Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông
lượt xem 5
download
Luận án trình bày các mục tiêu: sự khởi đầu của văn học nhà Nho từ trong văn học Phật giáo - từ trường hợp Trần Nhân Tông, sự định hình của văn học nhà Nho - từ trường hợp Nguyễn Trãi, giai đoạn điển phạm của văn học nhà Nho - từ trường hợp Lê Thánh Tông. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THU HIỀN QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG TỚI SỰ ĐIỂN PHẠM HÓA CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO Ở VIỆT NAM TỪ TRẦN NHÂN TÔNG QUA NGUYỄN TRÃI ĐẾN LÊ THÁNH TÔNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
- HÀ NỘI – 2013 Công trình khoa học được hoàn thành tại: Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Kim Sơn PGS.TS. Trần Ngọc Vương Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp ĐHQG chấm luận án tiến sĩ họp tại………………………………………….. Vào hồi giờ ngày tháng năm Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam Trung tâm Thông tin Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Văn học nhà Nho chiếm một phần rất quan trọng trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Khái niệm văn học nhà Nho văn chương nhà Nho được chúng tôi sử dụng theo nghĩa là loại hình tác phẩm văn học được sáng tác theo khuynh hướng mỹ học Nho gia, chịu sự chi phối của tư tưởng Nho giáo, được coi là thứ văn chương lý tưởng của nhà Nho về mặt lý thuyết. Chủ thể sáng tác của văn học nhà Nho là nhà Nho hoặc những tác giả chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Định nghĩa này của chúng tôi đã phân biệt rõ ràng hai bộ phận văn học nhà Nho và văn học do nhà Nho sáng tác. Với quan niệm có sự tồn tại thực tế của một bộ phận văn học nhà Nho như thế trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu quá trình điển phạm hóa của bộ phận tác phẩm này, điều cho đến nay chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Quá trình vận động từ khi mới manh nha cuối thế kỷ XIII cho đến lúc trở thành điển phạm ở nửa cuối thể kỷ XV là giai đoạn có ý nghĩa quyết định cho diện mạo và những định hướng phát triển sau này của nền văn học nhà Nho ở Việt Nam. Đây là lúc xã hội chuyển từ đa nguyên về văn hóa sang độc tôn Nho giáo, văn học Việt Nam từ trạng thái chịu ảnh hưởng của tam giáo đã trở thành một nền văn học nhà Nho. Chúng tôi cho rằng nghiên cứu quá trình vận động của văn học nhà Nho từ lúc mới manh nha từ trong văn học Thiền đến khi trở thành điển phạm khả dĩ có thể giải quyết những vấn đề mang tính lý thuyết có ý nghĩa nền tảng trong việc tìm hiểu nền văn học trung đại. Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông là ba tác gia lớn của văn học trung đại ở các giai đoạn cuối thế kỷ XIII, nửa đầu và nửa cuối thế kỷ XV có ý nghĩa như những dấu mốc trong quá trình phát triển của văn học nhà Nho ở Việt Nam.
- Chính vì những lý do kể trên mà chúng tôi lựa chọn đề tài Quá trình vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông cho luận án của mình nhằm giả quyết một số vấn đề mang tính lý thuyết của lịch sử văn học giai đoạn này. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Luận án đã điểm lại các công trình cơ bản, đặc biệt là các bộ văn học sử từ đầu thế kỷ XX đến năm 1986 và rút ra các kết luận sau: Nếu không kể đến những quan niệm, nhận định, đánh giá và những công trình sưu tầm, ghi chép của “những người trong cuộc” từ thế kỷ XIX trở lại thì văn học nhà Nho đã được nghiên cứu từ rất sớm. Các công trình văn học sử quan trọng giai đoạn trước năm 1945 như Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm và ở miền Nam giai đoạn 19451975 như Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ và Bảng lược đồ văn học của Thanh Lãng đã khẳng định sự tồn tại của một bộ phận văn học nhà Nho ở các mức độ khác nhau và bước đầu đưa ra những nhận định có giá trị về đối tượng này. Những hạn chế về mặt phương pháp luận khoa học và thế giới quan đã khiến các tác giả miền Bắc trong giai đoạn 19451975 nhận định về Nho giáo ít nhiều thiên kiến dẫn đến những né tránh hoặc phủ nhận ảnh hưởng, đặc trưng, kể cả những giá trị, đóng góp mà Nho giáo đem lại cho văn học. 2.2. Kể từ sau đổi mới, trong vòng mấy chục năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1995), Loại hình học tác giả nhà Nho Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (1995); Trần Ngọc Vương: Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1997), Văn học Việt Nam thế kỷ XXIX (2007, chủ biên) và Trần Nho Thìn: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2003, 2008), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (2012)... đã đạt được những thành tựu có ý
