intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Sử học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ tài nguyên nước từ năm 2001 đến năm 2010

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

40
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ tài nguyên nước từ năm 2001 đến năm 2010; trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Sử học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ tài nguyên nước từ năm 2001 đến năm 2010

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh   đạo bảo vệ tài nguyên nước từ  năm 2001 đến năm 2010” làm luận  án tiến sĩ vì những lý do sau: Thứ nhất, xuất phát từ vai trò quan trọng của nước và việc bảo   vệ tài nguyên nước trong quá trình phát triển. Nước là tài nguyên đặc  biệt quan trọng, là yếu tố cần thiết cho sự sống của con người và   muôn loài, đồng thời là tư liệu sản xuất không thể thay thế đối với   nhiều ngành kinh tế quốc dân và là một thành phần cơ bản tạo nên  môi trường sống. Song, nước là nguồn tài nguyên có hạn và dễ  bị  tổn thương. Ngày nay, cùng với những thành tựu đạt được trong   quá trình phát triển của xã hội loài người thì nhân loại đang phải   đối mặt với vấn đề  thiếu nước, suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm   nguồn nước. Bởi vậy, BVTNN đã trở thành vấn đề  chung của toàn   nhân loại, là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của mỗi quốc gia   trong quá trình phát triển, là lĩnh vực ưu tiên cần hợp tác giải quyết  trên cấp độ toàn cầu.  Thứ  hai, xuất phát từ  yêu cầu, nhiệm vụ  bảo vệ  tài nguyên   nước  ở  Việt Nam. Trong quá trình phát triển KT­XH, một mặt,   ngày càng đòi hỏi khai thác và sử dụng nước nhiều hơn TNN; mặt   khác, đổ  vào các nguồn nước một lượng chất thải ngày càng lớn.   Trong 10 năm đầu của thế  kỷ XXI, KT­XH nước ta có sự  chuyển  biến mạnh mẽ với việc mở mang các đô thị mới và phát triển công  nghiệp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên những  tác động tiêu cực đến TNN. Cùng với đó, toàn cầu hóa và BĐKH  đã và đang tác động trực tiếp, gây  ảnh hưởng nghiêm trọng đến  TNN Việt Nam. Sự  suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước và  nguy cơ  thiếu nước trở  thành những vấn đề  cấp bách, mang tính  thời sự. Bên cạnh đó, giải quyết các vấn đề về TNN còn mang tính  chính trị, có liên quan chặt chẽ  đến vấn đề  chủ  quyền, an ninh   quốc gia. Thứ  ba, xuất phát từ  thực tiễn sự  lãnh đạo, quản lý của   Đảng, Nhà nước đối với lĩnh vực TNN. Trước những thách thức to  lớn   về   TNN,   Đảng   và   Nhà   nước   đã   có   nhận   thức   và   các   chủ  trương,   chính   sách   ngày   càng   đầy   đủ   để   giải   quyết   vấn   đề  BVTNN, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tiễn đặt ra, phải  có những nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu về Đảng lãnh   đạo BVTNN. Hơn nữa, cho đến nay, chưa có một công trình nào 
  2. 2 nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học để  làm rõ sự  lãnh đạo  của Đảng về BVTNN. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  2.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ  sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về  BVTNN từ  năm 2001 đến năm 2010; trên cơ  sở  đó rút ra một số  kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào thực tiễn BVTNN ở  Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận  án; Luận giải những yếu tố tác động đến BVTNN  ở  Việt Nam   trong những năm 2001 ­ 2010; Phân   tích   làm   rõ   chủ   trương,   chính   sách   của   Đảng   về  BVTNN và quá trình chỉ  đạo thực hiện BVTNN từ  năm 2001 đến   năm 2010 qua hai giai đoạn 2001 ­ 2005 và 2006 ­ 2010; Nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế; làm rõ nguyên nhân  hạn chế  trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với BVTNN từ  năm 2001 đến năm 2010; Đúc kết một số  kinh nghiệm từ  sự  lãnh đạo của  Đảng về  BVTNN trong những năm 2001 ­ 2010 để vận dụng vào hiện thực. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu  3.1. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với  BVTNN.  3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Nghiên cứu làm rõ những yếu tố tác động đến  BVTNN; sự  lãnh đạo của Đảng về  BVTNN trên hai phương diện  hoạch định chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện; kết quả việc thực  hiện chỉ đạo của Đảng; nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng và đúc   kết những kinh nghiệm lịch sử. Về thời gian: Giới hạn trong 10 năm (2001 ­ 2010). Tuy nhiên, để  bảo đảm tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề  cập đến một số vấn đề liên quan đến khoảng thời gian trước và sau 10   năm trên. Về không gian: Ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
  3. 3 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.  4.2. Cơ sở thực tiễn Luận án được thực hiện trên cơ sở thực tiễn những hoạt động  BVTNN dưới sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ  năm  2001 đến năm 2010; dựa trên kết quả  nghiên cứu từ các công trình  khoa học đã công bố có liên quan đến BVTNN  ở  Việt Nam và trên  thế giới. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử,  phương pháp lôgic và sự  kết hợp của hai phương pháp đó; đồng  thời, còn sử  dụng một số  phương pháp khác như: Phân tích, tổng  hợp, thống kê, so sánh … Các phương pháp được sử dụng phù hợp   với yêu cầu của từng nội dung luận án. 5. Những đóng góp mới của luận án Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản  Việt Nam về BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010; Đưa ra những nhận xét, đánh giá tương đối khách quan về sự  lãnh đạo của Đảng đối với BVTNN trong những năm 2001 ­ 2010; Đúc kết một số kinh nghiệm từ quá trình hoạt động lãnh đạo  của Đảng về BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài luận án Luận án được nghiên cứu thành công bước đầu làm sáng tỏ  những vấn đề lý luận và thực tiễn về BVTNN; góp phần tổng kết  sự  lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực bảo vệ TN, MT nói chung   và BVTNN nói riêng. Những kinh nghiệm được đúc kết trong luận án có giá trị tham  khảo, vận dụng vào thực tiễn BVTNN cũng như bảo vệ TN, MT nói  chung hiện nay. Kết quả  nghiên cứu của luận án có thể  dùng làm tài liệu   tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập Lịch sử  Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng  sản Việt Nam và các môn học có liên quan đến lĩnh vực TN, MT  trong các trường cao đẳng, đại học, học viện. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của  tác giả  đã công bố  có liên quan đến đề  tài luận án, danh mục tài 
  4. 4 liệu tham khảo và phụ  lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương,   10 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Các công trình của tác giả nước ngoài nghiên cứu có   liên quan đến đề tài luận án Nghiên cứu về lĩnh vực TNN đã có nhiều công trình của các   tác giả nước ngoài đã công bố, trong đó có thể kể đến một số công  trình dưới đây: Công trình  nghiên cứu  của nhóm  tác giả  Alcamo,  J.,  Thomas  Henrichs, Thomas Rösch (2000), World Water in 2025 ­ Global modelling   scenarios for the World Commission on Water for the 21st Century (tạm  dịch: Nước thế giới năm 2025 ­ Các viễn cảnh mô hình toàn cầu cho Ủy   ban Thế  giới về  Nước cho thế  kỷ  21).  Nhóm tác giả  Alcamo, J., M.  Florke and M. Marker (2007), với bài viết “Future long­term changes in   global water resources driven by socio­economic and climatic changes”  (tạm dịch: “Những thay đổi lâu dài trong tương lai về nguồn tài nguyên   nước toàn cầu do những thay đổi về  kinh tế ­ xã hội và khí hậu thay   đổi”). Tác giả Odeh Al Jayyousi (2007) với bài viết “Water as a Human   Right: Towards Civil Society Globalization” (tạm dịch: “Nước như một   Quyền con người: Hướng tới Toàn cầu hoá Xã hội Dân sự”). Tác giả  Varis, O. (2007), có bài “Water demands for bioenergy production” (tạm  dịch: “Nhu cầu nước cho sản xuất năng lượng sinh học”. Tác giả Robyn   Johnston, Matti Kummu (2012), với bài viết “Water Resource Models in  the Mekong Basin: A Review” (tạm dịch: “Các mô hình tài nguyên nước ở  lưu vực Mê Kông: Đánh giá”). Nhóm tác giả  Timo A Räsänen, Jorma   Koponen, Hannu Lauri, Matti Kummu (2012) với bài viết “Downstream   Hydrological Impacts of Hydropower Development in the Upper Mekong  Basin” (tạm dịch: “Các tác động của việc phát triển thủy điện ở thượng   lưu sông Mê Kông vào thủy văn khu vực hạ lưu”). Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế  giới về TNN đã được công bố nhằm cung cấp những luận cứ khoa  học quan trọng để  giải quyết “bài toán” về  vấn đề  ô nhiễm, suy  
  5. 5 giảm,  cạn kiệt  nguồn TNN toàn cầu.  Đồng thời,  đưa ra những   cảnh báo về  nguy cơ ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước trên thế  giới   và kêu gọi sự  chung tay, hợp tác của tất cả  các quốc gia trên thế  giới để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy giảm, cạn kiệt TNN toàn cầu. 1.1.2. Các công trình của tác giả trong nước nghiên cứu có   liên quan đến đề tài luận án * Nhóm công trình nghiên cứu về  bảo vệ  tài nguyên, môi   trường và phát triển bền vững Trong những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu cơ  bản, nghiên cứu  ứng dụng cung cấp những luận cứ  khoa học về  TN, MT, bảo vệ TN, MT và PTBV đã được công bố, có thể kể đến   như: Lưu Đức Hải và Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường   cho sự phát triển bền vững. Lê Huy Bá cùng nhóm cộng sự  (2002),  Tài nguyên Môi trường và Phát triển bền vững . Nguyễn Ngọc Dung  (2008),  Quản   lý   tài   nguyên   và   môi   trường.   Trương   Quang   Học  (2012), Việt Nam: Thiên nhiên, Môi trường và Phát triển bền vững .  Ngô Thắng Lợi, Vũ Thành Hưởng (2015),  Phát triển bền vững  ở   Việt Nam trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế   và biến đổi khí hậu.  Luận án tiến sĩ  của tác giả  Nguyễn Như  An   (2012), Phát triển năng lực giáo dục bảo vệ môi trường cho sinh viên   sư phạm ngành giáo dục tiểu học. Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thị  Thanh Hà (2012),  Vai trò của Nhà nước đối với việc bảo vệ  môi   trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,   nông thôn ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn  Thị  Khương (2014),  Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa   tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện   nay. Nguyễn Thị Ngọc (2007), “Quản lý nhà nước về môi trường ở  Nhật   Bản   và   những   gợi   ý   cho   Việt   Nam”.   Trương   Thu   Trang   (2009), “Pháp luật bảo vệ môi trường: Kinh nghiệm một số nước   châu Á và bài học đối với Việt Nam”.   Nguyễn Mậu Dũng (2011),  “Kinh nghiệm quản lý ô nhiễm môi trường trong phát triển sản xuất   công nghiệp của Nhật Bản”. Trần Thị Duyên (2014), “Các giải pháp  chính sách của Đài Loan đối với các vấn đề môi trường”. Lê Quốc  Lý (2014), “Tiêu chí và giải pháp cơ  bản phát triển bền vững  ở  nước ta”. * Nhóm công trình nghiên cứu về bảo vệ tài nguyên nước
