intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

70
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án trình bày các mục tiêu: sự khởi đầu của văn học nhà Nho từ trong văn học Phật giáo - từ trường hợp Trần Nhân Tông, sự định hình của văn học nhà Nho - từ trường hợp Nguyễn Trãi, giai đoạn điển phạm của văn học nhà Nho - từ trường hợp Lê Thánh Tông. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THU HIỀN QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG TỚI SỰ ĐIỂN PHẠM HÓA  CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO Ở VIỆT NAM  TỪ TRẦN NHÂN TÔNG QUA NGUYỄN TRÃI  ĐẾN LÊ THÁNH TÔNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
  2. HÀ NỘI – 2013 Công   trình   khoa   học   được   hoàn   thành   tại:   Khoa   Văn   học,   Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Người hướng dẫn khoa học:  PGS.TS. Nguyễn Kim Sơn PGS.TS. Trần Ngọc Vương Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp ĐHQG chấm luận án tiến  sĩ họp tại………………………………………….. Vào hồi        giờ      ngày      tháng    năm Có thể tìm hiểu luận án tại:
  3. ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam ­ Trung tâm Thông tin ­ Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội  
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Văn học nhà Nho chiếm một phần rất quan trọng trong lịch sử  văn học trung đại Việt Nam. Khái niệm văn học nhà Nho­ văn chương  nhà Nho được chúng tôi sử  dụng theo nghĩa là loại hình tác phẩm văn  học được sáng tác theo khuynh hướng mỹ học Nho gia, chịu sự chi phối   của tư  tưởng Nho giáo, được coi là thứ  văn chương lý tưởng của nhà   Nho về mặt lý thuyết. Chủ thể sáng tác của văn học nhà Nho là nhà Nho   hoặc những tác giả  chịu  ảnh hưởng của Nho giáo. Định nghĩa này của   chúng tôi đã phân biệt rõ ràng hai bộ phận văn học nhà Nho và văn học   do nhà Nho sáng tác. Với quan niệm có sự  tồn tại thực tế  của một bộ  phận văn học nhà Nho như  thế  trong lịch sử  văn học trung đại Việt   Nam, chúng tôi đặt vấn đề  nghiên cứu quá trình điển phạm hóa của bộ  phận tác phẩm này, điều cho đến nay chưa được quan tâm nghiên cứu  đúng mức. Quá trình vận động từ  khi mới manh nha cuối thế  kỷ XIII cho   đến lúc trở  thành điển phạm  ở  nửa cuối thể  kỷ  XV là giai đoạn có ý   nghĩa quyết định cho diện mạo và những định hướng phát triển sau này  của nền văn học nhà Nho  ở  Việt Nam. Đây là lúc xã hội chuyển từ  đa   nguyên về  văn hóa sang độc tôn Nho giáo, văn học Việt Nam từ  trạng   thái chịu  ảnh hưởng của tam giáo đã trở  thành một nền văn học nhà   Nho. Chúng tôi cho rằng nghiên cứu quá trình vận động của văn học nhà   Nho từ lúc mới manh nha từ trong văn học Thiền đến khi trở thành điển   phạm khả  dĩ có thể  giải quyết những vấn đề  mang tính lý thuyết có ý  nghĩa nền tảng trong việc tìm hiểu nền văn học trung đại.  Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông là ba tác gia   lớn của văn học trung đại ở các giai đoạn cuối thế kỷ XIII, nửa đầu và  nửa cuối thế kỷ XV có ý nghĩa như những dấu mốc trong quá trình phát   triển của văn học nhà Nho ở Việt Nam. 
  5. Chính vì những lý do kể  trên mà chúng tôi lựa chọn đề  tài  Quá   trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở  Việt Nam   từ  Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông   cho luận án  của mình nhằm giả  quyết một số  vấn đề  mang tính lý thuyết của lịch   sử văn học giai đoạn này.   2. Lịch sử vấn đề 2.1. Luận án đã điểm lại các công trình cơ  bản, đặc biệt là các   bộ  văn học sử  từ đầu thế  kỷ  XX đến năm 1986 và rút ra các kết luận   sau: Nếu không kể đến những quan niệm, nhận định, đánh giá và những   công trình sưu tầm, ghi chép của “những người trong cuộc” từ  thế  kỷ  XIX trở  lại thì văn học nhà Nho đã được nghiên cứu từ  rất sớm. Các  công trình văn học sử  quan trọng giai đoạn trước năm 1945 như  Việt   Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm và ở miền Nam giai đoạn   1945­1975 như  Việt Nam văn học sử  giản  ước tân biên của Phạm Thế  Ngũ và Bảng lược đồ văn học của Thanh Lãng đã khẳng định sự tồn tại  của một bộ phận văn học nhà Nho ở các mức độ khác nhau và bước đầu  đưa ra những nhận định có giá trị về đối tượng này. Những hạn chế về  mặt phương pháp luận khoa học và thế  giới quan đã khiến các tác giả  miền Bắc trong giai đoạn 1945­1975 nhận định về  Nho giáo ít nhiều  thiên kiến dẫn  đến những  né   tránh hoặc  phủ  nhận  ảnh hưởng,   đặc  trưng, kể cả những giá trị, đóng góp mà Nho giáo đem lại cho văn học. 2.2.  Kể   từ   sau  đổi  mới,   trong vòng  mấy chục  năm  gần đây,   nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả Trần Đình Hượu: Nho giáo  và văn học Việt Nam trung cận đại   (1995),  Loại hình học tác giả  nhà   Nho­ Nhà Nho tài tử  và văn học Việt Nam   (1995); Trần Ngọc Vương:   Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung  (1997),  Văn học Việt   Nam thế  kỷ  X­XIX  (2007, chủ  biên) và Trần Nho Thìn:  Văn học trung   đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2003, 2008), Văn học Việt Nam từ  thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (2012)... đã đạt được những thành tựu có ý 
  6. nghĩa đặt nền móng cho việc nghiên cứu văn học nhà Nho. Nhìn chung,  các công trình này đã giải quyết được các vấn đề  cơ  bản mang tính lý  thuyết của văn học nhà Nho từ góc nhìn xã hội học­ lịch sử và văn hóa   học này. Mặc dù các tác giả  đã xây dựng được một hệ  thống lý thuyết   khá hệ  thống về  văn học nhà Nho nói chung, nhưng nhiều vấn đề  cụ  thể trong đó vẫn còn chờ được giải quyết. Luận án của chúng tôi có thể  coi là một sự tiếp tục trên cơ sở những nghiên cứu này với sự  gia tăng   của các cách tiếp cận mới về  một giai đoạn cụ  thể  của văn học nhà  Nho.  2.3. Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông không chỉ  là các tác gia văn học lớn mà họ đều là những nhân vật nổi tiếng trong   lịch sử  Việt Nam  ở  nhiều tư cách khác nhau. Xét từ  tư  cách là tác giả  văn học và từ  vấn đề  điển phạm hóa của văn học nhà Nho, chúng tôi  nhận thấy dù tình hình nghiên cứu về  các tác giả  này rất đa dạng và   phức tạp, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào  đặt vấn đề  nghiên cứu ba tác giả  Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê  Thánh Tông trong sự  vận động tới sự  điển phạm hóa của văn học nhà  Nho. Vì thế, luận án của chúng tôi có thể  coi là công trình đầu tiên tiếp   cận vấn đề văn học nhà Nho theo hướng này.   3. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 3.1.1. Điển phạm là những tác phẩm có tính chất mẫu mực của  một nền văn học, nó lưu giữ quá khứ và liên hệ  với hiện tại. Quá trình  hình thành của điển phạm phải tính từ cả hai phía, trước hết là bản thân  giá trị  thẩm mỹ  nội tại của tác phẩm, sau đó là sự   ảnh hưởng của các  yếu tố  lịch sử, thiết chế xã hội, giáo dục, kinh tế  và chính trị. Sự  hình   thành và lưu giữ điển phạm được tiến hành chủ yếu qua cách thức sau:  một tác phẩm được coi là điển phạm khi xuất hiện sự mô phỏng và sao  chép qua các thế hệ. Tuy nhiên, cũng có thể tính đến thiết chế giáo dục 
  7. chính thống là nơi hình thành hay lưu giữ điển phạm và vai trò của các   nhà phê bình. Điển phạm không phải là hiện thân cho các giá trị phi lịch   sử và tổng quát mà nó có tính lịch sử và biến đổi theo thời gian. Có thể  nói, điển phạm chính là tự sự về cách nhìn văn học của mỗi thời đại. 3.1.2. Quá  trình vận động tới điển phạm hóa của văn học nhà  Nho  ở  Việt Nam là một đề  tài khá phức tạp, trong giới hạn luận án,   chúng tôi chỉ lựa chọn một phạm vi nghiên cứu nhất định, là ba trường   hợp cụ thể: Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông. Chúng tôi  hy vọng từ  lựa chọn có tính phương pháp luận này có thể  khái quát   những vấn đề  mang tính lý thuyết cho cả  giai đoạn. Ngoài ra, nghiên   cứu vấn đề  qua ba tác giả  này, chúng tôi muốn nhấn mạnh  tính quá  trình nhiều hơn là bản thân sự điển phạm hóa. 3.1.3. Sự  điển phạm hóa của văn học nhà Nho là quá trình văn  học nhà Nho vận động phát triển tiến đến trở  thành khuôn mẫu, tiêu  chuẩn cho văn chương hậu thế noi theo. Tuy có tính đến những yếu tố  bên ngoài  tác  động  tới   văn  học,  nhưng  luận  án xác  định  đối  tượng  nghiên  cứu  chính  là  quá   trình  điển  phạm   hóa  diễn   ra  bên  trong  những văn bản tác phẩm, chính vì vậy việc đưa ra một hệ tiêu chí để  xác định đối tượng văn học nhà Nho là rất cần thiết.  ­ Thứ nhất, văn học nhà Nho được sáng tác bởi các tác giả  chịu   ảnh hưởng của Nho giáo, trong thời đại Nho giáo có vai trò nhất định   hoặc thống trị xã hội.  ­ Thứ hai, về quan niệm văn học, văn chương nhà Nho mang tính  chức năng điển hình.  ­ Thứ  ba, về  chủ  đề, đề  tài, văn chương nhà Nho hướng đến  những vấn đề của cuộc sống xã hội, những vấn đề  quan thiết với cuộc   đời của một nhà Nho, các chuyện tu, tề, trị, bình.  ­ Thứ  tư, về  các hình tượng trung tâm: Hình tượng số  một của   văn học nhà Nho là các nhà Nho hành đạo. 