- nghĩa đặt nền móng cho việc nghiên cứu văn học nhà Nho. Nhìn chung, các công trình này đã giải quyết được các vấn đề cơ bản mang tính lý thuyết của văn học nhà Nho từ góc nhìn xã hội học lịch sử và văn hóa học này. Mặc dù các tác giả đã xây dựng được một hệ thống lý thuyết khá hệ thống về văn học nhà Nho nói chung, nhưng nhiều vấn đề cụ thể trong đó vẫn còn chờ được giải quyết. Luận án của chúng tôi có thể coi là một sự tiếp tục trên cơ sở những nghiên cứu này với sự gia tăng của các cách tiếp cận mới về một giai đoạn cụ thể của văn học nhà Nho. 2.3. Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông không chỉ là các tác gia văn học lớn mà họ đều là những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam ở nhiều tư cách khác nhau. Xét từ tư cách là tác giả văn học và từ vấn đề điển phạm hóa của văn học nhà Nho, chúng tôi nhận thấy dù tình hình nghiên cứu về các tác giả này rất đa dạng và phức tạp, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào đặt vấn đề nghiên cứu ba tác giả Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông trong sự vận động tới sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho. Vì thế, luận án của chúng tôi có thể coi là công trình đầu tiên tiếp cận vấn đề văn học nhà Nho theo hướng này. 3. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 3.1.1. Điển phạm là những tác phẩm có tính chất mẫu mực của một nền văn học, nó lưu giữ quá khứ và liên hệ với hiện tại. Quá trình hình thành của điển phạm phải tính từ cả hai phía, trước hết là bản thân giá trị thẩm mỹ nội tại của tác phẩm, sau đó là sự ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử, thiết chế xã hội, giáo dục, kinh tế và chính trị. Sự hình thành và lưu giữ điển phạm được tiến hành chủ yếu qua cách thức sau: một tác phẩm được coi là điển phạm khi xuất hiện sự mô phỏng và sao chép qua các thế hệ. Tuy nhiên, cũng có thể tính đến thiết chế giáo dục
- chính thống là nơi hình thành hay lưu giữ điển phạm và vai trò của các nhà phê bình. Điển phạm không phải là hiện thân cho các giá trị phi lịch sử và tổng quát mà nó có tính lịch sử và biến đổi theo thời gian. Có thể nói, điển phạm chính là tự sự về cách nhìn văn học của mỗi thời đại. 3.1.2. Quá trình vận động tới điển phạm hóa của văn học nhà Nho ở Việt Nam là một đề tài khá phức tạp, trong giới hạn luận án, chúng tôi chỉ lựa chọn một phạm vi nghiên cứu nhất định, là ba trường hợp cụ thể: Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông. Chúng tôi hy vọng từ lựa chọn có tính phương pháp luận này có thể khái quát những vấn đề mang tính lý thuyết cho cả giai đoạn. Ngoài ra, nghiên cứu vấn đề qua ba tác giả này, chúng tôi muốn nhấn mạnh tính quá trình nhiều hơn là bản thân sự điển phạm hóa. 3.1.3. Sự điển phạm hóa của văn học nhà Nho là quá trình văn học nhà Nho vận động phát triển tiến đến trở thành khuôn mẫu, tiêu chuẩn cho văn chương hậu thế noi theo. Tuy có tính đến những yếu tố bên ngoài tác động tới văn học, nhưng luận án xác định đối tượng nghiên cứu chính là quá trình điển phạm hóa diễn ra bên trong những văn bản tác phẩm, chính vì vậy việc đưa ra một hệ tiêu chí để xác định đối tượng văn học nhà Nho là rất cần thiết. Thứ nhất, văn học nhà Nho được sáng tác bởi các tác giả chịu ảnh hưởng của Nho giáo, trong thời đại Nho giáo có vai trò nhất định hoặc thống trị xã hội. Thứ hai, về quan niệm văn học, văn chương nhà Nho mang tính chức năng điển hình. Thứ ba, về chủ đề, đề tài, văn chương nhà Nho hướng đến những vấn đề của cuộc sống xã hội, những vấn đề quan thiết với cuộc đời của một nhà Nho, các chuyện tu, tề, trị, bình. Thứ tư, về các hình tượng trung tâm: Hình tượng số một của văn học nhà Nho là các nhà Nho hành đạo.
- Thứ năm, về đặc trưng thẩm mỹ, cái đẹp trong văn chương nhà Nho là cái đẹp của thế giới thực tại, của đời sống thế tục. Thứ sáu, về phương diện thi pháp. Thời gian nghệ thuật trong văn học nhà Nho luôn hướng về quá khứ, sử dụng quá khứ làm chuẩn mực, làm thước đo cho hiện tại và tương lai. Không gian nghệ thuật trong văn học nhà Nho là không gian trần thế, hiện thực của cung đình, nông thôn, sơn thủy. Thứ bảy, về thể loại, văn học nhà Nho là văn chương chức năng nên coi trọng các thể loại mang tính chức năng xã hội như chiếu, biểu, cáo, hịch... Đối với văn học nhà Nho, ngay cả các thể loại mang tính nghệ thuật nhiều hơn như thơ, phú cũng bị chức năng hóa. Ví dụ trong thơ ca, thể thơ đề vịnh trở thành tiểu loại tiêu biểu của văn chương nhà Nho, một thể thơ mượn cớ đề vịnh các đồ vật, sự vật để ký thác những vấn đề đạo đức. Thứ tám, các yếu tố hình thức như thi liệu, văn liệu, dụng điển có thể thấy rõ sự xuất hiện của các yếu tố liên quan đến tư tưởng, sách vở kinh điển Nho giáo. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ ưu tiên lựa chọn những tiêu chí quan trọng nhất: tác giả, quan niệm văn học và đặc trưng thẩm mỹ, chủ đề đề tài, hình tượng trung tâm, thời gian và không gian nghệ thuật. 3.2. Mục đích nghiên cứu Có thể nhận diện được tiến trình liên tục của văn học trung đại nói chung và văn học thế kỷ XII XV nói riêng thông qua góc độ điển phạm hóa của văn học nhà Nho. Xem xét quá trình điển phạm hóa của văn học nhà nho ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIII hết thế kỷ XV trên một số phương diện cơ bản của tác giả và tác phẩm văn học, chủ yếu dựa vào chính đối tượng văn bản tác phẩm: quan niệm văn học và đặc trưng thẩm mỹ,
- chủ đề đề tài, hình tượng trung tâm, không gian và thời gian nghệ thuật… Nghiên cứu một số trường hợp cụ thể, một số tác giả tiêu biểu dưới góc nhìn sự hình thành và phát triển của văn học nhà nho ở Việt Nam, nhìn họ như những mắt xích trong chuỗi vận động của lịch sử văn học. Từ đó nhận diện các đặc trưng của văn học nhà Nho ở Việt Nam trong mối tương quan với Phật, Đạo. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ đạo được sử dụng xuyên suốt luận án là phương pháp liên ngành, phương pháp nghiên cứu loại hình và cấu trúc loại hình, nghiên cứu trường hợp, phương pháp hệ thống. Các phương pháp và các cách tiếp cận: thông diễn học, thi pháp học, phương pháp tiếp cận văn hóa học. Các thao tác thông thường như: phân tích, so sánh, đối chiếu, thống kê, phân loại, mô hình hóa, khảo sát văn bản… 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Phác họa được quá điển phạm hóa văn học nhà Nho ở Việt Nam, đồng thời qua đó cũng có thể nhìn nhận tiến trình văn học Việt Nam một cách liền mạch và có hệ thống từ góc độ sự ảnh hưởng của Nho giáo tới văn học. Soi chiếu các tác giả và nhất là tác phẩm dưới góc độ điển phạm hóa của văn học nhà Nho. Tìm hiểu sự vận động của từng yếu tố văn học qua ba tác giả trong quá trình điển phạm hóa của văn học nhà Nho. 6. Cấu trúc đề tài Ngoài phần phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương:
- Chương 1: Sự khởi đầu của văn học nhà Nho từ trong văn học Phật giáo từ trường hợp Trần Nhân Tông Chương 2: Sự định hình của văn học nhà Nho từ trường hợp Nguyễn Trãi Chương 3: Giai đoạn điển phạm của văn học nhà Nho từ trường hợp Lê Thánh Tông CHƯƠNG 1: SỰ KHỞI ĐẦU CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO TỪ TRONG LÒNG VĂN HỌC PHẬT GIÁO TRƯỜNG HỢP TRẦN NHÂN TÔNG 1.1. Thiền tông từ Huệ Năng đến Trần Nhân Tông Luận án trình bày quá trình hình thành của Thiền tông Trung Quốc từ Bồ Đề Đạt Ma đến Lục Tổ Huệ Năng để khẳng định rằng Huệ Năng chính là mốc chuyển biến quan trọng của Thiền, từ “Phật giáo ở Trung Quốc” tới chỗ có thể được gọi là “Phật giáo Trung Quốc”. Thiền là Phật giáo thông qua tư duy tổng hợp Tam giáo của người Trung Quốc theo khuynh