  6. 6 Nhận thức đúng về  vai trò và tầm quan trọng của TNN đối  với sự  sống cùng với quá trình phát triển, trong những năm gần   đây, các nhà khoa học Việt Nam đã dành nhiều thời gian, tâm sức  để  nghiên cứu về  lĩnh vực TNN, với nhiều công trình được công   bố, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ, sử dụng TNN ở  Việt Nam. Trịnh Xuân Lai (2004), Xử lý nước cấp cho sinh hoạt và công   nghiệp. Nguyễn Thanh Sơn (2005), Đánh giá tài nguyên nước Việt   Nam. Trần Đức Hạ và nhóm cộng sự (2009), Bảo vệ và quản lý tài   nguyên nước. Ngô Trọng Thuận và Vũ Văn Tuấn (2009), Nước và   con   người.  Trần   Thanh   Xuân,   Trần   Thục,   Hoàng   Minh   Tuyển   (2011), Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước Việt   Nam. Trần Hồng Thái (chủ biên) (2014), Ảnh hưởng của biến đổi   khí hậu đến tài nguyên nước và ngập lụt vùng Đồng bằng Sông   Cửu   Long.  Trần   Thanh   Xuân   (2016),  Mạng   lưới   và   tài   nguyên   nước sông Việt Nam ­ Những biến đổi và thách thức. Nguyễn Hà  Anh (2015), Bảo vệ, sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước. Luận án tiến  sĩ của tác giả  Phạm Thị  Tố Oanh (2009),  Xác lập cơ sở khoa học   về tài nguyên và môi trường nước phục vụ định hướng phát triển   bền vững một số làng nghề  tỉnh Bắc Ninh. Luận án tiến sĩ của tác  giả  Nguyễn Hoàng Sơn (2010), Nghiên cứu, đánh giá tổng hợp tài   nguyên nước phục vụ  phát triển bền vững lưu vực sông Hương.  Mai Văn Tùng (2009), “Nguồn tài nguyên nước trong tri thức người  Mường”. Lê Duy Thắng và Trần Thị Kim Dung (2016), “Bất ổn về  an ninh nguồn nước sông Mê Kông và tác động của nó đối với khu   vực”. 1.2. Khái quát kết quả  nghiên cứu của các công trình khoa  học đã công bố  và những vấn đề  đặt ra luận án tiếp tục giải   quyết 1.2.1. Khái quát kết quả  chủ  yếu của các công trình đã   công bố liên quan đến đề tài luận án Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực TN, MT rất   phong   phú   và   đa   dạng,   được   tiếp   cận   và   nghiên   cứu   từ   nhiều  phương diện khác nhau nhằm tìm ra hướng giải quyết góp phần 
  7. 7 nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo vệ TN, MT cũng như  BVTNN   trong quá trình phát triển đất nước.  Thứ   hai,   các   công   trình   đã   trình   bày   trong   tổng   quan   đều  thống nhất khẳng định vai trò, vị  trí, tầm quan trọng của việc bảo   vệ TN, MT, đặc biệt là BVTNN đối với sự phát triển KT ­ XH.  Thứ ba, một số công trình khoa học nói trên đã nghiên cứu những  vấn đề có ý nghĩa cơ sở lý luận và thực tiễn của lĩnh vực TN, MT và  PTBV như: Vấn đề về ô nhiễm môi trường, suy kiệt tài nguyên thiên  nhiên và sự   ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con   người; sự phát triển kinh tế và những vấn đề  đặt ra đối với lĩnh vực   TN, MT, lĩnh vực TNN; mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và  trách nhiệm của con người đối với việc BVMT và bảo vệ tài nguyên  thiên   nhiên,   BVTNN;   những   giải   pháp   chủ   yếu   trong   BVMT   và  BVTNN.  Thứ  tư, nhiều công trình khoa học nói trên đã nghiên cứu   những vấn đề  có ý nghĩa cơ  sở  lý luận và thực tiễn của công tác   quản lý, bảo vệ, phát triển nguồn nước và sử dụng tiết kiệm, hiệu  quả  TNN như: Vấn đề  về  ô nhiễm nguồn nước và sự   ảnh của ô  nhiễm nguồn nước đến sức khỏe con người; sự phát triển kinh tế  và những vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý và BVTNN; sự tác   động của con người đến TNN và trách nhiệm của con người đối   với việc bảo vệ  nguồn tài nguyên quý giá này; vấn đề  bảo vệ  và  sử  dụng nguồn TNN như thế  nào cho hiệu quả và bền vững; vấn   đề  sử  dụng tiết kiệm TNN và tái sử  dụng nguồn nước thải ­ Con   người trong quá trình này là các cộng đồng cư  dân, các Chính phủ,   từng quốc gia và khu vực, toàn cầu và các cơ quan quản lý với các   chính sách và thiết chế cần thiết.  Thứ  năm, một số  công trình đã dành một phần nhỏ  đề  cập  đến chỉ thị, nghị quyết của Đảng về  BVMT, song do giới hạn bởi   phạm vi và mục đích nghiên cứu của các công trình mà các tác giả  chưa đi vào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống để phân tích, luận  giải quan điểm, chủ trương của Đảng về BVMT ở Việt Nam, nhất   là BVTNN.  Qua khảo cứu các công trình đã công bố liên quan đề tài luận án  cho thấy, mặc dù chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp, hệ thống 
  8. 8 và chuyên sâu dưới góc độ  khoa học lịch sử  Đảng về  đề  tài “Đảng  Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ tài nguyên nước từ năm 2001 đến  năm 2010”, nhưng các kết quả nghiên cứu nêu trên là những tài liệu, tư  liệu tham khảo bổ  ích cho nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện  luận án tiến sĩ.  1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết  Một là, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ  thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với BVTNN.  Hai là, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, đánh giá,  nhận xét về  sự  lãnh đạo của Đảng về  BVTNN và rút ra những  kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn.  Ba là, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào mang   tính toàn diện, sâu sắc, hệ  thống về   Đảng Cộng sản Việt Nam   lãnh đạo BVTNN cho một giai đoạn nhất định, đặc biệt là những  năm đầu của thế  kỷ  XXI. Do đó, đây vẫn là “khoảng trống” để tác  giả luận án đi sâu nghiên cứu và làm rõ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh   đạo bảo vệ  tài nguyên nước từ  năm 2001 đến năm 2010   mà không  trùng lắp với các công trình đã công bố. Vì vậy, luận án  tập trung nghiên cứu những nội dung chủ  yếu: 1) Nghiên cứu những yếu tố  tác động đến BVTNN (2001 ­   2010);  2) Nghiên cứu quá trình nhận thức, hoạch định chủ  trương và  chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về BVTNN   (2001 ­ 2010); 3) Đánh giá, nhận xét ưu điểm, hạn chế Đảng Cộng   sản Việt Nam lãnh đạo BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010, chỉ rõ  nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó và rút ra một số kinh   nghiệm có thể vận dụng vào hiện thực. Qua đó, góp phần tổng kết   hoạt động lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực bảo vệ TN, MT, trong  đó có BVTNN.  Kết luận chương 1 Luận án đã tổng quan có chọn lọc các công trình nghiên cứu   của các chuyên gia trong lĩnh vực TN, MT, đặc biệt là TNN trên  thế  giới và Việt Nam.Trên cơ  sở  phân tích nội dung của các công  trình đã được công bố, tác giả  đã làm rõ kết quả  chủ yếu của các  
  9. 9 công trình đó, đồng thời chỉ  ra những  vấn đề  cơ  bản mà luận án  phải giải quyết, cụ  thể  là: Cần làm rõ những yếu tố tác động đến  BVTNN (2001 ­ 2010);   làm rõ quá trình nhận thức, hoạch định chủ  trương và chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về  BVTNN (2001 ­ 2010); đánh giá, nhận xét  ưu điểm, hạn chế  Đảng  Cộng sản Việt Nam lãnh đạo BVTNN từ năm 2001 đến năm 2010,  chỉ  rõ nguyên nhân của những  ưu điểm, hạn chế  đó và rút ra một   số kinh nghiệm có thể vận dụng vào giai đoạn mới để BVTNN đạt  hiệu quả hơn.  Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ  BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC (2001 ­ 2005) 2.1. Những yếu tố tác động đến bảo vệ tài nguyên nước 2.1.1. Vị trí, vai trò của nước và đặc điểm tài nguyên nước Việt   Nam * Quan niệm về “Tài nguyên nước” và “Bảo vệ tài nguyên nước” Tài nguyên nước Tài nguyên nước là tài nguyên thiên nhiên, bao gồm tất cả   các nguồn nước mặt, nước dưới   đất,  nước  mưa và nước  biển   thuộc lãnh thổ  của nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam,   được sử  dụng vào những mục đích khác nhau cho phát triển KT ­   XH, bảo đảm cho sự sống và các hoạt động sinh hoạt khác của con   người.  Tuy TNN thuộc loại tài nguyên có khả  năng tái tạo nhưng   không phải là nguồn tài nguyên vô hạn, thậm chí nếu con người   không   hành   xử   đúng   với   TNN   thì   nó   sẽ   chuyển   hóa   thành   tài   nguyên không có khả  năng tái tạo, dần suy thoái và cạn kiệt, đe   dọa đến sự  sống của mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có con  người. Bảo vệ tài nguyên nước Bảo vệ tài nguyên nước là các công việc, các hoạt động, các   biện pháp phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; giữ  cho   TNN bảo đảm an toàn, trong sạch; phòng ngừa hạn chế  các tác   động xấu đối với TNN,  ứng phó sự  cố  môi trường,  ứng phó với  
  10. 10 BĐKH tác động đến TNN; khắc phục ô nhiễm, suy thoái nguồn   nước, đồng thời, phục hồi và cải thiện TNN; khai thác, sử  dụng   hợp lý và tiết kiệm TNN; bảo vệ khả năng phát triển TNN. Như vậy, BVTNN không phải là giữ nguyên không khai thác  mà trái lại, mọi công việc, mọi hoạt động BVTNN phải hướng vào   việc bảo vệ  các nguồn nước không bị  ô nhiễm, khai thác và sử  dụng hợp lý, hiệu quả  các nguồn nước nhằm tạo điều kiện cần  thiết cho phục hồi, tái tạo TNN, đáp  ứng nhu cầu phát triển KT ­   XH. Do đó, BVTNN một mặt, phải tìm ra những hướng phát triển  KT ­ XH phù hợp, không gây những tác động xấu đến TNN; mặt   khác, phải tìm cách ngăn chặn những hậu quả  xấu mà quá trình   phát triển KT ­ XH gây ra cho TNN. * Vị trí, vai trò của nước  Nước là nguồn gốc của sự sống.  Nước bảo đảm cho sự phát triển KT ­ XH, cho sự phát triển   bền vững.  Nước phục vụ cho sinh hoạt, sức khoẻ và vệ sinh.  Nước có vai trò to lớn trong BVMT.  Có thể  nói, nước đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự  sống cũng như phát triển KT ­ XH. Nếu thiếu nước, khí hậu sẽ thay   đổi, cuộc sống của con người cũng thay đổi theo hướng khó khăn  hơn. Việc quản lý, bảo vệ và sử dụng nước không hợp lý sẽ gây ra   những thiệt hại to lớn về kinh tế và hủy hoại môi trường sống của  con người. * Đặc điểm tài nguyên nước Việt Nam Việt Nam là một quốc gia thiếu nước.  Sự phân bố TNN không đồng đều trên toàn lãnh thổ theo không   gian và thời gian.  Tài nguyên nước ở Việt Nam ẩn chứa nhiều yếu tố không bền   vững.  Việt Nam có nhiều thiên tai gắn liền với nước.  2.1.2. Thực trạng bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam trước   năm 2001 Từ năm 1986, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề bảo  vệ TNN cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Nhận thức và chủ  trương của Đảng về bảo vệ TN, MT từng bước được hình thành, vấn 
  11. 11 đề BVTNN cũng được nhìn nhận chung trong lĩnh vực TN, MT. Điều  đó được thể hiện trong Chỉ thị số 36­CT/TW về “Tăng cường công tác  bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất   nước” của Bộ Chính trị ban hành tháng 6­1998.  Thực  hiện  chủ   trương   của  Đảng,  Nhà   nước   đã   ban  hành  chính  sách,   pháp  luật   về   BVMT,   BVTNN.   Tháng  6/1991,   Chính  phủ  đã thông qua Kế hoạch Quốc gia về môi trường và phát triển   bền vững 1991 ­ 2000. Tiếp đó, các văn bản pháp luật về BVMT,   BVTNN đã được ban hành như  Luật Bảo vệ  môi trường  (1993);  Luật Tài nguyên nước (1998). Đây là cơ sở pháp lý để tiếp tục xây   dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách nhằm thực thi hiệu   quả công tác quản lý, BVTNN của quốc gia. Mặc dù, BVTNN đã được đề  cập đến trong Nghị  quyết của   Đảng, Quốc hội đã ban hành Luật Tài nguyên nước (1998), nhưng trên  thực tế các công việc, các hoạt động để phòng, chống suy thoái, cạn  kiệt nguồn nước, bảo đảm an toàn nguồn nước còn mờ nhạt, chưa có   sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cùng những hoạt   động cụ  thể, tích cực để  phòng, chống cạn kiệt và ô nhiễm nguồn  nước. Chưa có hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về TNN từ trung   ương đến cơ sở (xã, phường), việc quản lý về TNN còn chồng chéo  giữa các Bộ, ngành nên chưa có những giải pháp mang tính đồng bộ  và những hoạt động cụ thể nhằm ngăn chặn những tác động xấu đến  TNN cũng như khắc phục triệt để sự cố môi trường nước; thiếu chế  tài để quản lý khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm TNN cũng như  bảo vệ khả năng phát triển TNN. Đó cũng là những hạn chế của việc  BVTNN trước năm 2001. 2.2. Chủ trương của Đảng về bảo vệ tài nguyên nước  Nhận thức đúng đắn về  những vấn đề  nghiêm trọng đặt ra  và để tiếp tục lãnh đạo phát triển KT ­ XH của đất nước trong thế  kỷ mới theo hướng bền vững, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  IX của Đảng (4/2001) đã đặt vấn đề  bảo vệ  TN, MT trong quá   trình phát triển KT ­ XH. Muốn phát triển KT ­ XH theo hướng bền  vững phải gắn kết chặt chẽ  với nhiệm vụ bảo vệ TN, MT; m ục   tiêu phát triển KT ­ XH phải được xác định trong mối quan hệ chặt  chẽ với mục tiêu bảo vệ TN, MT. Đó cũng là xu thế chung mà các  quốc gia trên thế giới đã lựa chọn và thực hiện. Theo đó, với vai trò là “cốt lõi” của sự  PTBV, BVTNN phải  được đặc biệt coi trọng. Mọi hoạt động sản xuất phát triển kinh tế 
  12. 12 đều có mối quan hệ  biện chứng với TNN. Các ngành kinh tế  công  nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải thủy, dịch vụ...  đều cần  nguồn nước để thực hiện các hoạt động sản xuất. Nhưng cũng chính  quá trình hoạt động sản xuất ấy lại có những tác động tiêu cực trở lại   TNN, gây ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước. Bởi vậy, trong mỗi quy   hoạch, dự án phát triển kinh tế vùng, phát triển các ngành kinh tế, phát  triển các khu đô thị đều phải đặc biệt chú trọng việc bảo vệ và phát  triển TNN. Đây phải được coi là một tiêu chí quan trọng đặc biệt khi   phê duyệt các kế hoạch, dự án phát triển KT ­ XH cho sự PTBV. Trên cơ sở đó, nhiệm vụ BVTNN cũng được xác định cụ  thể  trong định hướng bảo vệ và cải thiện môi trường như: Kiểm soát ô  nhiễm và ứng cứu sự cố môi trường do thiên tai lũ lụt gây ra; có kế  hoạch cải tạo, khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường trên các dòng  sông, hồ  ao, kênh mương. Đồng thời, các giải pháp về  BVTNN   cũng   được   xác   định:  Tăng  cường   đầu   tư   ngăn   ngừa   sự   cố   môi  trường, xử  lý nước thải; tăng cường khả  năng dự  báo sự  cố  thiên  nhiên, thời tiết, bão lụt... giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra;   hình thành khung pháp luật BVTNN và huy động sự  tham gia của   cộng đồng trong việc BVTNN. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2001), BVTNN  tiếp tục được đề  cập đến trong một số Nghị  quyết trong nhiệm kỳ  đặc biệt là Nghị quyết số 41. Đảng đã nhận thức rõ hơn, cụ thể hơn   về tầm quan trọng của việc BVTNN; bước đầu hình thành những chủ  trương cơ  bản để  giải quyết yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với việc   BVTNN quốc gia.  Nhìn tổng quát, quan điểm và chủ trương của Đảng về BVTNN   giai đoạn 2001 ­ 2005 được thể hiện qua những nội dung cơ bản sau: Thứ   nhất,   Đảng   đã   nhận   thức   được   sự   cần   thiết   phải  BVTNN trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH để  phát triển đất  nước theo hướng bền vững. Quan điểm và chủ  trương của Đảng   về  BVTNN được đặt trong tổng thể  chung của lĩnh vực bảo vệ  TN, MT.  Thứ hai, việc BVTNN là trách nhiệm chung của cả hệ thống   chính trị và của toàn xã hội. Thứ  ba, BVTNN là bảo vệ  chất lượng các nguồn nước, là   bảo đảm cho việc khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả TNN và bảo   đảm khả năng phát triển TNN của đất nước. Thứ  tư, BVTNN cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ  chủ  yếu như: Tăng cường kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; giải quyết cơ 
  13. 13 bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong các khu dân cư; chấm   dứt tình trạng xả thải ra các nguồn nước chưa qua xử lý bảo đảm   tiêu chuẩn chất lượng môi trường và tình trạng khai thác, sử dụng  bừa bãi gây cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước ngầm; chủ   động tổ  chức điều tra cơ  bản để  sớm có đánh giá toàn diện và cụ  thể  về  TNN Việt Nam làm cơ sở cho việc quy hoạch quản lý TNN. Thứ  năm,để  BVTNN đạt hiệu quả  cần tuyên truyền về  sự  cần thiết phải BVTNN, nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội trong  BVTNN; xây dựng và củng cố hệ thống cơ quan quản lý nhà nước  cho lĩnh vực TNN, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật  về TNN;  chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực TNN  có  năng lực và đạo đức, đáp  ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra; phát triển   nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TNN. 2.3. Đảng chỉ đạo bảo vệ tài nguyên nước  2.3.1. Chỉ  đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao   nhận thức và trách nhiệm bảo vệ  tài nguyên nước cho toàn xã   hội Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và Chỉnh phủ, Kết quả công  tác tuyên truyền, giáo dục về BVTNN bước đầu đã được triển khai.   Ngày Môi trường Thế  giới (5/6),  Ngày Nước thế  giới (22/3) hằng  năm, Việt Nam đều tổ chức các hoạt động để  kêu gọi sự  quan tâm  của cộng đồng về tầm quan trọng của môi trường tự nhiên, của TNN   đối với cuộc sống, tuyên truyền vận động để  nâng cao ý thức, trách  nhiệm của các tổ chức, cá nhân và cộng đồng về BVMT, bảo vệ, sử  dụng hiệu quả và quản lý bền vững TNN, đặc biệt là các nguồn nước  ngọt phục vụ trực tiếp cho cuộc sống và các hoạt động sản xuất.  Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức  về BVTNN còn hạn chế. Do BVTNN chưa được tách biệt thành một  lĩnh vực riêng có tầm quan trọng đặc biệt mà vẫn lồng ghép trong   tuyên truyền, giáo dục chung về  bảo vệ  TN, MT nên trong cán bộ,  đảng viên, thậm chí cả những cán bộ làm công tác quản lý chưa nhận   thức đúng về  tầm quan trọng của việc BVTNN trong quá trình phát  triển KT ­ XH, coi nhẹ BVTNN khi xây dựng kế hoạch và thực hiện  nhiệm vụ  phát triển KT ­ XH; nhận thức của xã hội về  tầm quan   trọng của việc BVTNN còn nhiều hạn chế; còn thiếu các chương   trình giáo dục cộng đồng về sử dụng hợp lý, tiết kiệm và BVTNN;   chưa   có   chương   trình   thống   nhất   về   giáo   dục   BVMT   cũng   như 
  14. 14 BVTNN cho các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì   vậy, cấp  ủy và chính quyền nhiều nơi chưa thấy hết được vai trò,  trách nhiệm, chưa lãnh đạo thường xuyên, đầy đủ  và toàn diện đối  với BVTNN. Người dân chưa có ý thức BVTNN nên hành vi xả thải   gây ô nhiễm nguồn nước và khai thác trái phép nguồn nước vẫn diễn  ra phổ biến. 2.3.2. Chỉ  đạo xây dựng hệ  thống tổ  chức quản lý nhà   nước và hệ   thống văn bản,  pháp luật  về  bảo  vệ  tài  nguyên   nước Thực hiện  chủ   trương  của  Đảng,   kết quả  xây dựng, hoàn  thiện hệ thống cơ quan quan lý nhà nước và văn bản quy phạm pháp   luật về  TNN đạt được những kết quả  nhất định. Trong những năm  2001 ­ 2005, Nhà nước đã nỗ lực chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện   thiết lập và kiện toàn hệ thống các cơ quan chức năng để quản lý TN,  MT, trong đó có bộ phận thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong  lĩnh vực TNN. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về TN, MT từ trung  ương đến địa phương từng bước được kiện toàn và đi vào hoạt động  ổn định. Các văn bản quy phạm pháp luật về TNN đã được ban hành   đến năm 2005, bước đầu tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện chức  năng quản lý nhà nước về  TNN trên phạm vi cả  nước. Trên cơ  sở  khung thể chế, chính sách đã ban hành, một số dự án, quy hoạch hệ  thống lưu vực sông, hồ được triển khai xây dựng và thực thi. Công tác   thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình khai thác, sử  dụng và BVTNN   bước đầu cũng đã được tiến hành. Tuy nhiên, tổ  chức bộ  máy quản lý nhà nước về  TNN hoạt   động còn hạn chế, nhiều cán bộ  chưa được đào tạo đúng chuyên  môn, cấp xã, phường chưa có cán bộ  chuyên trách. Hệ  thống văn  bản quy phạm pháp luật về TNN chưa đồng bộ, việc ban hành văn  bản về  BVTNN, văn bản hướng dẫn dưới Luật vẫn còn bất cập,   thực hiện chưa hiệu quả. Công tác tuyên truyền, phổ  biến pháp  luật về  TNN chưa được thực hiện thường xuyên và sâu rộng, nên  nhận thức của xã hội về  tầm quan trọng của việc BVTNN còn  nhiều hạn chế… 2.3.3. Chỉ  đạo xã hội hoá hoạt động bảo vệ  tài nguyên   nước  Các tổ  chức chính trị  ­ xã hội đã tích cực thực hiện sự  chỉ  đạo của Đảng và Chính phủ trong việc xã hội hóa bảo vệ TN, MT  
  15. 15 cũng như BVTNN. Ngay sau khi các Nghị quyết liên tịch được ban  hành, các tổ  chức, Hội đã chủ  động triển khai ký kết  ở  cấp tỉnh,   đồng thời, xây dựng các chương trình, kế  hoạch hành động đến  cấp cơ sở. Đây là cơ sở cho sự khởi đầu thực hiện xã hội hóa BVTNN. Từ  đây mở  ra các hoạt động tuyên truyền sâu rộng trong các tổ  chức  chính trị ­ xã hội, trong các Hội, cộng đồng dân cư, tạo ra sự  thống  nhất cao về nhận thức và hành động, nhanh chóng đưa các chủ trương   của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVTNN vào thực   tiễn cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế ­   xã hội ­ môi trường mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Tuy nhiên, các  hoạt động chưa phát huy hiệu quả, chưa thu hút được nhiều tổ  chức, cá nhân trong xã hội tham gia. Đặc biệt, nhận thức của cộng   đồng xã hội về TNN còn hạn chế, các hoạt động riêng cho lĩnh vực  TNN còn ít, chưa gắn kết các hoạt động kinh tế của các xí nghiệp,   doanh nghiệp, làng nghề, của các cá nhân với hoạt động BVTNN. 2.3.4.  Chỉ đạo hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác   quốc tế về tài nguyên nước * Hoạt động nghiên cứu khoa học về tài nguyên nước Các hoạt động nghiên cứu khoa học về  lĩnh vực TNN đã   được tiến hành  và  có  những đóng góp nhất  định.  Các  hội  thảo   được tổ chức, các đề tài nghiên cứu được triển khai, các đề án, dự  án được đề xuất đã thu hút các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên  cứu, thực hiện. Qua đó, các nhà khoa học, các chuyên gia đã đóng   góp ý kiến xây dựng các chính sách, luật pháp, quy chuẩn về  bảo  vệ  TNN,  nhiều điều kiến nghị  của các chuyên gia, của các nhà  khoa học đã được các cơ  quan có thẩm quyền xem xét và chấp  nhận. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực  TNN mới chỉ  dừng  ở  mức khái quát, chưa có nghiên cứu chuyên   sâu về số lượng và chất lượng nước. * Hợp tác quốc tế trong bảo vệ tài nguyên nước  Thực hiện chủ trương của Đảng, sự  triển khai thực hiện của   Chính phủ, giai đoạn 2001 ­ 2005, Việt Nam đã chủ  động, tích cực   tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về TNN. Kết quả Việt Nam   đã cam kết, tham gia các tổ chức, nghị định quốc tế về bảo vệ, phát   triển TNN. Mặc dù đã chủ động tham gia các hoạt động hợp tác quốc   tế, song việc triển khai thực hiện chưa hiệu quả, một số mục tiêu, 
  16. 16 cam kết chưa đạt; hoạt động hợp tác lĩnh vực TNN chưa đi vào chiều  sâu, chưa tranh thủ được những chuyên gia giỏi cũng như  chưa tiếp   cận những công nghệ tiến tiến để phục vụ công tác BVTNN ở Việt  Nam. Kết luận chương 2 Như vậy, giai đoạn 2001 ­ 2005, vấn đề BVTNN chưa được  đặt ra một cách tương đối độc lập mà được nhìn nhận và giải quyết  trong   quan   hệ   chung   với   bảo   vệ   TN,   MT.   Nếu   nhìn   từ   góc   độ  BVTNN thì đây là một thiếu sót, Đảng chậm nhận thức và giải quyết  vấn   đề   thực  tiễn  đặt   ra,   chưa  có   một   nghị   quyết   chuyên   đề   về  BVTNN. Trong khi đặt vấn đề bảo vệ TN, MT thì vấn đề BVTNN là  một bộ phận trong tổng thể của lĩnh vực TN, MT vì chính TN, MT nói  chung cũng liên quan trực tiếp đến TNN. Vì vậy, việc bảo vệ TN, MT  trong quá trình phát triển KT ­ XH một cách có ý thức, có kế  hoạch  cũng chính là BVTNN. Việc Đảng quan tâm đến bảo vệ TN, MT cũng  là điều rất cần thiết và quý giá đối với việc BVTNN, nó tạo điều  kiện và tiền đề để đi đến trực tiếp BVTNN. Tuy nhiên, sự  lãnh đạo của Đảng về  BVTNN chưa thật sự  được coi trọng và quan tâm đúng mức, chưa có những văn bản, nghị  quyết chuyên đề chỉ  đạo BVTNN. Thực tế đòi hỏi trong giai đoạn  tiếp theo, trước mắt là giai đoạn 2006 ­ 2010, Đảng cần phải có   các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về BVTNN; đồng thời cần có sự  chỉ đạo quyết liệt của Đảng đối với BVTNN. Chương 3 ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC  (2006 ­ 2010) 3.1. Những yếu tố mới tác động đến đẩy mạnh bảo vệ tài  nguyên nước  Một là, tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, của nền kinh tế   thị trường và quá trình CNH, HĐH đất nước đến TNN. Hai là, nhận thức và ý thức BVTNN của cán bộ  lãnh đạo,   quản lý các cấp, ngành và chính quyền địa phương còn nhiều hạn   chế.
  17. 17 Ba là, nhận thức và trách nhiệm của nhân dân về  BVTNN còn   thấp, chưa có thói quen tự giác trong bảo vệ, sử dụng tiết kiệm, hiệu   quả TNN. Bốn là, cơ  sở  hạ  tầng kỹ  thuật, tiềm lực khoa học ­ công   nghệ, nhân lực trong BVTNN còn hạn chế và lạc hậu. Năm là, cơ  chế, chính sách, pháp luật trong BVMT và hoạt   động khai thác TNN còn thiếu và bất cập. 3.2. Chủ trương của Đảng  về đẩy mạnh bảo vệ tài nguyên   nước Chủ  trương của Đảng về  BVTNN giai đoạn 2006 ­ 2010 là   sự  phát triển nhận thức của Đảng đối với lĩnh vực TN, MT trong   giai đoạn mới; bước đầu khắc phục những hạn chế  trong nhận   thức cũng như  hoạch định chủ  trương trước đó là chú trọng phát   triển KT ­ XH, coi nhẹ  công tác bảo vệ  TN, MT, chưa chú trọng  đến BVTNN. Đó là cơ  sở  để  phát triển thành những định hướng  lớn về  bảo vệ  TN, MT, BVTNN, vừa giải quyết  được yêu cầu  thực tiễn ở Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế của thời đại hướng   đến sự  PTBV. Đó còn được coi là sự  đổi mới trong lãnh đạo, chỉ  đạo, điều hành và đặc biệt trong tổ chức, triển khai thực hiện công  tác bảo vệ TN, MT và ứng phó với BĐKH của Đảng và Nhà nước  ta; là cơ sở để Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện chủ  trương BVTNN trong giai đoạn tiếp theo nhằm ngăn chặn và đẩy   lùi tình trạng ô nhiễm và suy kiệt TNN  ở  Việt Nam; là cơ  sở  để  Chính phủ  ban hành Chiến lược về  TNN, gắn phát triển KT ­ XH   với BVTNN. Mặc dù không có nghị  quyết riêng về  BVTNN nhưng thông  qua những chi thị, nghị quyết của Đảng giai đoạn 2006 ­ 2010, có   thể  khái quát những mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ  và giải pháp  đẩy mạnh BVTNN qua các nội dung chính sau: Thứ  nhất, mục tiêu BVTNN được gắn với mục tiêu Thiên  niên kỷ, mục tiêu phát triển KT ­ XH của đất nước theo hướng bền  vững. Các mục tiêu đó đã được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu cụ thể  được đưa vào Nghị quyết của Đại hội và được định hướng cụ thể  trong Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT ­ XH 5 năm  2006 ­ 2010. Thứ  hai, quan điểm chỉ  đạo đấy mạnh BVTNN được thể  hiện trong sự  chỉ  đạo chung cho lĩnh vực TN, MT là phải tạo sự 
  18. 18 chuyển biến mạnh mẽ  trong lĩnh vực bảo vệ  TN, MT. Theo đó,   BVTNN cũng phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ. Thứ  ba, Nhiệm vụ  và giải pháp về  BVTNN được thể  hiện   rõ ràng hơn, được chú trọng và đẩy mạnh hơn, cụ thể: 1) Tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức,  trách nhiệm của toàn xã hội về BVTNN; 2) Áp dụng các biện pháp mạnh nhằm giải quyết dứt điểm ô   nhiễm nguồn nước; 3) Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ  thiên tai do  nước gây ra; 4) Tăng đầu tư cho lĩnh vực TNN như đầu tư cơ sở vật chất  kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại, đầu tư  nâng cấp cơ sở hạ tầng thủy lợi, đầu tư xây dựng cơ sở hệ thống   cấp nước sạch, cơ sở hạ tầng cấp, thoát nước; 5) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế  về  TNN nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác và sử dụng TNN. 3.3. Đảng chỉ đạo đẩy mạnh bảo vệ tài nguyên nước 3.3.1. Chỉ  đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục   nâng   cao   nhận   thức   bảo   vệ   môi   trường,   bảo   vệ   tài   nguyên   nước cho toàn xã hội Hiện thực hóa chủ  trương của Đảng về  đẩy mạnh công tác  tuyên truyền, giáo dục BVTNN, trong những năm 2006 ­ 2010, Nhà  nước và các cơ quan chức năng, các tổ chức chính trị ­ xã hội đã có  sự  phối hợp tổ  chức thực hiện các hoạt động đẩy mạnh công tác  tuyền truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cá   nhân, tổ  chức, doanh nghiệp về  BVTNN  đạt được kết quả  nhất  định,   góp  phần   thúc  đẩy   tiến  trình   xã   hội   hóa   bảo   vệ   BVTNN.   Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Các hoạt động   truyền thông, các phong trào còn mang tính hình thức, “thời vụ”,  chưa được thực hiện thường xuyên, chưa phổ  biến sâu rộng đến  người dân và các doanh nghiệp, vì vậy, ý thức chấp hành pháp luật   trong lĩnh vực TNN còn thấp, nhận thức của xã hội về  tầm quan   trọng của việc bảo vệ, giữ gìn các nguồn nước, sử dụng nước tiết   kiệm còn hạn chế. 3.3.2. Chỉ  đạo tăng cường công tác quản lý nhà nước về   bảo vệ tài nguyên nước
  19. 19 Thực  hiện  chủ   trương   của  Đảng,   giai   đoạn  2006  ­   2010,  Chính phủ  và các cơ  quan chức năng đã tăng cường bổ  sung, hoàn  thiện và thể chế hóa các văn bản quy phạm pháp luật về BVTNN;  tăng cường hoàn thiện hệ  thống cơ  quan quản lý nhà nước  về  TNN; tăng cường công tác thanh kiểm tra, kiểm soát và điều tra,  quy hoạch TNN. Tuy   nhiên,   công   tác   quản   lý   nhà   nước   về   TNN   vẫn   còn   những hạn chế, bất cập. Chưa thống nhất trong phân công trách   nhiệm quản lý nhà nước về  TNN; các tổ chức, cơ quan chức năng  về TNN chưa phát huy được vai trò quản lý, tổ chức các hoạt động  về  quản lý, bảo vệ, khai thác, sử  dụng hiệu quả  TNN. Hệ  thống   văn bản quy phạm pháp luật về TNN còn thiếu, chưa đồng bộ, tính  khả thi của một số văn bản còn thấp, triển khai văn bản pháp luật   còn chậm. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử  lý vi phạm về  TNN  chưa thường xuyên, chưa đáp  ứng yêu cầu.   Công tác quy hoạch,  điều tra TNN còn hạn chế  gây khó khăn trong quản lý và BVTNN   quốc gia. Công tác dự  báo, khảo sát và quản lý TNN chưa tương  xứng với yêu cầu, đặc biệt là khi cơ chế thị trường và lợi nhuận tấn   công vào nguồn nước. 3.3.3.  Chỉ  đạo đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ  tài   nguyên nước và tăng cường đầu tư  cho lĩnh vực tài nguyên, môi   trường Các hoạt động tham gia giám sát của cộng đồng về  BVMT   bước đầu đã được phát huy. Nhiều gương người tốt việc tốt trong   lĩnh vực hoạt động BVMT, BVTNN đã xuất hiện. Để  động viên,   khuyến khích các tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích trong hoạt động   BVMT, trong những năm 2006 ­2010, Bộ  Tài nguyên và Môi trường   đã trao tặng “Giải thưởng Môi trường” cho các tập thể và cá nhân tiêu  biểu, xuất sắc. Nhiều mô hình tốt, nhiều gương người tốt việc tốt  trong lĩnh vực hoạt động BVMT đã xuất hiện, thật sự đúng nghĩa với  cách   tiếp   cận   xã   hội   hóa   công   tác   BVMT,   trong   đó   bao   hàm   cả  BVTNN.  Trước năm 2006, ngành TN, MT chưa được xác lập trong hệ  thống phân ngành kinh tế  quốc dân, chưa có ngân sách riêng, vì vậy,   việc theo dõi, tổng hợp thu chi ngân sách nhà nước cho toàn ngành chưa  thực hiện được. Quán triệt quan điểm “Đầu tư bảo vệ môi trường là 
  20. 20 đầu tư phát triển”, trong những năm 2006 ­ 2010, đầu tư  cho BVMT   bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Từ năm 2006, ngân sách  cho lĩnh vực TN, MT đã được bố  trí thành một nguồn riêng (chi sự  nghiệp môi trường) với qui mô không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách  nhà nước. 3.3.4. Chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học   và tăng cường mở  rộng hợp tác quốc tế  về  bảo vệ  tài nguyên   nước Thực hiện sự  chỉ  đạo của Đảng và Nhà nước, các hoạt động  nghiên cứu khoa học công nghệ trong lĩnh vực TNN trong những năm  2006 ­ 2010 đã được triển khai mạnh mẽ, tập trung vào các nội dung:  Xây dựng cơ chế, chính sách và công cụ kinh tế, hệ thống quản lý trong   BVMT, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học; cung  cấp luận cứ khoa học xây dựng, quy hoạch quản lý, BVTNN; nghiên  cứu về các mô hình, công nghệ giảm thiểu, tái sử dụng nước thải và  xử lý ô nhiễm môi trường nước. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế  với các nước trong  Ủy hội sông  Mê Kông quốc tế  thuộc khuôn khổ  Hiệp định Hợp tác sông Mê   Kông (1995);  tham gia nhóm các nước tiểu vùng sông Mê Kông,  tích cực xây dựng các chương trình, kế  hoạch nhằm quản lý và  bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Mê Kông. Việt Nam đã chủ động  đề xuất việc hợp tác đối với lưu vực sông Hồng và các con sông khác  có chung nguồn nước với các nước láng giềng, và từng bước xây  dựng các hiệp định, quy chế quản lý, khai thác và BVTNN đối với các   sông liên quốc gia.  Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cùng với Chính phủ tăng   cường hợp tác với các tổ  chức quốc tế, các tổ  chức chính phủ, phi   chính phủ nhằm tranh thủ tối đa sự  hỗ  trợ  cho lĩnh vực TNN và cử  nhiều đoàn đại biểu tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực, thế  giới về TNN.  Kết luận chương 3 Trong  những năm 2006 ­ 2010,  những yếu tố  tác động đến  lĩnh   vực   TNN   có   diễn   biến   phức   tạp   đòi   hỏi   phải   đẩy   mạnh  BVTNN. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức đúng đắn về 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2