  8. ­ Thứ  năm,  về  đặc trưng thẩm mỹ, cái đẹp trong văn chương  nhà Nho là cái đẹp của thế giới thực tại, của đời sống thế tục.  ­ Thứ sáu, về phương diện thi pháp. Thời gian nghệ thuật trong  văn học nhà Nho luôn hướng về  quá khứ, sử  dụng quá khứ  làm chuẩn  mực, làm thước đo cho hiện tại và tương lai. Không gian nghệ  thuật   trong văn học nhà Nho là không gian trần thế, hiện thực của cung đình,   nông thôn, sơn thủy.  ­ Thứ  bảy, về  thể  loại, văn học nhà Nho là văn chương chức  năng nên coi trọng các thể  loại mang tính chức năng xã hội như  chiếu,   biểu, cáo, hịch... Đối với văn học nhà Nho, ngay cả  các thể  loại mang  tính nghệ  thuật nhiều hơn như  thơ, phú cũng bị  chức năng hóa. Ví dụ  trong   thơ   ca,   thể   thơ   đề   vịnh   trở   thành   tiểu   loại   tiêu   biểu   của   văn  chương nhà Nho, một thể thơ mượn cớ đề vịnh các đồ vật, sự vật để ký  thác những vấn đề đạo đức.  ­ Thứ tám, các yếu tố hình thức như thi liệu, văn liệu, dụng điển  có thể thấy rõ sự xuất hiện của các yếu tố liên quan đến tư tưởng, sách   vở kinh điển Nho giáo.  Trong khuôn khổ  luận án, chúng tôi chỉ  ưu tiên lựa chọn những  tiêu chí quan trọng nhất: tác giả, quan niệm văn học và đặc trưng thẩm   mỹ, chủ đề­ đề  tài, hình tượng trung tâm, thời gian và không gian nghệ  thuật.  3.2. Mục đích nghiên cứu ­ Có thể  nhận diện được tiến trình liên tục của văn học trung  đại nói chung và văn học thế  kỷ  XII­ XV nói riêng thông qua góc độ  điển phạm hóa của văn học nhà Nho.  ­ Xem xét quá trình điển phạm hóa của văn học nhà nho ở Việt  Nam giai đoạn cuối thế  kỷ  XIII­ hết thế  kỷ  XV trên một số  phương   diện cơ  bản của tác giả  và tác phẩm văn học, chủ  yếu dựa vào chính  đối tượng văn bản tác phẩm: quan niệm văn học và đặc trưng thẩm mỹ, 
  9. chủ   đề­   đề   tài,   hình  tượng   trung  tâm,   không  gian  và   thời   gian  nghệ  thuật… ­ Nghiên cứu một số trường hợp cụ thể, một số tác giả tiêu biểu   dưới góc nhìn sự  hình thành và phát triển của văn học nhà nho  ở  Việt   Nam, nhìn họ như những mắt xích trong chuỗi vận động của lịch sử văn  học. ­ Từ  đó nhận diện các đặc trưng của văn học nhà Nho  ở  Việt  Nam trong mối tương quan với Phật, Đạo. 4. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp chủ  đạo được sử  dụng xuyên suốt luận án là  phương pháp liên ngành, phương pháp nghiên cứu loại hình và cấu trúc  loại hình, nghiên cứu trường hợp, phương pháp hệ thống.  ­ Các phương pháp và các cách tiếp cận: thông diễn học, thi   pháp học, phương pháp tiếp cận văn hóa học.  ­ Các thao tác thông thường như: phân tích, so sánh, đối chiếu,   thống kê, phân loại, mô hình hóa, khảo sát văn bản… 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ­ Phác họa được quá điển phạm hóa văn học nhà Nho  ở  Việt   Nam, đồng thời qua đó cũng có thể  nhìn nhận tiến trình văn học Việt  Nam một cách liền mạch và có hệ  thống từ góc độ  sự   ảnh hưởng của   Nho giáo tới văn học.  ­ Soi chiếu các tác giả  và nhất là tác phẩm dưới góc độ  điển   phạm hóa của văn học nhà Nho. ­ Tìm hiểu sự vận động của từng yếu tố văn học qua ba tác giả  trong quá trình điển phạm hóa của văn học nhà Nho. 6. Cấu trúc đề tài Ngoài phần phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận án  gồm 3 chương:
  10. Chương 1: Sự  khởi đầu của văn học nhà Nho từ  trong văn học   Phật giáo­ từ trường hợp Trần Nhân Tông Chương 2: Sự  định hình của văn học nhà Nho­ từ  trường hợp  Nguyễn Trãi Chương   3:   Giai   đoạn   điển   phạm   của   văn   học   nhà   Nho­   từ  trường hợp Lê Thánh Tông CHƯƠNG 1: SỰ KHỞI ĐẦU CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO TỪ  TRONG LÒNG VĂN HỌC PHẬT GIÁO­ TRƯỜNG HỢP TRẦN  NHÂN TÔNG 1.1. Thiền tông từ Huệ Năng đến Trần Nhân Tông  Luận án trình bày quá trình hình thành của Thiền tông Trung   Quốc từ  Bồ  Đề  Đạt Ma đến Lục Tổ  Huệ  Năng để  khẳng định rằng  Huệ  Năng chính là mốc chuyển biến quan trọng của Thiền, từ  “Phật   giáo ở Trung Quốc” tới chỗ có thể được gọi là “Phật giáo Trung Quốc”.  Thiền là Phật giáo thông qua tư duy tổng hợp Tam giáo của người Trung  Quốc theo khuynh hướng thực tế và nhập thế, nó khiến cho triết lý giải  thoát của Thiền trở thành một kinh nghiệm tôn giáo khả thi có khả năng  hiện thực hóa và nhập thế  mạnh mẽ. Đối với Thiền, giải thoát không  phải để đến một thế giới nào khác, mà để sống trong chính thế giới trần  tục này một cách an nhiên tự tại.  Bản thân Thiền đã là nhập thế, Thiền  ở  Việt Nam lại tiếp tục   tiến hành một lần dung hợp Nho­ Lão nữa. Luận án phân tích những đòi  hỏi của thời đại đối với việc sử dụng Nho giáo như một thứ kiến thức  cần thiết trong việc điều hành đất nước bên cạnh Phật giáo đang được  coi là quốc giáo. Ngoài ra, thân phận là hoàng đế  của Trần Nhân Tông  bắt buộc ông phải đối mặt giải quyết những vấn đề  của đời sống thế 
  11. tục, điều này khiến ông một mặt là người sáng lập Thiền phái Trúc  Lâm, mặt khác lại vẫn phải đến gần với Nho giáo.   1.2. Quan niệm ­ đặc trưng thẩm mỹ của văn học Thiền gia  và sự gặp gỡ với Nho gia. Ngay từ nguyên tắc ban đầu này, văn chương Thiền đã gặp gỡ  với văn chương Nho gia. Văn chương nhà Nho chính là thứ  văn chương   mang tính chức năng điển hình. Nếu về  phương diện chính trị, Trần  Nhân Tông là người đầu tiên mở cửa cho Nho học ùa vào triều đình thì ở  phương diện văn chương, ông cũng là một trong những người người mở  đầu cho thi ngôn chí có mặt trong thơ  ca Lý­ Trần. Văn chương của  Trần Nhân Tông có một mảng lớn là văn chương chức năng, một sự bắt  đầu của “thi ngôn chí” của Nho gia, ở đó diễn ra một sự chuyển tiếp từ  văn học Thiền có tính chức năng sang phương diện “thi ngôn chí”. Phần  thơ ngôn chí này thể hiện khá đậm ở mảng viết về chiến tranh.  Cư trần   lạc đạo phú có dáng dấp bài “Thánh huấn” của Nho gia. Nho gia đề cao  kinh nghiệm, mô thức tư duy của Nho gia là kinh nghiệm, phương pháp   tu thân của Nho gia cũng là rút kinh nghiệm. Cách thức nêu gương, ngợi  ca một mẫu hình lý tưởng chính là mô thức mà Nho gia thường làm  trong các thể loại thơ ca nói chí của mình. Có thể nói, Cư trần lạc đạo   phú tuy mang nội dung ngợi ca cái lạc đạo nơi cõi trần của một vị thiền   sư, nhưng lại phảng phấp dáng dấp của một bài thánh huấn của nhà  Nho, với cái chí để ở chỗ nhàn tâm. Tính khuynh hướng của văn học đã  bắt đầu ở chỗ đó.  Một trong những phạm trù thẩm mỹ  lớn nhất trong thơ  Trần   Nhân Tông là cái đẹp của tâm cảnh siêu việt. Nhưng trong thơ ông cũng  đã bắt đầu rõ ràng hình dáng của một cái đẹp nhân cách lý tưởng được  tu dưỡng, rèn luyện theo quan niệm của nhà Nho. Chúng tôi cho rằng,  các đặc trưng thẩm mỹ của văn chương Thiền vẫn là chủ đạo trong văn   chương Trần Nhân Tông cho dù các yếu tố  thẩm mỹ  của văn chương  
  12. nhà Nho đã bắt đầu hình thành. Hai loại đặc trưng thẩm mỹ này đan xen,  nhiều khi lẫn lộn trong tác phẩm của vị vua Thiền sư thi sĩ này đến mức   khó tách biệt.  1.3. Từ cư trần lạc đạo đến các vấn đề thế sự Tính đa dạng và tích hợp trong các sáng tác của Trần Nhân Tông  thể  hiện  ở  chỗ  các tác phẩm của ông có thể  được chia ra thành nhiều  mảng,   chia   theo   đề   tài,   chủ   đề.   Có   chủ   đề   thể   hiện   đậm   hơn   tính   khuynh hướng của văn học nhà nho như mảng về  chiến tranh vệ quốc   và thơ  đề  vịnh, nói chuyện đời thực. Mảng sâu nhất về  vấn đề  Thiền,  việc tu thiền và thuyết thiền cũng thể  hiện ở mức độ  nhất định tư duy,  ngôn từ, hình tượng... mang tinh thần Nho gia. Ở phần này, chúng tôi chỉ  đề  cập đến những đề  tài, chủ  đề  mang màu sắc Nho gia dù ít dù nhiều  trong văn chương của Trần Nhân Tông.  1.3.1. Cư trần lạc đạo Đây là chủ  đề  xuyên suốt trong tác phẩm của Trần Nhân Tông  và cũng chính là tư tưởng chi phối toàn bộ con người tác giả Trần Nhân  Tông. Nội dung cơ  bản của cư trần lạc đạo chính là chỉ  ra con đường   đạt đạo ngay trong cõi trần gian này. Con đường giải thoát của Thiền  chẳng phải bằng bất kỳ  tha lực nào bên ngoài với những sức mạnh   huyền bí thần thông quảng đại, mà là quay vào với cõi bên trong nội tại   của chính mình. Chính đây là chỗ mà Thiền gần Nho giáo nhất. Luận án  phân tích những đặc điểm của nội dung cư trần lạc đạo của Thiền và tu   thân của Nho gia để  khẳng định đây chính là cảm hứng thể hiện rõ nét   tinh thần nhập thế của Thiền Trần Nhân Tông, và cũng chính vì thế mà  dù nói chuyện Phật giáo nhưng nó vẫn thể hiện hướng gần đến với Nho   giáo trong tư tưởng của vị hoàng đế này.  1.3.2. Vấn đề dân tộc Trần Nhân Tông không viết nhiều về những vấn đề đời thường,   về  chuyện dân tộc. Sống giữa thời đại hào hùng, là người dẫn dắt đất 
  13. nước chống lại hai cuộc xâm lăng của quân Nguyên Mông, nhưng dấu  ấn của những chiến thắng huy hoàng này để  lại trong tác phẩm của   Trần Nhân Tông không nhiều và không rõ nét. Trong số vài bài thơ hiếm   hoi mang cảm hứng dân tộc của Trần Nhân Tông, chúng ta đều thấy toát  lên một tinh thần lạc quan với niềm tin vào sức mạnh của đất nước   mình. Ông nhắc đến những chuyện chiến tranh, binh lửa bằng lối tư duy   của nhà Nho. Mãi mãi không phải dùng đến giáp binh mới chính là khát  vọng thật sự của nhà Nho chứ không phải là những chiến công dù hiển  hách đến đâu nơi xa trường. Nhà Nho chủ  trương dùng đức để  cai trị  chứ không dùng binh đao.  1.3.3. Sự xuất hiện của vấn đề đạo lý­ thế sự qua thể thơ đề   vịnh Đối tượng được đề  cập trong thơ  thiên nhiên của Trần Nhân  Tông cũng không ra ngoài phạm vi tùng cúc trúc mai, ngư tiều canh mục.   Nhưng thiên nhiên  ấy hầu hết không phải là một thứ  thiên nhiên hiện   thực sống động như  chúng ta vẫn nhìn thấy, mà nó là thiên nhiên bản   thể, là thiên nhiên vĩnh hằng bất sinh bất diệt. Nhưng bên cạnh đó thì   thơ  Trần Nhân Tông bắt đầu manh nha một tiểu loại của thơ  đề  vịnh   của nhà Nho, là thơ  vịnh vật.. Thơ  vịnh vật của Trần Nhân Tông hiếm  hoi và nghiêng về phía thơ “ngôn chí” kiểu Nho gia. Những bài thơ vịnh   vật kiểu Nho gia này là một cách thức nhân hóa tự nhiên điển hình của   thơ  ca trung đại. Trong thế  giới thẩm mỹ mang màu sắc Nho giáo này,   không có cái đẹp của bản thân thiên nhiên như nó vốn có, chỉ có cái đẹp  của thiên nhiên được vay mượn làm biểu tượng đạo đức, chỉ có cái đẹp  của đạo đức, của sự nhân hóa.  1.4. Hình tượng vị  bồ  tát trang nghiêm­ trượng phu trung  hiếu Đây là mẫu hình con người lý tưởng theo quan niệm của Trần   Nhân Tông. Mẫu người này là sự  kết hợp của một đấng trượng phu  
  14. trung hiếu theo kiểu Nho giáo và một bậc Bồ tát trang nghiêm theo kiểu  Phật giáo. Trung và hiếu là hai phạm trù quan trọng của Nho giáo. Xây  dựng một mẫu hình bồ tát trang nghiêm­ trượng phu trung hiếu như thế,  Trần Nhân Tông đã mang Thiền và Nho, mang hai lý tưởng kết hợp lại   trong một mẫu hình duy nhất. Và mẫu hình đó đã được hiện thực hóa  qua chính hình tượng cái tôi tác giả­ hình tượng một vị  thiền sư tự do,   vô ngã, vô ý và vô ngôn và ông vua vì nước vì dân.  Đó không phải là hai  con người tách biệt mà chính là hai mặt của cái Tôi­ tác giả. Hai mặt này  đã tạo nên một diện mạo Trần Nhân Tông như chúng ta vẫn hình dung. 1.5.     Những yếu tố  thời gian­ không gian nghệ  thuật từ  Thiền đến Nho gia  1.5.1. Từ thời gian vũ trụ vĩnh hằng đến thời gian hướng về  quá khứ Trong tác phẩm Trần Nhân Tông,  ở  mảng thơ  Thiền, chủ  yếu  tồn tại hai loại thời gian luân hồi hư   ảo và vũ trụ  vĩnh hằng, thường  được đặt cạnh nhau để  cho thấy sự  đối lập của cái hư   ảo và cái chân  như. Thậm chí, còn “có sự vận động biện chứng giữa cái vô thường và   cái hằng thường, giữa khoảnh khắc và trường cửu.” Khi chưa giác ngộ  thì thời gian là vô thường và chớp bể, khi đã ngộ đạo rồi thì thời gian trở  nên vĩnh hằng trường cửu. Nhưng trên nền của thứ thời gian mang màu  sắc Thiền  ấy, thơ  Trần Nhân Tông đã xuất hiện những cảm thức thời   gian   hiện   thực   hơn.   Cũng   cùng   nói   về   sự   biến   động   của   thời   gian,   nhưng trong khi Thiền gia phủ  định thời gian luân hồi thì Nho gia lại   thảng thốt lo âu. Trần Nhân Tông nói về tương lai theo cách của các nhà   Nho, mong  ước về  một nền thái bình thịnh trị  dài lâu, một tương lai   được hình dung như một khối thời gian bất biến, phẳng lặng. 1.5.2. Từ không gian vũ trụ vô cùng đến không gian thế tục Chúng tôi sử  dụng cách nhìn của Gurêvich và Lotman soi chiếu   vào trong văn chương của Trần Nhân Tông thì nhận thấy cách tư duy về 
  15. không gian trong những sáng tác này mang đậm yếu tố Thiền nhưng vẫn  có những khoảng không gian đầy tính thế  tục của Nho gia. Phật giáo  quan niệm cùng với thời gian vô thủy vô chung thì vũ trụ này cũng rộng   lớn vô cùng vô tận. Không gian trong thơ  Thiền hướng về  cái vũ trụ  rộng lớn này với khát vọng giải thoát hoặc tâm đạt đến cảnh giới giác  ngộ­ cái tiểu ngã hòa cùng cái đại ngã. Hầu hết những bài thơ  tả  cảnh  thiên nhiên có ý vị Thiền trong thơ Trần Nhân Tông đều hướng đến cái  không gian vũ trụ này, cho dù không gian thực chỉ là một khung cửa sổ  nhìn ra khoảnh sân nhỏ hay là một cánh đồng quê bát ngát, một con sông   mênh mang. Mảng không gian thế tục trong thơ Trần Nhân Tông không   nhiều. Thường đó là những không gian quen thuộc đối với một ông vua:  thư  phòng, cung điện, lăng tẩm, miếu mạo, chùa chiền…, nhưng không   mang bản chất hiện thực mà chúng có tính biểu tượng về những vấn đề  của xã hội, mang tính cộng động.  CHƯƠNG 2: SỰ ĐỊNH HÌNH CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO ­ TRƯỜNG HỢP NGUYỄN TRÃI   2.1.   Nguyễn   Trãi   trong   bước   chuyển   giao   của   lịch   sử   từ  Phật giáo sang Nho giáo Nguyễn Trãi là một nhà Nho  ở  giai đoạn bước ngoặt của lịch   sử, khi nước Đại Việt quyết định lựa chọn Nho giáo làm hướng đi cho  mình. Ông là sản phẩm của thời đại đang vận động chuyển tiếp từ chế  độ quân chủ quý tộc sang chế độ chuyên chế quan liêu, từ một nền văn   hóa đa nguyên của “hào khí Đông A” sang một nền văn hóa độc tôn Nho   giáo. Ông chính là một trong những người có công nhiều nhất trong sự  lựa chọn có ý thức hướng đi cho đất nước phù hợp với sự  phát triển   khách quan của lịch sử. Lê Thánh Tông là người sẽ  hoàn tất quá trình  ấy. Là sản phẩm của giai đoạn trung chuyển,  ở  Nguyễn Trãi chưa có  được những đặc điểm của nhà Nho ở  giai đoạn chín muồi  ở  thời bình,  
  16. dù ông cũng đã có những năm tháng hoạt động sau khi cuộc khởi nghĩa  của Lê Lợi đã thành công.  2.2. Sự định hình của quan niệm và đặc trưng thẩm mỹ của  văn chương nhà Nho Nguyễn Trãi là một trong những tác giả  có ý thức rõ ràng nhất  về tính chức năng của văn học nhà Nho. Văn chương của ông phản ánh  những vấn đề lớn của thời đại. Ông đã đem tài năng bút mực của mình  ra để  phục vụ một cách có hiệu quả  cho đời sống, chính trị. Một phần   lớn trong di sản ông để  lại là những tác phẩm chính luận như  Quân   trung từ  mệnh tập, Bình Ngô đại cáo… được sáng tác nhằm đáp  ứng  những nhiệm vụ  chính trị  đương thời. Ngay cả  bộ  phận văn chương  nghệ thuật, Nguyễn Trãi cũng đề  cao tính chức năng xã hội. Tuy nhiên,  ở mảng văn chương nghệ thuật này, tình hình phức tạp hơn.    Văn chương Nguyễn Trãi trĩu nặng bởi cái lý tính của nhà Nho,   nhưng nó lại được chắp cánh bởi cái phóng cuồng của Lão­ Trang và  thăng hoa bởi cái siêu thoát, vô chấp của Thiền, dĩ nhiên lý tính hay cảm   tính, mức độ  nhiều hay ít lại phụ  thuộc vào từng thể  loại văn chương.   Sự  thăng hoa của Lão­ Trang hay Thiền chủ  yếu chỉ  tìm thấy được  ở  thơ ca. Còn sự lý trí của Nho thì xen lẫn ở thơ ca và đậm đặc ở  các thể  loại còn lại. Quan niệm văn chương để bộc lộ cái đẹp của nhân cách chủ thể  xuyên suốt trong thơ Nguyễn Trãi, nếu xét từ ở góc độ ý thức. Chính với  xuất phát điểm chữ Văn được hiểu như thế trong lịch sử và tồn tại kéo  dài cùng với một chế độ xã hội lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị  đã khiến văn được coi như là một hình thức cai trị đối lập với bạo lực,   với luật pháp. Sáng tác của Nguyễn Trãi tập trung vào cái đẹp của nhân  cách chủ thể, của sự tu dưỡng đạo đức này một cách đậm đặc. Nó là cái  đẹp nổi trội và bao trùm lên toàn bộ hệ thống quan niệm thẩm mỹ của   ông. 
  17. 2.3. Các vấn đề đạo lý­ thế sự và dân tộc 2.3.1. Nhân nghĩa và an dân Vấn đề  dân tộc và thiên hạ   ở  Nguyễn Trãi được gắn liền với  Nho giáo. Trần Đình Hượu cho rằng “dân tộc và nhân đạo” chính là “con   đường tiếp thu Nho giáo của Nguyễn Trãi”. Có thể  nói Nguyễn Trãi là  người đã sử  dụng Nho giáo như  một vũ khí lợi hại trong cuộc kháng   chiến chống quân Minh. Ông đã dùng Nho giáo ở cả hai phía: biến nghĩa   quân Lam Sơn trở thành một đội quân “Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử  bạo”, và áp dụng “tâm công” trong cuộc chiến ngoại giao với kẻ địch.  Nhà Minh dùng chiêu bài “điếu phạt” “phù Trần diệt Hồ” sang nước ta   với một quyết tâm chưa từng thấy quyết xóa sổ  hoàn toàn nước Đại   Việt. Tiếp thu một cách sáng tạo những phạm trù tư  tưởng của Nho   giáo, cùng với sự vận động của chính bản thân dân tộc trên quá trình nỗ  lực không ngừng vươn lên tự khẳng định mình, Nguyễn Trãi đã thể hiện   sự phát triển của ý thức dân tộc ở Bình Ngô đại cáo.  2.3.2. Đạo lý thế sự qua trường hợp thơ giáo huấn và thơ đề   vịnh Cảm hứng đạo lý thế sự cũng là một trong những cảm hứng lớn  nhất trong sáng tác của Nguyễn Trãi, nhưng thể hiện tập trung nhất là ở  mảng thơ giáo huấn (Bảo kính cảnh giới) và thơ đề vịnh. Những đạo lý  hay kinh nghiệm mà Nguyễn Trãi nói đến  ở  mảng thơ  giáo huấn này  thực chất không khác biệt những tư tưởng Nho giáo nói chung, dù rằng  về tổng thể ông vẫn thể hiện một cách nhìn khóang đạt hơn.  Bên cạnh thơ  giáo huấn, thơ  đề  vịnh cũng là một thể  tài tiêu  biểu của văn học nhà Nho. Trong số  các tiểu loại của  thơ   đề  vịnh,   Nguyễn Trãi chủ  yếu sáng tác thơ  vịnh vật.  Ở Nguyễn Trãi, xu hướng   vịnh vật tỉ đức đã trở nên lấn át các xu hướng khác. 2.3.3. Hành đạo hay ẩn dật
  18. Thực chất đối với nhà Nho,  ẩn dật cũng là một cách thức thể  hiện nội dung đạo lý­ thế  sự, vì nhà Nho không lấy  ẩn dật làm cứu   cánh, mà chỉ coi đó là phương tiện để thể hiện thái độ của mình đối với   xã hội đương thời. Thế nhưng, hầu như mọi nhà Nho khi về ở ẩn thì cái   lý do ẩn dật ban đầu ấy không còn tồn tại như là duy nhất nữa, lúc này  nhà Nho thật sự đắm mình vào trong những lạc thú của cuộc sống nhàn  nhã. Phương diện  ẩn dật này vừa khiến Nguyễn Trãi hoàn thiện một   mẫu hình nhà Nho chính thống tiêu biểu trong lịch sử, vừa là cái cớ  khiến ông quay lại gần hơn với những truyền thống của văn chương   nhà Trần, về  gần hơn với Lão­Trang và Thiền. Với Đạo gia thì con   người hòa đồng với tự  nhiên, sống thuận theo tự  nhiên. Với Thiền thì  con người và tự nhiên nhập vào một, không có sự phân biệt, không có sự  chia tách. Tư  tưởng sùng thượng thiên nhiên của Đạo gia thể  hiện tập   trung nhất ở bài Côn Sơn ca..  2.4. Hình tượng trung tâm 2.4.1. Hình tượng cái tôi trữ tình Hình tượng cái tôi trữ  tình trong thơ  Nguyễn Trãi là một hình  ảnh phức tạp, một cách cảm nhận của Nguyễn Trãi về  chính bản thân   mình, tâm hồn mình. Ở đây người ta thấy một Nguyễn Trãi đa chiều với   vô vàn những dằn vặt băn khoăn, giằng xé, những khát vọng và những   chán chường, những thành công và những thất bại. Những chuyện “quân  thân”, “trung hiếu”, “cương thường” trở đi trở  lại như  những tín niệm  suốt đời ông noi theo. Như  các tác giả  trung đại khác, Nguyễn Trãi hay  tìm đến đối thoại với các cổ nhân. Với người đọc, tên các nhân vật mà   Nguyễn Trãi nhắc đến không chỉ đơn thuần là những cái tên, mà là một  thế  giới văn hóa cổ  trung đại. Bên cạnh đó, thơ  ông còn khắc họa một   triết gia với những chiêm nghiệm nhuốm vị Thiền. Thiền  ở ông dường  như bắt nguồn từ trong dòng máu, ở tâm hồn đã sinh ra từ một thời đại  
  19. phóng khoáng tràn trề  sinh khí Thiền,  ở  cái trí tuệ  thấm nhuần triết lý   Thiền tận tầng sâu nhất.  2.4.2. Sáng tạo các hình tượng nhân vật theo mô hình nhân   cách lý tưởng của Nho gia Sáng tạo các hình tượng nhân vật theo mô hình nhân cách lý  tưởng của Nho gia là một dấu hiệu cho thấy yếu tố Nho giáo đậm nét   trong tác phẩm của Nguyễn Trãi. Trong tác phẩm của ông, một trong  những hình tượng nhân vật xuất hiện nhiều nhất là Lê Lợi, đặc biệt   trong mảng hùng văn: Lam Sơn thực lục, Quân trung từ mệnh tập, Bình   Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú và nhiều bài thơ chữ Hán. Khi ngợi ca Lê  Lợi, Nguyễn Trãi nhấn mạnh nhất đến vị  trí của Đức. Không phải vì   đất hiển, cũng chẳng phải bởi quyền mưu, nhà Nho quy thành công của   cả cuộc khởi nghĩa vào một chữ Đức. Đức dùng để cảm hóa con người,  nhân nghĩa dùng để thức tỉnh kẻ thù. Thánh nhân thuận theo thiên lý.  Bên cạnh đó, hình tượng Trần Nguyên Đán trong bài ký  Băng   Hồ  di sự  lục cũng là một ví dụ  về  cách thức Nho giáo hóa hình tượng   nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Trãi. Ông nhìn Trần Nguyên Đán  bằng con mắt của nhà Nho, và giải thích mọi hiện tượng bằng hệ  tiêu   chí Nho gia.  2.5. Định hình các yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật  của văn học nhà Nho  2.5.1. Thời gian quá khứ mơ hồ Thời gian trong thơ  Nguyễn Trãi cũng giống như  các nhà Nho   khác, đó là một kiểu thời gian của thế  tục, của thế  giới trần thế, thời   gian của hoạt động và suy tư. Các vị Thiền sư tuy sống nơi trần thế với   những hoạt động của con người cõi thế  tục, nhưng thời gian đích thực  của họ lại của trực cảm và giao cảm. Thơ Nguyễn Trãi chủ yếu là thứ  thời gian của hoạt động và suy tư  này. Trong thơ  ông cũng giống như  các   nhà   Nho   khác,   có   một   thứ   thời   gian   chồng   nhiều   lớp   lên   nhau. 
  20. Những lớp thời gian này thường có  ở  những bài gợi lại một ý thơ  của  người xưa.  Cảm thức tiếc xuân, tiếc thời gian trôi, tiếc tuổi trẻ của nhà thơ  đậm nét đến mức hình ảnh người cầm đuốc để  chơi xuân cứ trở  đi trở  lại, đến mức mái đầu bạc thành nỗi ám  ảnh. Thiền gia thì đã vượt lên  trên sự vô thường của thời gian, sự ngắn ngủi của kiếp người. Nhà Nho  cũng nhận thấy sự biến chuyển của thời gian, nhưng bằng thái độ  bình  thản, an nhiên. Nguyễn Trãi nghệ  sĩ nhất có lẽ   ở  chỗ  này, và đây cũng   chính là điểm khiến ông khác biệt với thời đại của chính mình.  2.5.2. Không gian hiện thực mang tính ước lệ Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Trãi chủ yếu là không  gian mang tính ước lệ. Trong thơ Nguyễn Trãi có không gian quê cũ, đối   lập với không gian loạn lạc. Nguyễn Trãi coi quê cũ như  một chốn   không gian bình yên, như  nơi để  trở  về  sau những lưu lạc, những thất  bại, đắng cay. Không gian ấy nhiều khi mang tính ước lệ và được nhắc   đến   nhiều   trong   những   giai   đoạn   khủng   hoảng   trong   cuộc   đời   ông.   Không gian quê cũ lạc vào trong cả  giấc mơ, đêm đêm nhà thơ  tưởng  mình như lên chiếc thuyền nhỏ trở về. Nguyễn Trãi thường không nhắc  đến không gian loạn lạc cụ thể, nhưng không gian quê cũ luôn được đặt  trong thế  đối lập với loạn lạc. Sống giữa chốn cung đình, nhưng thơ  Nguyễn Trãi dường như  không có bóng dáng của chốn cung đình. Thơ  ông lại rõ rệt không gian  ẩn dật­ gắn liền với Côn Sơn. Nhưng đó vẫn  cứ là không gian của cuộc sống nhân gian, không gian thực hữu. Nó chỉ  đối  lập  với  không  gian  triều  đình,  đô  thị  mà  không  đối  lập  với   con   người, dù là không có nhiều bóng dáng của con người.  CHƯƠNG 3: GIAI ĐOẠN ĐIỂN PHẠM CỦA VĂN CHƯƠNG NHÀ  NHO­ TRƯỜNG HỢP LÊ THÁNH TÔNG
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2