hướng thực tế và nhập thế, nó khiến cho triết lý giải thoát của Thiền trở thành một kinh nghiệm tôn giáo khả thi có khả năng hiện thực hóa và nhập thế mạnh mẽ. Đối với Thiền, giải thoát không phải để đến một thế giới nào khác, mà để sống trong chính thế giới trần tục này một cách an nhiên tự tại. Bản thân Thiền đã là nhập thế, Thiền ở Việt Nam lại tiếp tục tiến hành một lần dung hợp Nho Lão nữa. Luận án phân tích những đòi hỏi của thời đại đối với việc sử dụng Nho giáo như một thứ kiến thức cần thiết trong việc điều hành đất nước bên cạnh Phật giáo đang được coi là quốc giáo. Ngoài ra, thân phận là hoàng đế của Trần Nhân Tông bắt buộc ông phải đối mặt giải quyết những vấn đề của đời sống thế
- tục, điều này khiến ông một mặt là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, mặt khác lại vẫn phải đến gần với Nho giáo. 1.2. Quan niệm đặc trưng thẩm mỹ của văn học Thiền gia và sự gặp gỡ với Nho gia. Ngay từ nguyên tắc ban đầu này, văn chương Thiền đã gặp gỡ với văn chương Nho gia. Văn chương nhà Nho chính là thứ văn chương mang tính chức năng điển hình. Nếu về phương diện chính trị, Trần Nhân Tông là người đầu tiên mở cửa cho Nho học ùa vào triều đình thì ở phương diện văn chương, ông cũng là một trong những người người mở đầu cho thi ngôn chí có mặt trong thơ ca Lý Trần. Văn chương của Trần Nhân Tông có một mảng lớn là văn chương chức năng, một sự bắt đầu của “thi ngôn chí” của Nho gia, ở đó diễn ra một sự chuyển tiếp từ văn học Thiền có tính chức năng sang phương diện “thi ngôn chí”. Phần thơ ngôn chí này thể hiện khá đậm ở mảng viết về chiến tranh. Cư trần lạc đạo phú có dáng dấp bài “Thánh huấn” của Nho gia. Nho gia đề cao kinh nghiệm, mô thức tư duy của Nho gia là kinh nghiệm, phương pháp tu thân của Nho gia cũng là rút kinh nghiệm. Cách thức nêu gương, ngợi ca một mẫu hình lý tưởng chính là mô thức mà Nho gia thường làm trong các thể loại thơ ca nói chí của mình. Có thể nói, Cư trần lạc đạo phú tuy mang nội dung ngợi ca cái lạc đạo nơi cõi trần của một vị thiền sư, nhưng lại phảng phấp dáng dấp của một bài thánh huấn của nhà Nho, với cái chí để ở chỗ nhàn tâm. Tính khuynh hướng của văn học đã bắt đầu ở chỗ đó. Một trong những phạm trù thẩm mỹ lớn nhất trong thơ Trần Nhân Tông là cái đẹp của tâm cảnh siêu việt. Nhưng trong thơ ông cũng đã bắt đầu rõ ràng hình dáng của một cái đẹp nhân cách lý tưởng được tu dưỡng, rèn luyện theo quan niệm của nhà Nho. Chúng tôi cho rằng, các đặc trưng thẩm mỹ của văn chương Thiền vẫn là chủ đạo trong văn chương Trần Nhân Tông cho dù các yếu tố thẩm mỹ của văn chương
- nhà Nho đã bắt đầu hình thành. Hai loại đặc trưng thẩm mỹ này đan xen, nhiều khi lẫn lộn trong tác phẩm của vị vua Thiền sư thi sĩ này đến mức khó tách biệt. 1.3. Từ cư trần lạc đạo đến các vấn đề thế sự Tính đa dạng và tích hợp trong các sáng tác của Trần Nhân Tông thể hiện ở chỗ các tác phẩm của ông có thể được chia ra thành nhiều mảng, chia theo đề tài, chủ đề. Có chủ đề thể hiện đậm hơn tính khuynh hướng của văn học nhà nho như mảng về chiến tranh vệ quốc và thơ đề vịnh, nói chuyện đời thực. Mảng sâu nhất về vấn đề Thiền, việc tu thiền và thuyết thiền cũng thể hiện ở mức độ nhất định tư duy, ngôn từ, hình tượng... mang tinh thần Nho gia. Ở phần này, chúng tôi chỉ đề cập đến những đề tài, chủ đề mang màu sắc Nho gia dù ít dù nhiều trong văn chương của Trần Nhân Tông. 1.3.1. Cư trần lạc đạo Đây là chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Trần Nhân Tông và cũng chính là tư tưởng chi phối toàn bộ con người tác giả Trần Nhân Tông. Nội dung cơ bản của cư trần lạc đạo chính là chỉ ra con đường đạt đạo ngay trong cõi trần gian này. Con đường giải thoát của Thiền chẳng phải bằng bất kỳ tha lực nào bên ngoài với những sức mạnh huyền bí thần thông quảng đại, mà là quay vào với cõi bên trong nội tại của chính mình. Chính đây là chỗ mà Thiền gần Nho giáo nhất. Luận án phân tích những đặc điểm của nội dung cư trần lạc đạo của Thiền và tu thân của Nho gia để khẳng định đây chính là cảm hứng thể hiện rõ nét tinh thần nhập thế của Thiền Trần Nhân Tông, và cũng chính vì thế mà dù nói chuyện Phật giáo nhưng nó vẫn thể hiện hướng gần đến với Nho giáo trong tư tưởng của vị hoàng đế này. 1.3.2. Vấn đề dân tộc Trần Nhân Tông không viết nhiều về những vấn đề đời thường, về chuyện dân tộc. Sống giữa thời đại hào hùng, là người dẫn dắt đất
- nước chống lại hai cuộc xâm lăng của quân Nguyên Mông, nhưng dấu ấn của những chiến thắng huy hoàng này để lại trong tác phẩm của Trần Nhân Tông không nhiều và không rõ nét. Trong số vài bài thơ hiếm hoi mang cảm hứng dân tộc của Trần Nhân Tông, chúng ta đều thấy toát lên một tinh thần lạc quan với niềm tin vào sức mạnh của đất nước mình. Ông nhắc đến những chuyện chiến tranh, binh lửa bằng lối tư duy của nhà Nho. Mãi mãi không phải dùng đến giáp binh mới chính là khát vọng thật sự của nhà Nho chứ không phải là những chiến công dù hiển hách đến đâu nơi xa trường. Nhà Nho chủ trương dùng đức để cai trị chứ không dùng binh đao. 1.3.3. Sự xuất hiện của vấn đề đạo lý thế sự qua thể thơ đề vịnh Đối tượng được đề cập trong thơ thiên nhiên của Trần Nhân Tông cũng không ra ngoài phạm vi tùng cúc trúc mai, ngư tiều canh mục. Nhưng thiên nhiên ấy hầu hết không phải là một thứ thiên nhiên hiện thực sống động như chúng ta vẫn nhìn thấy, mà nó là thiên nhiên bản thể, là thiên nhiên vĩnh hằng bất sinh bất diệt. Nhưng bên cạnh đó thì thơ Trần Nhân Tông bắt đầu manh nha một tiểu loại của thơ đề vịnh của nhà Nho, là thơ vịnh vật.. Thơ vịnh vật của Trần Nhân Tông hiếm hoi và nghiêng về phía thơ “ngôn chí” kiểu Nho gia. Những bài thơ vịnh vật kiểu Nho gia này là một cách thức nhân hóa tự nhiên điển hình của thơ ca trung đại. Trong thế giới thẩm mỹ mang màu sắc Nho giáo này, không có cái đẹp của bản thân thiên nhiên như nó vốn có, chỉ có cái đẹp của thiên nhiên được vay mượn làm biểu tượng đạo đức, chỉ có cái đẹp của đạo đức, của sự nhân hóa. 1.4. Hình tượng vị bồ tát trang nghiêm trượng phu trung hiếu Đây là mẫu hình con người lý tưởng theo quan niệm của Trần Nhân Tông. Mẫu người này là sự kết hợp của một đấng trượng phu
- trung hiếu theo kiểu Nho giáo và một bậc Bồ tát trang nghiêm theo kiểu Phật giáo. Trung và hiếu là hai phạm trù quan trọng của Nho giáo. Xây dựng một mẫu hình bồ tát trang nghiêm trượng phu trung hiếu như thế, Trần Nhân Tông đã mang Thiền và Nho, mang hai lý tưởng kết hợp lại trong một mẫu hình duy nhất. Và mẫu hình đó đã được hiện thực hóa qua chính hình tượng cái tôi tác giả hình tượng một vị thiền sư tự do, vô ngã, vô ý và vô ngôn và ông vua vì nước vì dân. Đó không phải là hai con người tách biệt mà chính là hai mặt của cái Tôi tác giả. Hai mặt này đã tạo nên một diện mạo Trần Nhân Tông như chúng ta vẫn hình dung. 1.5. Những yếu tố thời gian không gian nghệ thuật từ Thiền đến Nho gia 1.5.1. Từ thời gian vũ trụ vĩnh hằng đến thời gian hướng về quá khứ Trong tác phẩm Trần Nhân Tông, ở mảng thơ Thiền, chủ yếu tồn tại hai loại thời gian luân hồi hư ảo và vũ trụ vĩnh hằng, thường được đặt cạnh nhau để cho thấy sự đối lập của cái hư ảo và cái chân như. Thậm chí, còn “có sự vận động biện chứng giữa cái vô thường và cái hằng thường, giữa khoảnh khắc và trường cửu.” Khi chưa giác ngộ thì thời gian là vô thường và chớp bể, khi đã ngộ đạo rồi thì thời gian trở nên vĩnh hằng trường cửu. Nhưng trên nền của thứ thời gian mang màu sắc Thiền ấy, thơ Trần Nhân Tông đã xuất hiện những cảm thức thời gian hiện thực hơn. Cũng cùng nói về sự biến động của thời gian, nhưng trong khi Thiền gia phủ định thời gian luân hồi thì Nho gia lại thảng thốt lo âu. Trần Nhân Tông nói về tương lai theo cách của các nhà Nho, mong ước về một nền thái bình thịnh trị dài lâu, một tương lai được hình dung như một khối thời gian bất biến, phẳng lặng. 1.5.2. Từ không gian vũ trụ vô cùng đến không gian thế tục Chúng tôi sử dụng cách nhìn của Gurêvich và Lotman soi chiếu vào trong văn chương của Trần Nhân Tông thì nhận thấy cách tư duy về
- không gian trong những sáng tác này mang đậm yếu tố Thiền nhưng vẫn có những khoảng không gian đầy tính thế tục của Nho gia. Phật giáo quan niệm cùng với thời gian vô thủy vô chung thì vũ trụ này cũng rộng lớn vô cùng vô tận. Không gian trong thơ Thiền hướng về cái vũ trụ rộng lớn này với khát vọng giải thoát hoặc tâm đạt đến cảnh giới giác ngộ cái tiểu ngã hòa cùng cái đại ngã. Hầu hết những bài thơ tả cảnh thiên nhiên có ý vị Thiền trong thơ Trần Nhân Tông đều hướng đến cái không gian vũ trụ này, cho dù không gian thực chỉ là một khung cửa sổ nhìn ra khoảnh sân nhỏ hay là một cánh đồng quê bát ngát, một con sông mênh mang. Mảng không gian thế tục trong thơ Trần Nhân Tông không nhiều. Thường đó là những không gian quen thuộc đối với một ông vua: thư phòng, cung điện, lăng tẩm, miếu mạo, chùa chiền…, nhưng không mang bản chất hiện thực mà chúng có tính biểu tượng về những vấn đề của xã hội, mang tính cộng động. CHƯƠNG 2: SỰ ĐỊNH HÌNH CỦA VĂN HỌC NHÀ NHO TRƯỜNG HỢP NGUYỄN TRÃI 2.1. Nguyễn Trãi trong bước chuyển giao của lịch sử từ Phật giáo sang Nho giáo Nguyễn Trãi là một nhà Nho ở giai đoạn bước ngoặt của lịch sử, khi nước Đại Việt quyết định lựa chọn Nho giáo làm hướng đi cho mình. Ông là sản phẩm của thời đại đang vận động chuyển tiếp từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ chuyên chế quan liêu, từ một nền văn hóa đa nguyên của “hào khí Đông A” sang một nền văn hóa độc tôn Nho giáo. Ông chính là một trong những người có công nhiều nhất trong sự lựa chọn có ý thức hướng đi cho đất nước phù hợp với sự phát triển khách quan của lịch sử. Lê Thánh Tông là người sẽ hoàn tất quá trình ấy. Là sản phẩm của giai đoạn trung chuyển, ở Nguyễn Trãi chưa có được những đặc điểm của nhà Nho ở giai đoạn chín muồi ở thời bình,
- dù ông cũng đã có những năm tháng hoạt động sau khi cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi đã thành công. 2.2. Sự định hình của quan niệm và đặc trưng thẩm mỹ của văn chương nhà Nho Nguyễn Trãi là một trong những tác giả có ý thức rõ ràng nhất về tính chức năng của văn học nhà Nho. Văn chương của ông phản ánh những vấn đề lớn của thời đại. Ông đã đem tài năng bút mực của mình ra để phục vụ một cách có hiệu quả cho đời sống, chính trị. Một phần lớn trong di sản ông để lại là những tác phẩm chính luận như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo… được sáng tác nhằm đáp ứng những nhiệm vụ chính trị đương thời. Ngay cả bộ phận văn chương nghệ thuật, Nguyễn Trãi cũng đề cao tính chức năng xã hội. Tuy nhiên, ở mảng văn chương nghệ thuật này, tình hình phức tạp hơn. Văn chương Nguyễn Trãi trĩu nặng bởi cái lý tính của nhà Nho, nhưng nó lại được chắp cánh bởi cái phóng cuồng của Lão Trang và thăng hoa bởi cái siêu thoát, vô chấp của Thiền, dĩ nhiên lý tính hay cảm tính, mức độ nhiều hay ít lại phụ thuộc vào từng thể loại văn chương. Sự thăng hoa của Lão Trang hay Thiền chủ yếu chỉ tìm thấy được ở thơ ca. Còn sự lý trí của Nho thì xen lẫn ở thơ ca và đậm đặc ở các thể loại còn lại. Quan niệm văn chương để bộc lộ cái đẹp của nhân cách chủ thể xuyên suốt trong thơ Nguyễn Trãi, nếu xét từ ở góc độ ý thức. Chính với xuất phát điểm chữ Văn được hiểu như thế trong lịch sử và tồn tại kéo dài cùng với một chế độ xã hội lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị đã khiến văn được coi như là một hình thức cai trị đối lập với bạo lực, với luật pháp. Sáng tác của Nguyễn Trãi tập trung vào cái đẹp của nhân cách chủ thể, của sự tu dưỡng đạo đức này một cách đậm đặc. Nó là cái đẹp nổi trội và bao trùm lên toàn bộ hệ thống quan niệm thẩm mỹ của ông.
- 2.3. Các vấn đề đạo lý thế sự và dân tộc 2.3.1. Nhân nghĩa và an dân Vấn đề dân tộc và thiên hạ ở Nguyễn Trãi được gắn liền với Nho giáo. Trần Đình Hượu cho rằng “dân tộc và nhân đạo” chính là “con đường tiếp thu Nho giáo của Nguyễn Trãi”. Có thể nói Nguyễn Trãi là người đã sử dụng Nho giáo như một vũ khí lợi hại trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Ông đã dùng Nho giáo ở cả hai phía: biến nghĩa quân Lam Sơn trở thành một đội quân “Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo”, và áp dụng “tâm công” trong cuộc chiến ngoại giao với kẻ địch. Nhà Minh dùng chiêu bài “điếu phạt” “phù Trần diệt Hồ” sang nước ta với một quyết tâm chưa từng thấy quyết xóa sổ hoàn toàn nước Đại Việt. Tiếp thu một cách sáng tạo những phạm trù tư tưởng của Nho giáo, cùng với sự vận động của chính bản thân dân tộc trên quá trình nỗ lực không ngừng vươn lên tự khẳng định mình, Nguyễn Trãi đã thể hiện sự phát triển của ý thức dân tộc ở Bình Ngô đại cáo. 2.3.2. Đạo lý thế sự qua trường hợp thơ giáo huấn và thơ đề vịnh Cảm hứng đạo lý thế sự cũng là một trong những cảm hứng lớn nhất trong sáng tác của Nguyễn Trãi, nhưng thể hiện tập trung nhất là ở mảng thơ giáo huấn (Bảo kính cảnh giới) và thơ đề vịnh. Những đạo lý hay kinh nghiệm mà Nguyễn Trãi nói đến ở mảng thơ giáo huấn này thực chất không khác biệt những tư tưởng Nho giáo nói chung, dù rằng về tổng thể ông vẫn thể hiện một cách nhìn khóang đạt hơn. Bên cạnh thơ giáo huấn, thơ đề vịnh cũng là một thể tài tiêu biểu của văn học nhà Nho. Trong số các tiểu loại của thơ đề vịnh, Nguyễn Trãi chủ yếu sáng tác thơ vịnh vật. Ở Nguyễn Trãi, xu hướng vịnh vật tỉ đức đã trở nên lấn át các xu hướng khác. 2.3.3. Hành đạo hay ẩn dật
- Thực chất đối với nhà Nho, ẩn dật cũng là một cách thức thể hiện nội dung đạo lý thế sự, vì nhà Nho không lấy ẩn dật làm cứu cánh, mà chỉ coi đó là phương tiện để thể hiện thái độ của mình đối với xã hội đương thời. Thế nhưng, hầu như mọi nhà Nho khi về ở ẩn thì cái lý do ẩn dật ban đầu ấy không còn tồn tại như là duy nhất nữa, lúc này nhà Nho thật sự đắm mình vào trong những lạc thú của cuộc sống nhàn nhã. Phương diện ẩn dật này vừa khiến Nguyễn Trãi hoàn thiện một mẫu hình nhà Nho chính thống tiêu biểu trong lịch sử, vừa là cái cớ khiến ông quay lại gần hơn với những truyền thống của văn chương nhà Trần, về gần hơn với LãoTrang và Thiền. Với Đạo gia thì con người hòa đồng với tự nhiên, sống thuận theo tự nhiên. Với Thiền thì con người và tự nhiên nhập vào một, không có sự phân biệt, không có sự chia tách. Tư tưởng sùng thượng thiên nhiên của Đạo gia thể hiện tập trung nhất ở bài Côn Sơn ca.. 2.4. Hình tượng trung tâm 2.4.1. Hình tượng cái tôi trữ tình Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Trãi là một hình ảnh phức tạp, một cách cảm nhận của Nguyễn Trãi về chính bản thân mình, tâm hồn mình. Ở đây người ta thấy một Nguyễn Trãi đa chiều với vô vàn những dằn vặt băn khoăn, giằng xé, những khát vọng và những chán chường, những thành công và những thất bại. Những chuyện “quân thân”, “trung hiếu”, “cương thường” trở đi trở lại như những tín niệm suốt đời ông noi theo. Như các tác giả trung đại khác, Nguyễn Trãi hay tìm đến đối thoại với các cổ nhân. Với người đọc, tên các nhân vật mà Nguyễn Trãi nhắc đến không chỉ đơn thuần là những cái tên, mà là một thế giới văn hóa cổ trung đại. Bên cạnh đó, thơ ông còn khắc họa một triết gia với những chiêm nghiệm nhuốm vị Thiền. Thiền ở ông dường như bắt nguồn từ trong dòng máu, ở tâm hồn đã sinh ra từ một thời đại
- phóng khoáng tràn trề sinh khí Thiền, ở cái trí tuệ thấm nhuần triết lý Thiền tận tầng sâu nhất. 2.4.2. Sáng tạo các hình tượng nhân vật theo mô hình nhân cách lý tưởng của Nho gia Sáng tạo các hình tượng nhân vật theo mô hình nhân cách lý tưởng của Nho gia là một dấu hiệu cho thấy yếu tố Nho giáo đậm nét trong tác phẩm của Nguyễn Trãi. Trong tác phẩm của ông, một trong những hình tượng nhân vật xuất hiện nhiều nhất là Lê Lợi, đặc biệt trong mảng hùng văn: Lam Sơn thực lục, Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Chí Linh sơn phú và nhiều bài thơ chữ Hán. Khi ngợi ca Lê Lợi, Nguyễn Trãi nhấn mạnh nhất đến vị trí của Đức. Không phải vì đất hiển, cũng chẳng phải bởi quyền mưu, nhà Nho quy thành công của cả cuộc khởi nghĩa vào một chữ Đức. Đức dùng để cảm hóa con người, nhân nghĩa dùng để thức tỉnh kẻ thù. Thánh nhân thuận theo thiên lý. Bên cạnh đó, hình tượng Trần Nguyên Đán trong bài ký Băng Hồ di sự lục cũng là một ví dụ về cách thức Nho giáo hóa hình tượng nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Trãi. Ông nhìn Trần Nguyên Đán bằng con mắt của nhà Nho, và giải thích mọi hiện tượng bằng hệ tiêu chí Nho gia. 2.5. Định hình các yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật của văn học nhà Nho 2.5.1. Thời gian quá khứ mơ hồ Thời gian trong thơ Nguyễn Trãi cũng giống như các nhà Nho khác, đó là một kiểu thời gian của thế tục, của thế giới trần thế, thời gian của hoạt động và suy tư. Các vị Thiền sư tuy sống nơi trần thế với những hoạt động của con người cõi thế tục, nhưng thời gian đích thực của họ lại của trực cảm và giao cảm. Thơ Nguyễn Trãi chủ yếu là thứ thời gian của hoạt động và suy tư này. Trong thơ ông cũng giống như các nhà Nho khác, có một thứ thời gian chồng nhiều lớp lên nhau.
- Những lớp thời gian này thường có ở những bài gợi lại một ý thơ của người xưa. Cảm thức tiếc xuân, tiếc thời gian trôi, tiếc tuổi trẻ của nhà thơ đậm nét đến mức hình ảnh người cầm đuốc để chơi xuân cứ trở đi trở lại, đến mức mái đầu bạc thành nỗi ám ảnh. Thiền gia thì đã vượt lên trên sự vô thường của thời gian, sự ngắn ngủi của kiếp người. Nhà Nho cũng nhận thấy sự biến chuyển của thời gian, nhưng bằng thái độ bình thản, an nhiên. Nguyễn Trãi nghệ sĩ nhất có lẽ ở chỗ này, và đây cũng chính là điểm khiến ông khác biệt với thời đại của chính mình. 2.5.2. Không gian hiện thực mang tính ước lệ Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Trãi chủ yếu là không gian mang tính ước lệ. Trong thơ Nguyễn Trãi có không gian quê cũ, đối lập với không gian loạn lạc. Nguyễn Trãi coi quê cũ như một chốn không gian bình yên, như nơi để trở về sau những lưu lạc, những thất bại, đắng cay. Không gian ấy nhiều khi mang tính ước lệ và được nhắc đến nhiều trong những giai đoạn khủng hoảng trong cuộc đời ông. Không gian quê cũ lạc vào trong cả giấc mơ, đêm đêm nhà thơ tưởng mình như lên chiếc thuyền nhỏ trở về. Nguyễn Trãi thường không nhắc đến không gian loạn lạc cụ thể, nhưng không gian quê cũ luôn được đặt trong thế đối lập với loạn lạc. Sống giữa chốn cung đình, nhưng thơ Nguyễn Trãi dường như không có bóng dáng của chốn cung đình. Thơ ông lại rõ rệt không gian ẩn dật gắn liền với Côn Sơn. Nhưng đó vẫn cứ là không gian của cuộc sống nhân gian, không gian thực hữu. Nó chỉ đối lập với không gian triều đình, đô thị mà không đối lập với con người, dù là không có nhiều bóng dáng của con người. CHƯƠNG 3: GIAI ĐOẠN ĐIỂN PHẠM CỦA VĂN CHƯƠNG NHÀ NHO TRƯỜNG HỢP LÊ THÁNH TÔNG
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 305 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn