiệu quả nhất định góp phần đẩy mạnh CCHC. Tỷ lệ trao đổi các văn bản, tài liệu giữa các CQNN của Thành phố dưới dạng điện tử đạt ở mức độ khá: Tỷ lệ văn bản chỉ đạo của UBND Thành phố dưới dạng điện tử đạt 100%; Tỷ lệ văn bản giao dịch giữa các CQNN trong Thành phố với nhau phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của UBND Thành phố dưới dạng điện tử đạt 85%; - Giao ban trực tuyến: 100% sở, ban, ngành; UBND quận, huyện, thị xã đủ điều kiện thực hiện họp giao ban trực tuyến với UBND Thành phố. Tỷ lệ các cuộc họp giao ban giữa UBND Thành phố với các đơn vị và giữa các sở, ban, ngành với các UBND quận, huyện, thị xã được thực hiện trực tuyến qua mạng (chỉ tính các cuộc họp diện rộng) năm 2012 đạt 11%, năm 2013 đạt 48%. Ngoài ra có hơn 80 phần mềm chuyên ngành đang được ứng dụng trong nội bộ các sở, ban, ngành của Thành phố. 15
- Hiện có 06 quận, huyện của thành phố Hồ Chí Minh thực hiện triển khai thí điểm kết nối liên thông các hệ thống quản lý cấp phép qua hệ thống mạng băng thông rộng MetroNet của Thành phố. Triển khai các ứng dụng GIS trong quản lý: các quận, huyện triển khai thành công các phân hệ ứng dụng GIS quản lý Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Sở TTTT Thành phố nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý các trạm thu phát sóng BTS, bưu cục, bưu điện, đại lý Internet… nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. CSDL: trong quá trình triển khai cho các sở ban ngành, quận huyện thời gian qua thành phố đã xây dựng được CSDL về: dân cư, kinh tế, văn hóa, lao động, đất đai, xây dựng… khi triển khai và vận hành các phần mềm tại các quận huyện, sở ngành. Các hệ thống CSDL này trong giai đoạn tới sẽ thực hiện việc tích hợp, liên thông và chia sẻ thông tin giữa các CQNN của toàn Thành phố. Đà Nẵng cũng đã xây dựng và đưa vào hoạt động Hệ thống thông tin CQĐT Thành phố theo mô hình liên thông, tích hợp tại 95 cơ quan, đơn vị, địa phương. Hệ thống này tích hợp các ứng dụng dùng chung, nền tảng như: Hệ thống Quản lý văn bản điều hành, Hệ thống Một cửa điện tử, Hệ thống Quản lý CBCCVC, Hệ thống Thư điện tử, Hệ thống góp ý của công dân,... và dễ dàng được mở rộng, bổ sung, tích hợp khi có nhu cầu. Hệ thống hiện đang được vận hành tập trung tại Trung tâm dữ liệu Đà Nẵng tại website (egov.danang.gov.vn). Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN của thành phố Hải Phòng được thực hiện tương đối đa dạng; tích cực triển khai DVCTT mức độ 3, 4 để tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện TTHC. Thành phố hiện nay có 622 DVCTT mức độ 3, 4 (534 DVC mức độ 3, 88 DVC mức độ 4) và tiếp tục đăng ký triển khai 134 DVC mức độ 3 trong năm 2017. Đến nay, Hải Phòng đã công bố 871 TTHC thực hiện tiếp nhận và trả kết quả qua dịch vụ bưu chính. Các ứng dụng CNTT phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các CQNN được triển khai và đạt kết quả tốt với trên 89 ứng dụng. Các phần mềm ứng dụng phổ biến là: Điều hành tác nghiệp, quản lý văn bản, quản lý kế toán, quản lý nhân sự, quản lý dân cư, quản lý y tế cơ sở, ứng dụng GIS,... Về ứng dụng chữ ký số: 100% (33/33 đơn vị) sở, ngành, quận, huyện triển khai ứng dụng chữ ký số để gửi nhận văn bản điện tử giữa các CQNN. Thành phố đang phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ triển khai diện rộng, chính thức cho các CQNN trong hệ thống chính trị toàn Thành phố. Bộ TTHC của Thành phố được cung cấp trực tuyến và hiện nay đã có 100% đơn vị (85 xã, phường, thị trấn; 9 quận, huyện và 19 sở, ban ngành) được triển khai phần mềm Một cửa điện tử hiện đại (địa chỉ hệ thống một cửa điện tử của thành phố Cần Thơ (1cua.cantho.gov.vn); xây dựng “Phân hệ tích hợp thống kê 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 178 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 173 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 182 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn