Tóm tắt Luận án Tiễn sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
lượt xem 5
download
Mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu các yếu tố cấu thành sự thoả mãn và đánh giá mức độ thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhằm khuyến nghị điều chỉnh chính sách cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam; đánh giá được mức độ thỏa mãn chung và mức độ thỏa mãn theo các nhóm yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn của người dân; khuyến nghị điều chỉnh chính sách bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiễn sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, việc thu hồi đất để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội như xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu đô thị... là một tất yếu khách quan. Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội càng lớn dẫn đến nhu cầu về thu hồi đất càng cao và trở thành thách thức lớn của mỗi quốc gia đối với các vấn đề bảo đảm an ninh lương thực, an sinh, trật tự an toàn xã hội và sinh kế của người dân. Bồi thường, hỗ trợ (BT, HT) khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi bởi nó liên quan trực tiếp đến mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi. Việc thu hồi đất, BT, HT ngày càng xuất hiện nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chính là chưa giải quyết được hài hòa về sự hài lòng, thỏa mãn của người dân khi được BT, HT. Theo các nghiên cứu của Kotilainen (2011), Xinliang (2012), Oladapo and Ige (2012), mức tiền bồi thường hay sự chênh lệch giữa tiền bồi thường với giá trị thị trường của đất là yếu tố lớn dẫn đến sự không thoả mãn của những người dân; sự không thỏa mãn đã gây nên mâu thuẫn xã hội, tạo ra sự không đồng thuận của người dân trong mỗi dự án phải thu hồi đất. Theo Kakulu (2008), cộng đồng sẽ bất mãn với mức tiền bồi thường khi thu hồi đất nếu có liên quan đến cưỡng chế hoặc tranh chấp. Vấn đề thỏa mãn hay không thỏa mãn rất quan trọng trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công và tư nhân; hậu quả của việc không thỏa mãn của người dân trong cung cấp dịch vụ rất nghiêm trọng. Hoyer and Maclnns (2001) đã chỉ ra rằng nếu người dân không được thỏa mãn với dịch vụ cung cấp thì họ có thể chấm dứt việc “sử dụng” dịch vụ này, nhưng trong các dự án thu hồi đất, có thể tạo ra việc người dân kháng cự, từ chối bàn giao mặt bằng, khiếu kiện kéo dài, làm chậm tiến độ thực hiện các dự án đầu tư. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong việc bồi thường đất là: mức bồi thường, thủ tục bồi thường và phương thức bồi thường (Wang, 2013). Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra sự thỏa mãn trong BT, HT còn khác biệt bao gồm: đặc điểm cá nhân thu nhập; việc làm, tính gắn kết xã hội; văn hóa xã hội; cơ sở hạ tầng; dịch vụ tiện ích công cộng; môi trường tự nhiên; sức khỏe; đất đai - nhà ở; chính quyền địa phương (Qin và cộng sự, 2016; Ibem and Aduwo, 2013). Theo Kotler và cộng sự (2002), sự thỏa mãn của người dân là một cảm giác vui lòng hoặc không thỏa mãn của một người khi so sánh một hiệu suất cảm nhận được của các sản phẩm và dịch vụ với những kỳ vọng của người đó. Do đó, nếu kết
- 2 quả nhận được không đáp ứng được như kỳ vọng, người dân sẽ thấy không thỏa mãn và nếu kết quả đáp ứng được như kỳ vọng, có nghĩa là người dân được thỏa mãn. Trong việc thu hồi đất, “sự không thỏa mãn” là trạng thái hay cảm giác khó chịu hoặc không bằng lòng hoặc bất mãn với mức BT, HT hoặc các quy trình được áp dụng, điều này thể hiện trạng thái không thỏa mãn với các quá trình thu hồi đất bắt buộc. Các bên có quyền lợi đối với khu đất thu hồi có thể sẽ không thỏa mãn với nhiều vấn đề. Việc người dân được hài lòng, được thỏa mãn với các dịch vụ công của Nhà nước, với chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước là điều hết sức quan trọng. Làm cho người dân thỏa mãn sẽ tác động đến mọi mặt hoạt động của tổ chức như gia tăng hiệu quả công việc do người dân thỏa mãn sẽ có thái độ tích cực và hành vi tốt hơn. Sự thỏa mãn của người dân sẽ góp phần duy trì và ổn định trật tự xã hội. Người dân sẽ ít bị kích động từ bên ngoài, người dân sẽ đề cao lợi ích tập thể bởi khi họ muốn gắn bó là họ sẽ “chăm sóc”, “xây dựng” và “bảo vệ” ngôi nhà chung của mình. Khi người dân thỏa mãn trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, họ sẽ hợp tác và ứng xử tốt hơn với Nhà nước và chủ đầu tư dự án, họ cũng là người sẽ truyền thông chủ trương chính sách thu hồi đất, BT, HT ra bên ngoài, tác động tích cực đến các hộ gia đình khác. Ở Việt nam, với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu; Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng và thực hiện việc thu hồi đất trong các trường hợp cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh, để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hàng năm Việt Nam phải thu hồi diện tích lớn đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp để thực hiện các dự án phát triển công nghiệp, phát triển hạ tầng, xây dựng các khu đô thị, khu dân cư... Chính sách BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất đã được quan tâm, xây dựng theo hướng ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người dân khi bị thu hồi đất như giá đất tính bồi thường được quy định theo nguyên tắc phù hợp với giá đất chuyển nhượng phổ biến trên thị trường, ngoài việc bồi thường còn được hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ tái định cư (TĐC) tuỳ theo nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất (Từ Điều 74 đến Điều 94 của Luật Đất đai năm 2013). Tuy nhiên, thực tế trong thời gian vừa qua việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư, kể cả các dự án lớn, dự án trọng điểm của Trung ương và địa phương vẫn chậm trễ, ách tắc, có dự án triển khai thu hồi đất trên 5, 10 năm vẫn chưa hoàn thành giải phóng
- 3 mặt bằng (GPMB) do người có đất bị thu hồi còn chưa đạt được sự thoả mãn về mức BT, HT, phương thức bồi thường; tổ chức thực hiện BT, HT và thoả mãn về thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất, dẫn đến khiếu kiện, chậm bàn giao mặt bằng, làm đội vốn đầu tư, ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư; mức độ đồng thuận của người người dân cũng có sự khác nhau theo vùng miền, trình độ học vấn, loại hình dự án khi thu hồi đất... Việc xác định và hiểu rõ thực trạng sự thỏa mãn của người dân trong việc thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, sự thoả mãn theo các khía cạnh khác nhau, dẫn đến sự đồng thuận sẽ thúc đẩy tích cực tiến độ bồi thường, GPMB để thực hiện các dự án đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội và giúp cho người có đất bị thu hồi có quan điểm nhìn nhận tích cực hơn về các chính sách BT, HT cũng như cách thức tiến hành trước và sau khi thu hồi đất, sẽ góp phần làm giảm thiểu những khiếu kiện, bức xúc của người dân có đất bị thu hồi đất. Tại Việt Nam, đã có khá nhiều các nghiên cứu về sự thỏa mãn của người dân trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, sản phẩm hàng hóa... trong đó đã tập trung xây dựng các thang đo để đánh giá chất lượng dịch vụ hoặc sự hài lòng của người dân trong sử dụng các dịch vụ cụ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu ứng dụng các lý thuyết, các thang đo để phân tích các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, chưa phân tích đồng thời các mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn của người dân với các nhóm đặc điểm của người dân; chưa xem xét sự thay đổi cuộc sống của người dân, sự thay đổi giá đất sau khi thu hồi cũng như các yếu tố nội tại của người dân đến sự thỏa mãn khi Nhà nước thu hồi đất. Xuất phát từ thực tế nêu trên, nhằm góp phần tổng quát hóa cơ sở lý thuyết về sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, xác định các yếu tố và đo lường mức độ thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, để có cơ sở khuyến nghị sửa đổi chính sách, pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” làm nội dung nghiên cứu cho luận án của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu chung Nghiên cứu các yếu tố cấu thành sự thoả mãn và đánh giá mức độ thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nhằm khuyến nghị điều chỉnh chính sách cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
- 4 2.2. Mục tiêu cụ thể Một là, nghiên cứu các yếu tố cấu thành sự thỏa mãn và phát triển thang đo đánh giá sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp với chính sách, pháp luật và chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam. Hai là, đánh giá được mức độ thỏa mãn chung và mức độ thỏa mãn theo các nhóm yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Ba là, nghiên cứu đưa ra được một số những khuyến nghị điều chỉnh chính sách BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là sự thỏa mãn và các yếu tố cấu thành đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của Việt Nam; không nghiên cứu trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai và người dân bị ảnh hưởng nhưng nằm ngoài phạm vi ranh giới thu hồi đất. - Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2016-2020. 4. Những đóng góp mới của luận án 4.1. Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận Nghiên cứu đã dựa trên các lý thuyết về sự thỏa mãn (Lewin, 1975; Peyton và cộng sự, 2003; Hovlvà và cộng sự, 1957; Kotler và cộng sự; 1996), lý thuyết về sự công bằng (Adams, 1963, 1966; Colquitt và cộng sự, 2005) và từ kết quả nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn sâu đại diện cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia, chủ đầu tư và hộ gia đình có đất bị thu hồi, nghiên cứu đã bổ sung và thảo luận các yếu tố cấu thành sự thoả mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ (BT, HT) khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm: (1) Sự thỏa mãn về mức BT, HT; (2) Phương thức bồi thường; (3) tổ chức thực hiện BT, HT và (4) Sự thay đổi cuộc sống sau khi thu hồi đất. 4.2. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra từ nghiên cứu 1. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: i) Thông qua phân tích EFA và CFA cho thấy sự thoả mãn chung, thoả mãn về mức BT, HT, phương thức bồi thường, tổ chức thực hiện BT, HT, sự thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất của người dân còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, vẫn có một số
- 5 hộ dân có sự thỏa mãn tích cực do được hưởng lợi từ việc thu hồi đất. ii) Thông qua sử dụng phương pháp phân tích phương sai ANOVA và hàm hồi quy đa biến cho thấy sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất có sự khác biệt theo nhóm dân cư như trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp và theo vùng miền. 2. Trên cơ sở những phát hiện chính từ kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra các hàm ý chính sách cho các bên liên quan như sau: i) Cần bảo đảm mức BT, HT đầy đủ cho người có đất bị thu hồi, theo đó: việc định giá đất tính bồi thường phải phù hợp với giá đất thị trường, tính toán đầy đủ thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; các khoản hỗ trợ phải đáp ứng được mục tiêu ổn định cuộc sống, sản xuất và phát triển bền vững. ii) Đa dạng phương thức bồi thường, trong đó chú trọng việc chuẩn bị quỹ đất, quỹ nhà để đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân. iii) Việc tổ chức thực hiện BT, HT phải công khai, minh bạch, kịp thời, đúng quy định của pháp luật và có sự tham gia của người dân; phải nâng cao năng lực, trách nhiệm của tổ chức làm nhiệm vụ BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. iv) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn thu từ đất. Việc tăng sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 6. Kết cấu luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được trình bày thành 4 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về sự thoả mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Chương 2: Phương pháp nghiên cứu Chương 3: Đánh giá sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Chương 4: Một số khuyến nghị từ kết quả nghiên cứu.
- 6 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CÚU VỀ SỰ THOẢ MÃN CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT 1.1. Sự thỏa mãn, các lý thuyết về sự thỏa mãn 1.1.1. Sự thỏa mãn Sự thỏa mãn là một khái niệm đã xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như đánh giá sự thỏa mãn của nhân viên, đánh giá theo sự thỏa mãn của bệnh nhân trong bệnh viện và đánh giá trang Website bởi sự thỏa mãn của khách truy cập giữa những người khác nhau. Sự thỏa mãn là một quá trình đánh giá giữa những gì đã nhận được và những gì được mong đợi (Parker and Mathews, 2001). Sự thỏa mãn có thể được định nghĩa chính xác là sự khác biệt về nhận thức giữa khát vọng và thành tích (Campbell và cộng sự, 1976). Sự thỏa mãn không chỉ bị chi phối bởi các khía cạnh vật lý mà còn bởi khả năng hình thành các mạng lưới xã hội. Satsangi and Kearns (1992), định nghĩa sự thỏa mãn của người dân là khía cạnh tâm lý, sự thỏa mãn của khách hàng là một thái độ phức tạp. Ngoài ra, Lu (1999) đã định nghĩa sự thỏa mãn của người dân là một cấu trúc nhận thức phức tạp. Sự thỏa mãn của người dân trong nghiên cứu này được định nghĩa là cảm giác bằng lòng khi người dân có thể đạt được những gì người dân cần hoặc mong muốn so với thực tế mà người dân nhận được. 1.1.2. Sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ Mức BT, HT là yếu tố quyết định về lợi ích kinh tế đối với người có đất bị thu hồi, đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự thoả mãn của người dân. Mức BT, HT mà người dân nhận được khi Nhà nước thu hồi đất là để khôi phục lại giá trị tài sản (đất đai, nhà cửa, công trình kiến trúc…), nguồn sinh sống, lợi ích vật chất và tinh thần do quá trình triển khai thực hiện dự án. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường Từ các nghiên cứu trên thế giới có thể thấy phương thức bồi thường có thể dưới một số phương thức sau: bồi thường bằng tiền được trả dưới dạng một lần, bồi thường bằng tiền theo các khoảng thời gian xác định, bồi thường bằng tiền kết hợp với bồi thường một phần bằng đất và cuối cùng là thông qua phương thức chi trả như là các khoản an sinh xã hội. Với mỗi loại hình bồi thường thì người dân nhận bồi thường từ thu hồi đất
- 7 cũng có sự thoả mãn khác nhau. Có thể ở cùng một mức bồi thường như nhau nhưng sự thoả mãn của hộ gia đình lại có sự khác biệt theo phương thức bồi thường. Sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ Ngoài mức BT, HT thì quá trình tổ chức thực hiện BT, HT cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong việc thu hồi đất. Nếu tổ chức thực hiện bồi thường tạo được niềm tin, tạo được sự trung thành, sự ủng hộ của người dân thì sẽ có tác động lan tỏa rất lớn trong hoạt động thu hồi đất, bồi thường. Nếu cán bộ thực hiện hỗ trợ, nhiệt tình để giải quyết những ý kiến của những người chủ đất bị, sẽ giúp người dân có thiện cảm hơn, tạo sự ủng hộ tốt hơn. Sự thỏa mãn về thay đổi cuộc sống Nếu các dự án thu hồi đất đảm bảo một số khía cạnh về chất lượng cuộc sống như điều kiện sống của gia đình, bảo đảm quyền lợi xã hội, cơ sở công cộng và môi trường thì sẽ làm cho người dân cảm thấy thỏa mãn hơn, bên cạnh tiền đất họ được bồi thường thì việc họ có điều kiện thay đổi cuộc sống vượt so với kỳ vọng cũng giúp họ trở lên tốt đẹp hơn, thỏa mãn hơn (Hu và cộng sự, 2014). Sự thoả mãn của người dân theo đặc điểm của hộ gia đình Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT có thể có sự khác biệt theo một số đặc điểm của hộ như: Nghề nghiệp, Trình độ CMKT, Vùng miền 1.1.3. Các lý thuyết về sự thỏa mãn Lý thuyết công bằng Lý thuyết công là sự phân bố hợp lý, bình đẳng về mức lương và thưởng của người lao động. Ngày nay, nhiều nghiên cứu cho thấy, không chỉ là mức lương mà người lao động còn quan tâm nhiều đến môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến, chức vụ. Tất cả những thứ đó được thể hiện qua những quyết định quản lý là hợp lý, rõ ràng, bình đẳng. Lý thuyết đồng hóa Người tiêu dùng cũng có thể làm giảm sự không thỏa mãn do sự khác biệt giữa kỳ vọng và hiệu suất sản phẩm bằng cách thay đổi kỳ vọng sao cho trùng với hiệu suất sản phẩm được nhận thức hoặc bằng cách tăng mức độ thỏa mãn bằng cách giảm thiểu tầm quan trọng tương đối của sự không thỏa mãn đã trải qua. Lý thuyết tương phản Lý thuyết tương phản đã đưa ra giả thuyết rằng đánh giá sau khi sử dụng dẫn đến kết quả trong các dự đoán ngược lại về tác động của sự mong đợi đối với sự thỏa mãn.
- 8 Lý thuyết tương phản đồng hóa Lý thuyết này là sự kết hợp của cả lý thuyết đồng hóa và lý thuyết tương phản; mô hình cho rằng sự thỏa mãn là một hàm của mức độ chênh lệch giữa hiệu suất mong đợi và hiệu suất được cảm nhận. Lý thuyết về sự khác biệt Lý thuyết về sự khác biệt cho rằng nếu hiệu suất vượt quá mong đợi, người dùng sẽ được xác nhận tích cực hoặc thỏa mãn. 1.2. Tổng quan nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Các nhà nghiên cứu, học giả trên thế giới đã cố gắng tìm tòi khám phá ra những đặc điểm cốt lõi, những yếu tố thể hiện, ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân có đất bị thu hồi để thực hiện các công trình, dự án phục vụ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Việc tìm hiểu các khía cạnh của sự thỏa mãn đối với người có đất bị thu hồi chính là góp phần tìm ra tiền đề để giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên liên quan, đó là chính quyền và người dân có đất bị thu hồi. Sự thỏa mãn về mức bồi thường, hỗ trợ Theo Kakulu (2008), cộng đồng sẽ bất mãn với mức tiền bồi thường nếu có liên quan đến cưỡng chế hoặc tranh chấp. Ngoài ra, trong nghiên cứu của Robinson (1995) cũng chỉ ra rằng nếu mức bồi thường là đầy đủ và cao hơn, chủ sở hữu sẽ hoan nghênh việc thu hồi đất. Oladapo và Ige (2012) chỉ ra sự chênh lệch lớn giữa trung bình (mean) của mức trả bồi thường và giá trị thị trường của tài sản bị thu hồi, trong khi chỉ số thỏa mãn tương đối của bên người nhận bồi thường đối với mức bồi thường được trả là dưới cả mức thỏa mãn chấp nhận được. Mức bồi thường không đầy đủ là nguyên nhân chính gây nên mâu thuẫn xã hội xuất phát từ việc Nhà nước thu hồi đất, và đây cũng là thách thức chính trong mỗi dự án thu hồi đất. Các nghiên cứu cho thấy rằng mức sống của chủ sỡ hữu đất đi xuống rất nhiều sau khi bị thu hồi đất. Để đảm bảo việc thu hồi đất được tiến hành hợp pháp, việc bồi thường đúng và đầy đủ cho chủ đất phải được bảo đảm. Odalapo và Ige (2012) còn chỉ ra rằng rõ ràng chênh lệch về mức tiền bồi thường với giá thị trường là một vấn đề nhạy cảm. Song QU và cộng sự (2015), cho thấy một số phát hiện chính là: (1) sự thỏa mãn của nông dân với việc bồi thường không chỉ phụ thuộc vào mức bồi thường mà còn phụ thuộc vào khoảng cách giữa giá đền bồi thường và giá trị thị trường của đất bị thu hồi; (2) số tiền bồi thường ảnh hưởng tích cực đến sự thỏa mãn của nông dân khi sử dụng hình thức bồi thường an sinh xã hội, nhưng không ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của nông dân khi sử dụng các hình thức bồi thường khác.
- 9 Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường Ning Chai (2019), thường có ba phương pháp bồi thường được áp dụng - bao gồm bồi thường bằng tiền, bồi thường thay thế tài sản và bồi thường tái định cư. Kết quả nghiên cứu này có thể giúp chính quyền địa phương trong tương lai xây dựng các tiêu chuẩn, phương thức bồi thường hợp lý đối với đất đai và tài sản bị trưng thu. Những người nông dân bị trưng thu chọn bồi thường bằng tiền thỏa mãn hơn so với bồi thường nhà ở. Li, N.H (2018), cho thấy sự thỏa mãn về phương thức bồi thường thấp, tác giả cũng kiến nghị nên thiết lập và cải thiện cơ chế cập nhật về phương thức bồi thường đất và cơ chế ra quyết định thu hồi đất, cũng như cải thiện cơ chế an ninh cho nông dân bị mất đất. Với Kotilainen (2012), thoả thuận sẽ được chủ đất ưa chuộng trong trường hợp có nhiều hơn một biện pháp lựa chọn (không chỉ là tiền, có thể là bồi thường bằng đất). Cơ sở lý thuyết về bồi thường có thể có sự khác biệt giữa việc thoả thuận và tiến hành cưỡng chế. Các chủ đất rất mong muốn có cơ hội thoả thuận với bên thứ ba thay vì với đại diện của cơ quan quản lý đường xá Finnra. Khả năng được sử dụng người trung gian dàn xếp cũng có thể rất hữu ích. Sự thỏa mãn về về chất lượng tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và sự tham gia của người dân Tyagi và Shinde (2016) đưa ra: (1) Nên có những điều khoản để giải quyết những ý kiến của những người chủ đất bị ảnh hưởng; (2) Nên có những điều khoản để giúp những người dân địa phương hiểu rõ kế hoạch về quá trình thu hồi đất; (3) Nên có sách hướng dẫn người dân hiểu biết về chính sách điều chỉnh, quy trình tái phân bổ đất và việc bồi thường thu hồi đất, lịch trình trả tiền bồi thường, hiến đất, kế hoạch TĐC và các địa điểm xây dựng cũng như về khung thời gian; (4) Bắt buộc phải giải thích, làm rõ những luật và quy tắc liên quan cho người bị ảnh hưởng trước khi tiến hành thu hồi đất; (5) Thất bại của kế hoạch là do có mâu thuẫn tranh chấp về lợi ích và cũng như do những chính sách của Chính phủ không rõ ràng; (6) Việc tham gia của công chúng là rất quan trọng. Theo Xianling (2012), chỉ ra rằng chính hệ thống tổ chức chưa hoàn hảo, sự độc quyền của Chính phủ hoặc sự can thiệp của Chính phủ đã tạo ra sự không thỏa mãn của người dân khi Nhà nước thu hồi đất. Imrie and Thomas (1997) (trong nghiên cứu của Kotilainen, 2012) chỉ ra rằng việc thông báo, thực thi trong việc bồi thường, hỗ trợ là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thỏa mãn của người dân. Ngược lại, ở Ghana sự không thỏa mãn của người dân trong các dự án thu hồi đất thường gắn liền với các khiếu nại như không tuân thủ các quy tắc và thủ tục, trả tiền đền bù không đầy đủ và không có sự tham gia của chủ đất. Tác giả Wang, X.
- 10 (2013), đã đưa ra các biến thang đo về sự thỏa mãn của nông dân đối với việc bồi thường thu hồi đất ở góc độ tổ chức thực hiện, đó là: sự tin cậy và việc đáp ứng. Sự thỏa mãn trong bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có khác biệt theo đặc điểm của người dân Một số nghiên của Qin và cộng sự (2016), Jesser (1967), Marans và Rodger (1975), Ladewig và McCann, (1980), Brown (1999); chỉ ra rằng sự thỏa mãn có sự khác biệt theo một số yếu tố như tuổi, trình độ, nơi người dân sinh sống, mục đích của mảnh đất. Bên cạnh đó, mức độ giáo dục cũng như tình trạng công việc có thể ảnh hưởng mạnh đến mức thu nhập cá nhân, tình trạng sức khỏe, và kiến thức về các chính sách liên quan (Bohnke, 2005). Sự thỏa mãn có thể có sự khác biệt theo các nhóm yếu tố: yếu tố nội tại của người dân, mức về thu nhập; việc làm, khả năng sinh kế; đảm bảo tài chính nghỉ hưu; tính gắn kết xã hội; chất lượng cơ sở hạ tầng; dịch vụ tiện ích công cộng; môi trường tự nhiên; sức khỏe; điều kiện về đất đai - nhà ở; vai trò của chính quyền địa phương; sự tham gia của người dân cũng ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đối với các nghiên cứu tại Việt Nam: - Đứng trên quan điểm của quản lý nhà nước về đất đai, tác giả Đào Trung Chính (2014) đã đề xuất giải pháp trong việc giải quyết, hỗ trợ, TĐC cho người dân bằng cách cần phải làm rõ mục đích thu hồi đất, làm rõ mối quan hệ lợi ích giữa người bị thu hồi đất - Nhà nước - nhà đầu tư, cuối cùng là cần có quy định rõ ràng về BT, HT, TĐC cho người bị thu hồi đất. - Về góc nhìn của người sử dụng đất, hiện nay tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu sự thỏa mãn của người dân trong bồi thường, GPMB qua một số nhóm nhân tố như: phương tiện hữu hình, mức độ tin cậy, khả năng đáp ứng, năng lực phục vụ, mức độ đồng cảm và nhóm nhân tố mức giá bồi thường. Biện pháp bồi thường thiếu hiệu quả, thiếu đất sản xuất và thiếu những thay thế cho sinh kế của người dân nên dẫn đến người dân không hợp tác và chống đối lại việc Nhà nước thu hồi đất. Ngoài ra, vấn đề lợi ích nhóm giữa chính quyền và các nhà đầu tư cũng ảnh hưởng đến sự thõa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. 1.3. Khoảng trống cần nghiên cứu tại Việt Nam Một số nghiên cứu quốc tế đã đưa ra các khía cạnh để đánh giá sự thỏa mãn và ở các khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu xây dựng yếu tố cấu thành sự thỏa mãn và cũng chưa có các tiêu chí (biến thang đo) cụ thể phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Bên cạnh đó, còn ít nghiên cứu ở Việt Nam xem xét sự thỏa mãn của
- 11 người dân trong BT, HT của Nhà nước khi thu hồi đất khác biệt theo đặc điểm của hộ gia đình có đất bị thu hồi như nghề nghiệp, trình độ CMKTs hay nơi sinh sống của người có đất thu hồi. Như vậy, việc xác định yếu tố cấu thành và các tiêu chí đánh giá cũng như đánh giá sự thỏa mãn của người dân và sự thỏa mãn của người dân khác biệt theo các nhóm trong BT, HT là khoảng trống mà luận án sẽ tập trung vận dụng lý thuyết vào nghiên cứu thực tiễn để xem xét, đánh giá. Trên cơ sở đó, có đánh giá và khuyến nghị chính sách bảo đảm lý luận và thực tiễn, phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. 1.4. Đề xuất khung nghiên cứu Từ mục tiêu nghiên cứu của luận án, dựa trên kết quả tổng quan nghiên cứu, các lý thuyết về sự thỏa mãn và chế độ quản lý, sử dụng đất của Việt Nam, luận án xây dựng khung phân tích dưới đây: THỎA MÃN VỀ MỨC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ THỎA MÃN VỀ PHƯƠNG THỨC BT, HT SỰ THỎA MÃN CHUNG THỎA MÃN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN Các yếu tố khác - Nghề nghiệp - Trình độ - Vùng miền SỰ THỎA MÃN VỀ - Mục đích của dự án THAY ĐỔI CUỘC SỐNG - Thay đổi về giá đất Hình 1.1. Khung phân tích sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất
- 12 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thiết kế nghiên cứu tổng thể 2.1.1. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu định tính được sử dụng giúp tác giả tìm hiểu sâu về chính sách liên quan, nghiên cứu về các yếu tố hình thành lên sự thoả mãn của người dân, yếu tố ảnh hưởng đến sự thoả mãn của người dân từ góc nhìn của nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư và người dân bị thu hồi đất Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua phương pháp khảo sát ý kiến đánh giá của người dân thuộc khu vực bị thu hồi đất theo các nội dung nghiên cứu. 2.1.2. Địa bàn khảo sát Để đánh giá sự thoả mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, luận án lựa chọn nghiên cứu tại thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là các địa bàn triển khai nhiều dự án thu hồi đất cho phát triển kinh tế - xã hội và là địa bàn có nhiều khiếu kiện của người dân trong quá trình Nhà nước thực hiện thu hồi đất. 2.2. Nghiên cứu định tính 2.2.1. Mục tiêu của nghiên cứu định tính Một là, thăm dò tìm hiểu về thực trạng sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Hai là, điều chỉnh, bổ sung các biến thang đo phù hợp với bối cảnh nghiên cứu ở Việt Nam. Ba là, bổ sung, làm rõ, giải thích cho các kết quả nghiên cứu định lượng. 2.2.2. Thiết kế nghiên cứu 2.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phỏng vấn sâu đối với đối tượng là cơ quan quản lý nhà nước, nhà đầu tư nhằm xem xét đánh giá về quá trình BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó là thăm dò, đánh giá sự thỏa mãn của người dân, cũng như tìm hiểu các khía cạnh thỏa mãn của người dân thuộc diện có đất bị thu hồi và được bồi thường. 2.2.2.2. Đối tượng nghiên cứu và nội dung Nghiên cứu định tính sử dụng kỹ thuật phỏng vấn sâu 2 nhóm đối tượng sau: i) cơ quan quản lý nhà nước và chủ đầu tư; ii) đại diện hộ gia đình có đất bị thu hồi, mỗi
- 13 hộ gia đình sẽ phỏng vấn 01 người đủ năng lực hành vi dân sự có thể đại diện cho quan điểm của hộ gia đình, kết quả thu được sẽ giả định là đại diện cho dân cư trên địa bàn nghiên cứu. 2.2.2.3. Số lượng đối tượng tham gia Số lượng đối tượng tham gia phỏng vấn định tính được thể hiện ở bảng dưới đây. Thời gian trung bình cho một cuộc phỏng vấn kéo dài từ 60 phút đến 120 phút. Bảng 3.1. Mô tả mẫu khảo sát định tính Tổng số TT Mô tả mẫu, số cuộc Nhóm 1: Chuyên gia, quản lý Nhà nước 10 1 Giảng viên, nhà nghiên cứu 2 2 Cán bộ quản lý Nhà nước tại Tổng cục Quản lý đất đai 2 3 Cán bộ quản lý của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà 3 Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng 4 Đại diện chủ đầu tư (1 người/tỉnh) 3 Nhóm 2: Đại diện hộ gia đình 12 1 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Hà Nội 4 2 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Hồ Chí Minh 4 3 Đại diện hộ có đất bị thu hồi tại thành phố Đà Nẵng 4 Nguồn: Tổng hợp của tác giả 2.2.2.4. Thu thập thông tin Thu thập thông tin thứ cấp: liên quan đến các đề tài nghiên cứu, các báo cáo, bài báo liên quan đến sự thoả mãn nói chung và sự thoả mãn trong BT, HT khi thu hồi đất nói riêng. Thu thập thông tin sơ cấp: được thu thập từ các phương pháp thu thập thông tin như phỏng vấn sâu hoặc điều tra khảo sát qua bảng hỏi nhằm thu thập thông tin trực tiếp và nhiều chiều, dưới nhiều góc độ và quan điểm của mỗi cá nhân về sự thoả mãn của hộ gia đình được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- 14 2.2.3. Phát triển thang đo Thang đo sự thỏa mãn về mức BT, HT Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng quan và nghiên cứu định tính, trong nghiên cứu này thì mức BT, HT được đo lường thông qua 4 biến: (1) Giá bồi thường về đất; (2) Giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất; (3) Chi phí đầu tư vào đất đối với trường hợp không được bồi thường về đất; (4) Mức hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và chuyển đổi nghề nghiệp tạo việc làm. Thang đo sự thỏa mãn về phương thức bồi thường Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật về đất đai có các phương thức: bồi thường bằng tiền, bồi thường bằng đất hoặc bồi thường bằng nhà. Do vậy, luận án xem xét sự thoả mãn của người dân theo nhóm phương thức bồi thường gồm 3 biến: (1) bồi thường bằng tiền; (2) bồi thường bằng đất; (3) bồi thường bằng nhà. Thang đo sự thỏa mãn về tổ chức thực hiện BT, HT Luận án kế thừa thang đo của các tác giả trước đây đã nghiên cứu, căn cứ quy định của pháp luật về đất đai và kết quả nghiên cứu định tính, nhóm tổ chức BT, HT dùng trong nghiên cứu này gồm 7 biến: (1) Lấy ý kiến người dân về phương án BT, HT, TĐC; (2) Tiếp thu ý kiến người dân về phương án BT, HT, TĐC; (3) Thực hiện phương án BT, HT, TĐC công khai, minh bạch; (4) Giải quyết kịp thời khiếu nại của người dân; (5) Năng lực của cán bộ làm nhiệm vụ BT, HT; (6) Sự tham gia của chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) trong việc thu hồi đất, BT, HT (7) Cán bộ tiếp cận người dân lịch sự, nhã nhặn, thân thiện. Thang đo sự thay đổi cuộc sống Nghiên cứu đề xuất 04 biến thang đo cho “Thay đổi cuộc sống” như sau: (1) Tiền BT, HT tạo thuận lợi để gia đình cải thiện chỗ ở, ổn định đời sống; (2) Tìm kiếm được việc làm mới, phát triển sản xuất, thu nhập ổn định và tăng hơn trước; (3) Điều kiện tiếp cận về giao thông, các công trình văn hóa, phúc lợi công cộng thuận lợi hơn trước; (4) Điều kiện về môi trường, dân trí thuận lợi hơn trước. Sự thỏa mãn của người dân có sự khác biệt theo một số yếu tố: mục đích thu hồi đất; trình độ học vấn; nghề nghiệp và giá đất thay đổi.
- 15 Giá bồi thường về đất Giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất Thỏa mãn về mức bồi Chi phí đầu tư vào đất thường, hỗ trợ Mức hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi Bồi thường bằng tiền Thỏa mãn về Bồi thường bằng đất phương thức Bồi thường bằng nhà ở bồi thường Sự thỏa mãn Lấy ý kiến người dân Tiếp thu ý kiến người dân Thỏa mãn về tổ chức thực hiện Thực hiện công khai, bồi thường, hỗ minh bạch trợ Giải quyết kịp thời khiếu Các yếu tố khác nại của người dân - Nghề nghiệp Năng lực của cán bộ - Trình độ Sự tham gia của chính - Vùng miền quyền, tổ chức CT - XH Thỏa mãn về - Mục đích của dự án Cán bộ tiếp cận người dân sự thay đổi - Thay đổi về giá đất lịch sự, nhã nhặn, thân thiện. điều kiện sống của hộ Chỗ ở mới Việc làm mới, phát triển sản xuất Tiếp cận về giao thông, công trình văn hóa, phúc lợi công cộng Thay đổi môi trường, trình độ dân trí Hình 2.1. Mô hình nghiên cứu Nguồn: Tác giả tổng hợp
- 16 2.3. Nghiên cứu định lượng 2.3.1. Mục tiêu nghiên cứu định lượng Mục tiêu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư. Đồng thời, kiểm định giả thuyết để xác định mức độ ảnh hưởng khác nhau của các yếu tố đến người có đất bị thu hồi, cũng như kiểm định giả thuyết để xem xét có sự khác biệt về các yếu tố đến sự thỏa mãn khi Nhà nước thu hồi đất. 2.3.2. Thiết kế nghiên cứu định lượng Thiết kế nghiên cứu định lượng hướng vào việc thiết kế những biến quan sát, phương pháp đo lường, phương pháp đánh giá, phân tích và giải thích mối quan hệ giữa các biến bằng các quan hệ định lượng. 2.3.2.1. Mẫu nghiên cứu Mẫu điều tra đưa vào sử dụng của luận án là 540 đại diện hộ gia đình, trong đó thành phố Hà Nội là 188 đại diện hộ, thành phố Hồ Chí Minh là 177 đại diện hộ và thành phố Đà Nẵng là 175 đại diện hộ. 2.3.2.2. Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu Nghiên cứu định lượng với phương pháp thu thập dữ liệu chủ yếu là điều tra khảo sát thông qua phiếu điều tra với bảng câu hỏi. Phiếu điều tra được phát triển dựa trên các thang đo đã được nghiên cứu. Thời gian thực hiện khảo sát phiếu điều tra từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 8 năm 2019. Thông tin từ phiếu khảo sát sẽ được nhập vào máy tính thông qua thiết kế phần mềm nhập tin CSPro, và được làm sạch, kiểm tra logic bằng SPSS trước khi đưa vào phân tích. Sử dụng phương pháp định lượng sẽ giúp kiểm định các mối quan hệ và từ đó đưa ra các kết luận dựa trên bằng chứng. Phân tích thống kê mô tả Nghiên cứu tiến hành phân tích mô tả thống kê các biến quan sát trong mô hình qua các tiêu chí gồm: giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Kiểm định thang đo Để đảm bảo chất lượng thang đo sẵn sàng cho các phân tích và kiểm định về giá trị trung bình giữa các nhóm đối với biến sự thoả mãn chung, tác giả sử dụng kết hợp 2 phương pháp phân tích: nhân tố khám phá (EFA) và nhân tố khám phá khẳng định (CFA). 2.3.2.3. Kết quả kiểm định thống kê Phân tích nhân tố khám phá EFA Theo kết quả phân tích nhân tố cho thấy, hệ số KMO=0,715>0,5. Như vậy, phân tích nhân tố thích hợp với dữ liệu nghiên cứu. Kết quả kiểm định Barlett’s là: 2471.242 với mức ý nghĩa sig=0,000 50%:
- 17 Đạt yêu cầu, có thể nói rằng các nhân tố này giải thích 54,34% độ biến thiên của dữ liệu thu thập. Hệ số Eigenvalues > 1 có tất cả 4 nhân tố, do đó có 4 nhân tố đại diện (Mức BT, HT; Sự thay đổi về các điều kiện sống của người dân sau khi thu hồi đất; Tổ chức thực hiện; Phương thức bồi thường). Mức độ phù hợp mô hình và các chỉ số đo độ phù hợp mô hình Kết quả CFA ở trên cho thấy: Chi-square=217,280 (p=0,000); Chi-square/df = 1,923
- 18 người dân rất đồng tình và đồng tình chiếm tỷ lệ thấp (15,2%). Biến thang đo về mức giá trị tài sản gắn liền với đất được đánh giá cao hơn không đáng kể (điểm trung bình là 2,2) và chỉ có 19,9% số người trả lời là rất đồng tình và đồng tình với nội dung này. Vì vậy, chính quyền địa phương cần phải thực hiện tốt chính sách thu hồi đất, phải đảm bảo cho người dân có cuộc sống tốt hơn hoặc ngang bằng trước khi thu hồi. Giá trị đất tính bồi thường phải đáp ứng được điều kiện mua lại đất hoặc khả năng tái sản xuất cho người dân. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự thỏa mãn của người dân về mức BT, HT khi Nhà nước thu hồi có sự khác biệt theo trình độ CMKT, theo nghề nghiệp và theo vùng miền. 3.2. Sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất 3.2.1. Quy định của pháp luật về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường thì được bồi thường; việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất (Quốc hội, 2013). 3.2.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Việc thực hiện bồi thường cần được tiến hành theo nhiều phương thức khác nhau như bằng tiền, bằng đất và bằng nhà, nếu chỉ thực hiện bồi thường bằng tiền sẽ được coi là phiến diện và không tạo sinh kế lâu dài cho người dân bị mất đất. Người dân thỏa mãn về phương thức bồi thường bằng đất hơn (điểm trung bình là 2,68) là so với các phương thức khác do giá đất bồi thường hiện tại thấp hơn nhiều so với giá đất thị trường. Có đến 57,6% số người không hài lòng về phương thức bồi thường bằng tiền; 64,4% người dân không hài lòng với phương thức bồi thường bằng nhà. Sự thỏa mãn về phương thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có sự khác biệt theo trình độ CMKT, vùng miền và theo nghề nghiệp. 3.3. Sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 3.3.1. Quy định của pháp luật về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Việc BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật (Quốc hội, 2013).
- 19 3.3.2. Đánh giá sự thỏa mãn của người dân về tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Về tổ chức thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cho thấy chính quyền địa phương, cơ quan quản lý Nhà nước càng quan tâm, sát sao trong việc giải quyết vướng mắc cho người dân thì càng làm tăng sự thoả mãn của người dân. Trong 6 yếu tố về sự thoả mãn trong tổ chức thực hiện bồi thường, có 4 yếu tố được đánh giá tích cực (điểm trung bình từ 2,56 đến 3,19); còn 2 yếu tố được đánh giá chưa tích cực. Quá trình thu hồi đất luôn bao hàm tính chất phức tạp và luôn tiềm ẩn những bức xúc khiến cho có nhiều cuộc khiếu kiện kéo dài. Việc người dân đánh giá về công tác tổ chức thực hiện thu hồi bồi thường còn chưa tốt phần nào phản ánh người dân cũng chưa thỏa mãn đối với hoạt động thu hồi đất, BT, HT cũng như năng lực của tổ chức thực hiện nhiệm vụ này, nếu như Nhà nước không có chính sách điều chỉnh kịp thời thì điều này sẽ có những ảnh hưởng lan tỏa đến các hoạt động thu hồi đất, bồi thường cho các dự án khác. 3.4. Sự thỏa mãn của người dân đối với việc thay đổi điều kiện sống sau khi Nhà nước thu hồi đất Sự thoả mãn của người dân về thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất được đánh giá ở trên mức trung bình (điểm trung bình từ 2,39 đến 2,99). Người dân mong muốn được thay đổi cuộc sống sau khi bị thu hồi đất theo hướng tốt hơn, họ mong muốn ổn định chỗ ở, có việc làm mới để ổn định thu nhập, phát triển sản xuất. Ngoài ra, họ cũng mong muốn được tiếp cận với các công trình phúc lợi văn hóa tốt hơn, có môi trường thuận lợi để con cái được học tập, phát triển dân trí. Do vậy khi xây dựng chính sách BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất cần quan tâm hơn nữa đến cuộc sống của người dân sau khi bị thu hồi đất. 3.5. Mức độ thỏa mãn chung trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất Mức độ thỏa mãn chung của người dân trong BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất nói chung còn thấp, điểm trung bình là 2,56 điểm. Sự thoả mãn chung mặc dù cao hơn mức trung bình nhưng vẫn ở mức thấp, người dân đánh giá sự thoả mãn thấp nhất về mức bồi thường (2,3 điểm) và phương thức bồi thường (2,4 điểm). Sự thoả mãn chung có sự khác biệt theo các nhóm người dân, người dân ở miền Nam cao hơn so với người dân ở miền Bắc và miền Trung; người dân không có trình độ CMKT có sự thỏa mãn cao hơn so với người dân ở trình độ CMKT; người dân làm trong nông, lâm, ngư nghiệp có sự thỏa mãn thấp nhất; người dân cảm thấy thoả mãn hơn đối với trường hợp thu hồi đất danh cho mục đích công cộng; giá đất sau khi thu hồi tăng cao thì người dân cảm thấy ít thỏa mãn hơn.
- 20 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Một số khuyến nghị điều chỉnh chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 4.1.1. Về mức bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 4.1.1.1. Bảo đảm giá đất tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phù hợp với giá đất thị trường: - Tiếp tục hoàn thiện nội dung, điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng các phương pháp định giá đất để định giá đất cụ thể tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Từng bước xây dựng bảng giá đất theo mô hình định giá đất đến từng thửa đất chuẩn theo thửa đất chuẩn, gắn với áp dụng công nghệ thông tin. Quy định giá đất cụ thể để tính bồi thường không được thấp hơn giá đất trong bảng giá đất do UBND cấp tỉnh quy định. - Quy định bắt buộc UBND cấp tỉnh phải thuê các tổ chức có chức năng tư vấn giá đất độc lập thực hiện tư vấn xác định giá đất để tính bồi thường trong tất cả các trường hợp Nhà nước thu hồi đất; quy định Hội đồng thẩm định giá đất phải có thành viên là người dân đại diện khu vực thu hồi đất và các chuyên gia am hiểu về giá đất để thực hiện tốt việc thẩm định giá đất. - Tập trung thực hiện các biện pháp đảm bảo tính công khai, minh bạch và phát triển thị trường quyền sử dụng đất một cách ổn định, lành mạnh, hạn chế đầu cơ đất đai để bảo đảm thông tin giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường có tính pháp lý, chính xác, làm dữ liệu đầu vào tin cậy cho các phương pháp định giá đất. Quy định bắt buộc người sử dụng đất phải đăng ký giá đất khi thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Quy định việc theo dõi, cập nhật thông tin giá đất thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất thị trường phục vụ việc định giá đất và thẩm định giá đất. - Quy định cụ thể việc điều tiết trực tiếp giá trị tăng thêm từ đất mà không do người sử dụng đất đầu tư như đối với các trường hợp người dân bị thu hồi một phần diện tích đất, phần còn lại được tiếp tục sử dụng và tăng mức thuế sử dụng đất đối với các hộ gia đình được hưởng lợi rất lớn khi nhà của họ được ra mặt đường khi Nhà nước thu hồi để làm công trình giao thông. Việc quy định điều tiết giá trị tăng thêm từ đất sẽ tạo nên sự công bằng hơn giữa những người sử dụng đất, làm tăng thỏa mãn của người có đất bị thu hồi. - Cải cách thủ tục hành chính trong việc thực hiện BT, HT khi Nhà nước thu hồi đất, rút ngắn thời gian chi trả tiền BT, HT, đặc biệt đối với các dự án có nhiều người
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 305 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 267 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn