intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

60
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ trí thức (ĐNTT) khoa học Mác-Lênin trong các nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác-Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án   Đề tài “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các   nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được tác giả ấp ủ  trong suốt quá trình học tập, công tác và tham gia giảng dạy. Đây là một   công trình khoa học độc lập, không có sự trùng lặp với bất cứ đề tài nào   đã được công bố. Tác giả nhận thấy rằng, vấn đề xây dựng đội ngũ trí  thức (ĐNTT) khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân  dân Việt Nam (QĐNDVN) hiện nay là một nội dung quan trọng, bổ ích,   có thể bổ sung cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của tác   giả. Vì vậy, tác giả đã xin ý kiến chuyên gia, trao đổi với các thầy hướng   dẫn và quyết định chọn làm vấn đề nghiên cứu trong luận án của mình.   Đề tài mà tác giả trình bày có kết cấu gồm phần mở đầu; tổng quan vấn  đề nghiên cứu; 3 chương, 6 tiết; kết luận; các bài báo và công trình khoa  học của tác giả đã công bố; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Với  dung lượng 3 chương (6 tiết), công trình nghiên cứu bảo đảm triển khai  được những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng ĐNTT khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; từ đó nêu lên những yếu tố  tác động, xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng  ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay.  Những vấn đề được luận giải trong đề tài, một mặt, là sự kế thừa có   chọn lọc một số quan điểm của các học giả trong các công trình nghiên  cứu trước đó; mặt khác, chính là sự nỗ lực nghiên cứu của tác giả dưới   sự định hướng của các thầy hướng dẫn. 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Trong mọi thời đại, tri thức luôn là khởi nguồn của sự tiến bộ xã hội,   ĐNTT là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng  với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, ĐNTT trở  thành một nguồn lực đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi  quốc gia. Đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội   là một bộ phận của ĐNTT quân đội và ĐNTT Việt Nam; là lực lượng nòng  cốt giảng dạy, nghiên cứu, phát triển và tuyên truyền lý luận chủ nghĩa Mác ­   Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; tham gia   đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các luận điệu thù địch,   sai trái, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của  Đảng; góp phần xây dựng và củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của   Đảng trong quân đội.
  2. 2 Hiện nay cũng như những năm tới, cùng với cả nước, các nhà trường  quân đội đang đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,  trong đó có giảng dạy các môn lý luận Mác ­ Lênin nhằm nâng cao chất   lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội  cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính  trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của   quân đội. Tuy nhiên, ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân   đội còn thiếu về số lượng; chất lượng chưa cao, cơ cấu còn chưa phù hợp  với thực trạng và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới của quân đội. Đất nước sau gần 30 năm đổi mới tuy đã giành được nhiều thành tựu  to lớn và có ý nghĩa lịch sử, nhưng còn không ít khó khăn, thách thức. Nhiều   vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu làm sáng tỏ.   Trong khi các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà  bình”, coi tư tưởng, lý luận là mặt trận hàng đầu để chống phá cách mạng  nước ta. Một trong những mũi nhọn chống phá của các thế lực thù địch là   xuyên tạc bản chất và truyền thống cách mạng hòng “Phi chính trị hoá”, vô   hiệu hoá quân đội ta. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu  khoa học trong các nhà trường quân đội hiện nay cần phải đặc biệt coi trọng  xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin vững mạnh, thực sự là một trong  những lực lượng nòng cốt xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, hoàn  thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao phó. Đó  cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài:  Xây dựng đội ngũ trí thức khoa   học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện   nay làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu  * Mục đích: Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây  dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN, xác  định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa  học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả về số  lượng, chất lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. * Nhiệm vụ: ­ Làm rõ một số  vấn đề  lý luận về  ĐNTT khoa học Mác ­   Lênin, xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  QĐNDVN. ­ Khảo cứu thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin   trong các nhà trường quân đội, làm rõ những thành tựu, hạn chế,  nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm. 
  3. 3 ­ Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa   học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay.  4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu  * Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN.  * Phạm vi nghiên cứu:  Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin cả  về số  lượng, cơ  cấu và chất lượng trong các nhà trường QĐNDVN bao  gồm: Các giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ  quản lý thuộc các  chuyên ngành triết học Mác ­ Lênin, kinh tế  chính trị  học Mác ­  Lênin,   CNXH   khoa   học   đang   công   tác   trong   các   học   viện,   nhà  trường quân đội đào tạo bậc đại học và sau đại học  ở  khu vực   miền Bắc. Khảo cứu thực tiễn từ  khi triển khai thực hiện Nghị  quyết   số 94­NQ/ĐUQSTW ngày 29/4/1998 của ĐUQSTƯ (nay là QUTƯ)   về  “Xây dựng đội ngũ cán bộ  quân đội trong tình hình mới” đến   nay; đề xuất yêu cầu, giải pháp từ nay đến 2020. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu  * Cơ sở lý luận Luận án được xây dựng dựa trên cơ  sở  lý luận chủ  nghĩa   Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và xây dựng ĐNTT;  quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về  xây dựng ĐNTT  trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. * Cơ sở thực tiễn Cơ  sở  thực tiễn của luận án là thực trạng xây dựng ĐNTT   khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN;  kết quả  nghiên cứu, khảo sát thực tiễn của tác giả  và của các công trình   khoa học có liên quan. * Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện dựa trên cơ  sở  phương pháp luận  của chủ  nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp  nghiên cứu lý luận với khảo cứu thực tiễn, vận dụng tổng hợp các  phương pháp lịch sử  ­ lôgíc, hệ  thống ­ cấu trúc, phân tích ­ tổng   hợp, điều tra khảo sát và phương pháp chuyên gia. 6. Những đóng góp mới của luận án ­ Phân tích làm sáng tỏ quan niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa  học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; quan niệm và 
  4. 4 những vấn đề  có tính quy luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà trường QĐNDVN. ­  Khái quát  những kinh nghiệm thực tiễn xây dựng ĐNTT   khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN những năm   qua; đề  xuất  những  yêu cầu, giải pháp cơ  bản xây dựng ĐNTT   khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội vững mạnh,  đáp ứng tốt nhiệm vụ trong những năm tới. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án * Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm  quan niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các   nhà trường quân đội; đặc biệt là làm sáng tỏ quan niệm và những   vấn đề  có tính quy luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin  trong các nhà trường quân đội hiện nay.  * Ý nghĩa thực tiễn Kết quả  nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ  sở  khoa học phục vụ  hoạt  động lãnh đạo, chỉ  đạo và tổ  chức xây   dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội  hiện nay.  Luận án có thể  được sử  dụng làm tài liệu tham khảo   phục vụ  công tác giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học  ở  các  nhà trường quân đội. 8. Kết cấu của luận án Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3 chương (6  tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả  đã công bố có  liên quan đến đề  tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU  CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề  tài Nhà xã hội học học người Mỹ Daniel Bell trong tác phẩm: “The  Coming of Post ­ Industrial Society: A Venture in Social Forecasting” (Sự  xuất hiện của xã hội hậu công nghiệp: Hướng dẫn một dự  đoán xã  hội) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “xã hội hậu công nghiệp” và lao  động “áo cổ trắng”. Ông nhấn mạnh trong xã hội công nghiệp, vai trò  cơ bản thuộc về tư bản và lao động “áo cổ xanh”, còn trong “xã hội 
  5. 5 hậu công nghiệp” vai trò cơ bản thuộc về trí thức và lao động “áo cổ  trắng”. Nhà xã hội học nổi tiếng người Mỹ gốc Áo, Peter F.Drucker trong  cuốn “The Landmarks of Tomorrow” (Cột mốc của ngày mai) xuất bản   năm 1959 quan niệm “lao động tri thức” là những người có lượng kiến  thức và sự hiểu biết đáng kể về mặt lý thuyết như các bác sĩ, các luật  gia, các giáo viên, kế toán viên, các kỹ sư và nhất là các kỹ thuật viên tri  thức như: kỹ thuật viên máy tính, người thiết kế phần mềm, nhân viên  phân tích phòng thí nghiệm, kỹ thuật viên công nghiệp chế tạo... Nói khác  đi, khái niệm trí thức được diễn đạt thành những “lao động tri thức” và  “kỹ thuật viên tri thức”.  “Về  trí thức Nga”, Nhiều tác giả  (Nga), La Thành và Phạm   Nguyên Trường dịch. Đây là công trình tập hợp 12 bài viết của nhiều trí  thức trước Cách mạng tháng Mười (1917) của nước Nga thuộc Liên Xô   cũ và thời kỳ “hậu Xô viết”. Công trình này thể hiện được chính kiến  của các trí thức về trí thức rất đa dạng, có khi đối lập nhau nhưng đều  ghi nhận tinh thần học thuật nghiêm túc và với ý thức xã hội đáng trân   trọng. “Biết   trọng   dụng   người   tài,   Canađa   vượt   lên   trước   “bầy   sói””,  của   tác   giả   Jennifer   Lewingion.  Tác   giả   nhấn   mạnh   việc  Canađa đã trải qua một thời kỳ  phục hưng mạnh mẽ  trong nghiên  cứu và giáo dục đại học. Với chiến lược phát triển đúng đắn, hiện   nay Canađa đã thu hút được các chuyên gia hàng đầu thế  giới đến   làm việc tại quốc gia này, trở thành quốc gia “đi từ chỗ không được   xếp hạng để trở thành một nước được tham gia vào cuộc đua”. “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn   hưng đất nước” của Thẩm Vinh Hoa ­ Ngô Quốc Diệu (chủ biên)   do Nguyễn Như Diệm dịch. Các tác giả đã khái quát một cách tổng   thể về tư tưởng của Đặng Tiểu Bình cũng như sự vận dụng các tư  tưởng đó trong chiến lược xây dựng nhân tài  ở Trung Quốc. Cuốn  sách có giá trị tham khảo sâu sắc đối với việc thực hiện chính sách  cán bộ nói chung và chính sách đối  với trí thức, nhân tài nói riêng ở  Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. “Từ phần tử trí thức của giai cấp đến giai cấp của phần tử   trí thức” của tác giả Lưu Bảo Quốc. Nội dung của công trình này   cho rằng: “phần tử  trí thức” là nhưng ng ̃ ươi co ly t ̀ ́ ́ ưởng, co hoc ́ ̣  
  6. 6 thưc, đong gop cho xa hôi, giao duc ng ́ ́ ́ ̃ ̣ ́ ̣ ươi khac; là s ̀ ́ ản phẩm của  sự  phân hoá giai cấp trong xã hội loài người. Trong các chế  độ  xã  hội, trí thức chỉ  có thể  tồn tại dựa vào giai cấp nhất định với tư  cách là phần tử trí thức của giai cấp đó. Tuy nhiên, khi kinh tế  tri   thức xuất hiện, phần tử trí thức đã thể hiện được vị trí, vai trò của   mình và trở thành giai cấp độc lập. Đồng thời, trong xã hội kinh tế  tri thức thì tất  cả  các giai cấp  đều đang tiến từ  phần tử  trí thức   hoá, trở thành giai cấp của phần tử trí thức. Đây cũng sẽ là giai cấp  sau cùng của xã hội loài người để  đi đến xã hội không còn giai   cấp. Bài viết “Tổng quan về 5 trường đại học tổng hợp trong toàn   quân”  của tác giả  Lăng Tường đã đề  cập trực tiếp đến các nhà  trường của quân đội Trung Quốc, phân tích việc kiện toàn hệ thống   nhà trường quân sự, đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ  giảng viên, cán bộ khoa học quân sự. Liên quan trực tiếp đến ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các  trường quân đội về  cơ  bản chỉ  được đề  cập đến  ở  Liên Xô trước   đây. Chẳng hạn, cuốn sách, “Phương pháp giảng dạy các môn khoa   học xã hội”  của X.G. Lu­cô­nhin và V.V. Xê­rê­bri­an­ni­cốp (chủ  biên). Cuốn sách tổng kết những kinh nghiệm giảng dạy khoa học   xã hội ­ trong đó có khoa học Mác ­ Lênin ở các trường quân sự Liên  Xô, vận dụng những phương pháp và hình thức tiên tiến trong giảng   dạy khoa học xã hội, nhằm phổ biến kinh nghiệm giảng dạy cho tất  cả  giảng viên, đặc biệt là đối với những giảng viên mới bước vào  môi trường sư phạm. Tuy nhiên, đối với các chủ  thể  ở  nhà trường  quân sự phải vạch ra phương hướng phấn đấu cho họ kết hợp với  kiểm tra thường xuyên quá trình thực hiện nhằm nâng cao kiến thức   lý luận và nghiệp vụ sư phạm làm cơ sở để  củng cố niềm tin, thế  giới quan cộng sản chủ nghĩa và tâm lý vững chắc cho đội ngũ giảng  viên mới ở các trường quân sự. Ngoài quan niệm và các công trình nghiên cứu đã nêu, còn một   số quan niệm khác đánh giá về vai trò và tầm quan trọng của trí thức  như: ­ Lý thuyết Nhân tài 3C (3C Talent Formula) của Giáo sư Dave  Ulrich Đại học Michigan (Hoa Kỳ).
  7. 7 ­  Chính sách “tam tài”  của Trung Quốc  (“Bồi dưỡng nhân  tài, thu hút nhân tài và trọng dụng nhân tài”; “Lấy sự nghiệp để thu  hút nhân tài, lấy tình đồng bào để quy tụ nhân tài, lấy chính sách để  phát triển nhân tài”). 2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề  tài Chủ  đề  về  trí thức cũng được nhiều tác giả  nghiên cứu  ở  những góc độ  và phạm vi khác nhau. Trong những năm qua, đặc  biệt từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới đến nay, vấn đề  trí thức được quan tâm nghiên cứu tương đối hệ thống, qua một số  chương trình khoa học cấp nhà nước, công trình nghiên cứu độc  lập, luận văn, luận án và một số bài viết đáng lưu ý như: * Những công trình khoa học nghiên cứu mang tính tổng quan   về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam “Trí thức Việt Nam trong sự  nghiệp đổi mới xây dựng đất   nước” của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười; “Định hướng phát triển   đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá”   của tác giả Phạm Tất Dong (chủ biên); “Một số vấn đề về trí thức   Việt Nam” của Nguyễn Thanh Tuấn; “Trí thức Việt Nam trước yêu   cầu phát triển đất nước” của tác giả Nguyễn Đắc Hưng; “Xây dựng   đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011 ­ 2020”  do tác giả  Đàm  Đức Vượng làm chủ nhiệm. Các công trình nghiên cứu trên đã phân  tích yêu cầu của sự  nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại  hóa đất nước, của hội nhập quốc tế  đối với việc xây dựng, phát  triển ĐNTT Việt Nam, các nhóm trí thức thuộc các lĩnh vực khác  nhau; dự báo tình hình trong nước và thế  giới trong những năm tới   tác động đến việc xây dựng ĐNTT Việt Nam, từ đó nêu lên một số  giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm xây dựng ĐNTT Việt Nam cũng  như các nhóm trí thức đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. * Những công trình khoa học nghiên cứu về  xây dựng,   phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực và   các lực lượng trí thức khác nhau trong quá trình cách mạng “Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam   trong sự  nghiệp đổi mới” của tác giả  Ngô Thị  Phượng; “Trí thức   nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay ­ tiềm năng và phương  
  8. 8 hướng xây dựng” của tác giả Đỗ Thị Thạch; “Xây dựng đội ngũ trí   thức khoa học Mác ­ Lênin trong các trường đại học  ở  nước ta   hiện nay” của tác giả Phạm Văn Thanh; “Xây dựng đội ngũ trí thức   ngành kiến trúc trong công cuộc đổi mới  ở  nước ta hiện nay”  của  tác giả Lê Quang Quý; “Phát huy vai trò của trí thức ngành y tế Việt   Nam trong công cuộc đổi mới” của tác giả Nguyễn Thị Hoà Bình. Các  công trình khoa học trên đã phần nào làm rõ một số khía cạnh của  ĐNTT theo từng lĩnh vực cụ thể, đã đánh giá được thực trạng của  ĐNTT trong những năm qua và đưa ra những dự báo khoa học cho   sự  phát triển, phương hướng và biện pháp để  đổi mới quy hoạch   ĐNTT trong những năm tiếp theo...Tuy nhiên, các công trình này  chưa có điều kiện nghiên cứu và đề cập cụ thể về ĐNTT khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN và yêu cầu, giải pháp  xây dựng đội ngũ này trong giai đoạn cách mạng hiện nay. * Những công trình nghiên cứu khoa học có đề cập đến đội   ngũ trí thức, đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong quân đội   và các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam “Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân   văn   trong   Quân   đội   nhân  dân  Việt   Nam   hiện  nay”   của   tác   giả  Nguyễn Đình Minh; Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng “Xây dựng   đội ngũ trí thức quân đội trong thời kỳ  mới” do tác giả Nguyễn Mạnh  Hưởng làm chủ nhiệm; Đề tài khoa học cấp Tổng cục Chính trị “Xây   dựng đội ngũ cán bộ  đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn trong   quân đội thời kỳ  mới” của tác giả  Nguyễn Văn Quang;  “Xây dựng   đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân văn trong các trường đào tạo   sỹ  quan quân đội” của tác giả  Nguyễn Văn Tháp;  “Nâng cao năng  lực đấu tranh tư tưởng lý luận của của giáo viên khoa học xã hội và   nhân văn  ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”   của tác giả  Phạm Văn Thuần;  “Phát triển bản lĩnh chính trị  và tri   thức khoa học của giảng viên trẻ  khoa học xã hội nhân văn  ở  các   trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của tác giả  Lương Thanh Hân; “Suy nghĩ về xây dựng nguồn lực con người cho   quân đội trong tình hình hiện nay” của tác giả Đức Lê; “Phát huy   vai trò lực lượ ng trí thức quân đội trong xây dựng và bảo vệ  Tổ   quốc”  của tác giả  Lê Văn Dũng…  Những công trình khoa học 
  9. 9 trên phần nào làm rõ đượ c vai trò quan trọng của l ực l ượng trí  thức khác nhau trên các lĩnh vực, các chuyên ngành...trong quân  đội và các nhà trườ ng quân đội , từ đó đưa ra các phươ ng hướng  và giải pháp cụ  thể  để  phát huy vai trò của lực lượ ng này trong   quá trình xây dựng quân đội và phát triển đất nướ c. 3. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công  bố và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết 3.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công   bố  Nghiên cứu, bàn luận về trí thức và xây dựng ĐNTT, các công  trình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong phân tích khái niệm,  làm rõ đặc điểm, vai trò của trí thức Việt Nam nói chung và trí thức  QĐNDVN nói riêng dưới nhiều khía cạnh khác nhau.  Theo đó, việc  nhận thức về  khái niệm,  đặc  điểm, vai trò của trí thức có sự  vận  động qua từng giai  đoạn phát triển của xã hội và gắn với quá trình  biến đổi các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở mỗi một  quốc gia. Các công trình khoa học trên đều khẳng định: trí thức có vai  trò quan trọng  đối với quá trình phát triển của các quốc gia, dân  tộc. Do vậy, việc  đầu tư  cho GD&ĐT, KH&CN, từ  đó  để  hình  thành và  phát triển lực lượng trí thức lớn mạnh là  vấn đề  được  quan tâm và đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển của các  quốc gia, dân tộc. Đối với Việt Nam, trí thức từ xưa đến nay luôn là lực lượng   được  xã hội  hết sức coi trọng.  Đặc biệt, dưới sự  lãnh  đạo của  Đảng Cộng sản Việt Nam, ĐNTT ngày càng có điều kiện để  phát  huy vai trò, sứ mệnh của mình đối với đất nước, đồng thời, là bộ  phận không thể  thiếu trong khối liên minh giai cấp của Đảng và  Nhà nước ta. Hiện nay, trước yêu cầu phát triển đất nước trong bối  cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế  tri thức,  Đảng, Nhà nước ngày càng nhận thức đầy đủ, đúng đắn và sâu sắc  về vai trò của trí thức. Những công trình khoa học nêu trên c ũng đã đạt được nhiều  kết quả quan trọng khi đi sâu phân tích thực trạng của trí thức Việt  Nam và trí thức QĐNDVN. Bên cạnh đó, chỉ ra nhiều mặt còn hạn 
  10. 10 chế  của trí thức Việt Nam trong giai  đoạn hiện nay. Những hạn  chế này được luận giải dưới nhiều khía cạnh: về số lượng, về cơ  cấu, về chất lượng của đội ngũ này. Từ đó, các công trình đã chỉ ra  nguyên nhân của những hạn chế. Trong đó, nguyên nhân được đề  cập nhiều nhất dẫn  đến các  hạn chế  nêu trên là  những bất cập  trong chính sách xây dựng và phát triển ĐNTT. Những công trình khoa học đã được công bố trên cơ  sở phân  tích quá trình xây dựng ĐNTT  phải gắn với nhiều yếu tố như: xu  thế  phát triển của thời  đại;  chiến lược phát triển  đất nước trong  điều kiện mới; thực tiễn phát triển kinh tế ­ xã hội ở Việt Nam…  đã đề  xuất một số giải pháp cơ  bản xây dựng ĐNTT đáp  ứng yêu  cầu của các giai đoạn cách mạng. Đó là cơ sở quan trọng cho Đảng  và Nhà nước hoạch  định  đường lối,  chính sách  xây dựng ĐNTT  trong giai đoạn mới. 3.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết Căn cứ vào đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã xác định, đề  tài luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ  một số vấn đề cơ  bản sau: Thứ  nhất,  làm rõ, góp phần  thống nhất về  mặt nhận thức  quan niệm, đặc điểm, vai trò ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các  nhà trường QĐNDVN. Làm rõ quan niệm và những vấn đề có tính  quy   luật   xây   dựng  ĐNTT  khoa  học  Mác   ­   Lênin  trong   các   nhà  trường QĐNDVN. Thứ hai, khảo sát, đánh giá thực trạng và rút ra một số kinh  nghiệm từ thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong  các nhà trường QĐNDVN.  Thứ ba, làm rõ những yếu tố tác động và yêu cầu xây dựng  ĐNTT  khoa học  Mác ­  Lênin trong các nhà  trường QĐNDVN hiện  nay; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp vừa có tính cơ bản, vừa  cấp thiết nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu nhất đang cản trở  quá trình xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân đội hiện nay để hiện thực hóa những yêu cầu đã xác định. Tóm lại, những vấn đề  đặt ra  ở trên, đến nay chưa có công  trình, đề  tại khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ  thống,   chuyên sâu cả về lý luận, thực tiễn và giải pháp để xây dựng, phát  triển, phát huy vai trò của ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các 
  11. 11 nhà trường quân đội trong sự  nghiệp xây dựng quân đội, củng cố  quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, đề tài luận án mà tác giả lựa  chọn làm luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành CNXH khoa học  không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố.
  12. 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ  TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC ­ LÊNIN TRONG CÁC  NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 1.1. Quan niệm, đặc điểm, vai trò của đội ngũ trí thức khoa  học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt  Nam 1.1.1. Quan niệm  đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin   trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam Bằng phương pháp tiếp cận lịch sử  ­ logic, trên cơ  sở  quan   điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và một số  kết quả nghiên cứu về trí thức, tác giả luận án đưa ra quan niệm:  Đội   ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  Quân đội  nhân dân Việt Nam là một bộ phận của đội ngũ trí thức quân đội,  bao  hàm trong đó số lượng, chất lượng và cơ cấu, có khả năng đáp ứng   yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học Mác ­ Lênin  trong các nhà  trường quân đội ở từng giai đoạn cách mạng. Quan niệm chỉ các yếu tố cơ bản sau: Số lượng trí thức khoa học Mác ­ Lênin là điều kiện rất quan  trọng  để   tạo  thành  ĐNTT   khoa  học   Mác   ­   Lênin  trong   các   nhà  trường  quân đội. Trong từng giai đoạn cách mạng, căn cứ  nhiệm   vụ quân đội, nhiệm vụ của các nhà trường quân đội để xác định số  lượng, biên chế, tổ  chức trí thức  khoa học  Mác ­ Lênin cho phù  hợp. Chất lượng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng và quyết định nhất đến   việc hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học về chủ  nghĩa Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội.  Trong từng giai  đoạn cách mạng, tuỳ thuộc nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố  quốc  phòng bảo vệ   Tổ   quốc,   nhiệm  vụ  và   phương  hướng   xây  dựng   nhà   trường   để   đề   ra   yêu   cầu   về   phẩm   chất,   năng   lực,  phương pháp tác phong công tác của trí thức khoa học Mác ­ Lênin  trong các nhà trường quân đội cho phù hợp. Cơ  cấu  ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân đội  là sự  sắp xếp, tổ  chức các bộ  phận, các trí thức theo 
  13. 13 những yêu cầu và tiêu chí nhất định, tạo nên tính chỉnh thể  của  ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội, bảo  đảm cho việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo quy định.  Như  vậy, các yếu tố  trên có mối quan hệ  chặt chẽ  và tác  động biện chứng với nhau. Vì thế, một nội dung quan trọng trong   xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân  đội là phải xây dựng đội ngũ này đủ  về  số  lượng, có chất lượng   cao và cơ cấu hợp lý. 1.1.2.   Đặc   điểm   của   đội   ngũ   trí   thức   khoa   học   Mác   ­   Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam Đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   QĐNDVN mang những đặc điểm chung, nhưng có những nét riêng,   đặc thù, có thể khái quát những đặc điểm của đội ngũ này là: Một là,  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   QĐNDVN tuyệt đại đa số là đảng viên, sĩ quan quân đội, có bản lĩnh  chính trị vững vàng.  Hai là,  ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  QĐNDVN được đào tạo cơ  bản, chuyên sâu từ  nhiều nguồn khác  nhau, nhưng phần đông chủ yếu là trong quân đội. Ba là,  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các  nhà  trường   QĐNDVN  vừa  am hiểu sâu sắc lý luận  Chủ  nghĩa Mác – Lênin,  vừa nắm chắc  thực tiễn  hoạt động  quân sự, quốc phòng bảo vệ  Tổ quốc và xây dựng lực lượng vũ trang. Bốn là,  ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  QĐNDVN thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là giáo dục ­ đào   tạo và nghiên cứu khoa học chuyên sâu về  chủ  nghĩa Mác ­ Lênin,  đồng thời, sẵn sàng nhận nhiệm vụ khác được quân đội và đơn vị  giao. Năm là,  ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  QĐNDVN thực hiện nhiệm vụ, học tập và rèn luyện trong môi  trường kỷ luật tự giác, nghiêm minh của tổ chức quân sự. 1.1.3. Vai trò của đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong   các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam Một là, đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân đội là là lực lượng nòng cốt góp phần xây dựng, đấu tranh, bảo vệ  và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội.
  14. 14 Hai là, đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội góp phần xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ trong  quân đội. Ba là, đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân đội có vai trò nòng cốt, quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động đào   tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức trong các nhà trường quân đội. 1.2. Quan niệm và những vấn đề có tính quy luật xây dựng đội   ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội   nhân dân Việt Nam 1.2.1. Quan niệm về xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác ­   Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam Quan  niệm   về  ĐNTT   khoa học  Mác   ­  Lênin trong  các   nhà  trường  quân đội  là hệ  quả  trực tiếp của quan niệm về  trí thức  và  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trường   quân đội.  Từ  hướng tiếp cận và những nội dung trên có thể  quan niệm:  Xây dựng   đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội   nhân dân Việt Nam là tổng thể các chủ  trương, nội dung, hình thức,   biện pháp về tư tưởng, tổ chức và chính sách của các chủ thể, các lực   lượng nhằm tạo nên đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin có số lượng   và cơ cấu hợp lý, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ  của các  nhà trường quân đội trong từng giai đoạn cách mạng. Quan niệm trên chỉ ra những vấn đề  cơ bản cấu thành hoạt   động xây dựng, phản ánh mục tiêu, chủ thể, lực lượng và nội dung  xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân  đội hiện nay.  Mục  tiêu  xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các   nhà trường quân đội hiện nay là xây dựng đội ngũ này có đầy đủ  phẩm chất, năng lực chuyên môn, có chất lượng cao, số lượng và   cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của các nhà trường quân  đội  ở  mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, góp phần xây dựng  quân đội, củng cố  quốc phòng, bảo vệ  Tổ  quốc trong giai đoạn  hiện nay. Chủ   thể,  các lực lượng tham gia  và  đối  tượng xây  dựng   ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội. Trong quá trình xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong  các nhà trường quân đội thì chủ  thể  xây dựng là các tổ  chức, các 
  15. 15 lực lượng có liên quan trong và ngoài quân đội, bao gồm: hệ thống  tổ chức đảng, cơ quan chức năng, hệ thống cán bộ chủ trì các cấp   trong quân đội và các nhà trường quân đội. Trong đó   có  chủ  thể  lãnh đạo xây dựng, chủ thể chỉ đạo (chủ trì) xây dựng, chủ thể tổ  chức thực hiện xây dựng… Các lực lượng tham gia, phối hợp xây dựng ĐNTT khoa học  Mác ­ Lênin là các tổ chức, các lực lượng và toàn thể cán bộ, đảng  viên trong nhà trường quân đội. Đối tượng xây dựng là tất cả  trí thức khoa học Mác ­ Lênin  trong các nhà trường quân đội. ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong  các nhà trường quân đội vừa là đối tượng xây dựng, vừa là chủ thể  trực tiếp quyết định, xây dựng đội ngũ trong các nhà trường quân  đội. Nội dung xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các   nhà trường QĐNDVN rất toàn diện như: phẩm chất, năng lực, đạo  đức, lối sống, trình độ chuyên môn, cơ cấu, số lượng, chất lượng,   các mối quan hệ…trong đó tập trung nhất là kết quả  xây dựng   ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội có số  lượng, cơ  cấu phù hợp, chất lượng ngày càng cao, sẵn sàng nhận  và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Hình thức, biện pháp xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin   trong các nhà trường QĐNDVN  rất phong phú, đa dạng, gắn với  quá trình xây dựng quân đội; là sự kết hợp đồng bộ, chặt chẽ của   công   tác   tư   tưởng,   tổ   chức,   chính   sách   trong   quy   hoạch,   tạo   nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, đánh giá, bố  trí sử  dụng  đội ngũ này trong các nhà trường quân đội. 1.2.2. Những vấn đề có tính quy luật xây dựng đội ngũ trí thức   khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt   Nam Xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân đội vừa chịu sự chi phối của những quy luật chung, vừa chịu sự  chi phối của quy luật đặc thù. Để xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà trường quân đội thực sự vững mạnh, có số lượng  đủ, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giảng 
  16. 16 dạy và nghiên cứu khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân  đội cần quán triệt và tuân thủ những vấn đề có tính quy luật sau: Một là,  xây dựng  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trường quân đội phải quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm xây  dựng đội ngũ trí thức và xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội của Đảng   trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hai là,  xây dựng  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trường quân đội phải coi trọng phát huy dân chủ, tạo điều kiện để  đội ngũ trí thức phát huy sáng tạo, đồng thời duy trì nghiêm nguyên   tắc tính Đảng trong hoạt động của trí thức. Ba là,  xây dựng  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trường quân đội phải được tiến hành một cách toàn diện, nhưng có  trọng tâm, trọng điểm với các giải pháp đồng bộ và những hình thức,  bước đi thích hợp, phù hợp với điều kiện khả năng thực tế của các  nhà trường quân đội. Bốn là, quá trình xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong  các nhà trường quân đội phải kết hợp chặt chẽ giữa sự quan tâm của  tổ chức với sự nỗ lực phấn đấu của mỗi trí thức. Năm là, phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành,  mọi lực lượng,  đặc biệt là  vai trò lãnh  đạo của các cấp uỷ  đảng  trong xây dựng  ĐNTT  khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà  trường  quân đội. Kết luận chương 1 Đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân   đội  là   bộ   phận   quan   trọng   của   ĐNTT   trong   nhà   trường  QĐNDVN; phản ánh và biểu hiện trực tiếp bản chất xã hội chủ  nghĩa của nền giáo dục Việt Nam. Họ  có những đặc điểm chung   của trí thức Việt Nam, đồng thời, có những đặc điểm riêng được  quy định bởi tính đặc thù của hoạt động quân sự. Xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội là tổng thể các hoạt động về  tư tưởng, tổ  chức và chính  sách của các  chủ  thể, các lực lượng  nhằm xây dựng ĐNTT khoa  học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội có số  lượng và cơ 
  17. 17 cấu hợp lý, chất lượng cao đáp  ứng yêu cầu xây dựng quân đội,  tăng cường quốc phòng bảo vệ  Tổ  quốc. Đó là quá trình không  phải “từ không đến có”, trong đó có xây dựng mới, tạo ra những trí   thức khoa học Mác ­ Lênin mới; có phát triển, nâng cao chất lượng  trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội hiện   tại theo yêu cầu mới, tạo nên một đội ngũ trí thức có sự kế thừa và   phát triển, bảo đảm về  số lượng, cơ cấu hợp lý và có chất lượng  cao. Các chủ thể của quá trình xây dựng cần nhận thức đầy đủ  và   thực hiện tốt nội dung của những vấn đề  có tính quy luật xây dựng   ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội. Thực  hiện tốt các nội dung này chính là điều kiện bảo đảm cho quá trình  xây dựng mang lại chất lượng, hiệu quả thiết thực nhất, đồng thời  khắc phục được những hạn chế trong quá trình xây dựng ĐNTT khoa  học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay. Chương 2 THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC ­  LÊNIN TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN  VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam 2.1.1. Những thành tựu cơ bản và nguyên nhân  * Những thành tựu cơ bản Hiện nay, hệ thống nhà trường quân đội thuộc phạm vi đề  tài luận án nghiên cứu,  gồm có:  11 học viện, 11 trường sĩ quan  đào tạo trình độ đại học trở lên và 1 trường đại học ; trong đó khu  vực miền Bắc  có  9 học viện (Học viện Quốc phòng, Học viện  Chính trị, Học viện Kỹ  thuật quân sự, Học viện Khoa học quân   sự, Học viện Quân y, Học viện Hậu cần, Học viện Biên phòng,   Học viện Phòng không ­ Không quân, Học  viện Kỹ  thuật mật   mã),  7  trường  sĩ quan,  đại  học  quân  đội  (Trường  Sĩ  quan  Lục  quân 1, Trường Sĩ quan Pháo binh, Trường Sĩ quan Phòng hoá,   Trường   Sĩ   quan  Đặc  công,   Trường   Sĩ   quan  Tăng   ­   Thiết   giáp,  
  18. 18 Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Đại học Văn hoá Nghệ  thuật  Quân đội). ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân   đội có 342 người là giảng viên, nghiên cứu viên đang trực tiếp  giảng dạy và nghiên cứu về khoa học Mác ­ Lênin. Trong số này có  01 giáo sư, 19 phó giáo sư, 66 tiến sĩ, 180 thạc sĩ và 96 cử nhân đại   học. Những thành tựu đạt được: Một là, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính  trị, cấp uỷ, chỉ huy các nhà trường quân đội đã có nhiều chủ trương,   biện pháp tích cực xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các  nhà trường quân đội. Hai là,  nội dung, hình thức, biện pháp  xây dựng  ĐNTT  khoa  học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội bảo đảm tính toàn  diện, luôn có sự đổi mới, được vận dụng linh hoạt, phù hợp với đặc  điểm, điều kiện của quân đội. Ba là,  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân đội có sự phát triển về số lượng, cơ cấu ngày càng phù hợp,   chất lượng không ngừng được nâng cao, có xu hướng phát triển  tốt, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội. * Nguyên nhân của thành tựu Một là,  Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên coi trọng,   quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin  trong các nhà trường quân đội. Hai là, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng Cục Chính   trị, cấp uỷ, chỉ huy các nhà trường quân đội đã nhận thức đúng vai trò của   ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong nhà trường quân đội, thường xuyên  quan tâm chỉ đạo và quán triệt, cụ thể hoá quan điểm và chiến lược cán   bộ vào xây dựng đội ngũ này. Ba là, sự  tích cực, chủ  động, nỗ  lực cố  gắng phấn đấu của   ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội. Bốn là, môi trường, điều kiện làm việc của ĐNTT khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội ngày càng được cải  thiện và đảm bảo tốt hơn. 2.1.2. Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân * Những hạn chế chủ yếu
  19. 19 Một là,  một số  cấp  ủy, tổ  chức  đảng chưa nêu cao trách  nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, chưa có kế hoạch cơ bản, ổn định,   dài hơi trong xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trường quân đội. Hai là,  thực hiện nội dung, hình thức, biện pháp  xây dựng  ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội  còn  nhiều hạn chế; công tác đào tạo, bố  trí, sử  dụng, đãi ngộ  trí thức   khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội có mặt chưa  phù hợp với đặc thù của đội ngũ này. Ba là,  ĐNTT  khoa học Mác ­ Lênin trong các  nhà trường   quân đội vẫn còn những điểm hạn chế, có mặt chưa tương xứng   với yêu cầu nhiệm vụ, một số nhà trường có sự hẫng hụt giữa các   thế hệ. * Nguyên nhân của hạn chế Một là, nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, chỉ huy   nhà trường quân đội về  vị  trí, vai trò của ĐNTT khoa học Mác ­  Lênin chưa đầy đủ, chưa xứng tầm với yêu cầu xây dựng đội ngũ  này. Hai là,  môi trường, điều kiện bảo đảm còn nhiều bất cập,  chưa phù hợp với tính chất đặc thù lao động của trí thức khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội. Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và sử  dụng trí  thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội  còn  nhiều hạn chế. Bốn là, cơ chế  quản lý ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các  nhà trường quân đội còn nhiều bất cập, hạn chế. Năm là, một bộ phận trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các  nhà trường quân đội thiếu sự  nỗ  lực vươn lên, thiếu tinh thần say   mê, sáng tạo trong nghiên cứu, giảng dạy. 2.2. Một số  kinh nghiệm rút ra từ  thực tiễn xây dựng  đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  Quân đội nhân dân Việt Nam 2.2.2. Một số  kinh nghiệm rút ra từ  thực tiễn xây dựng   đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   Quân đội nhân dân Việt Nam
  20. 20 Từ  thực trạng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trường quân đội và thực trạng xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­   Lênin trong các nhà trường quân đội, có thể  rút ra một số  kinh  nghiệm sau: Một là,  coi trọng công tác tuyển chọn, đào tạo ĐNTT  khoa  học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội. Hai là, xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trường quân đội phải gắn kết chặt chẽ  với xây dựng đội ngũ cán  bộ, đảng viên. Ba là, xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà  trườ ng quân đội phải bảo đảm tính toàn diện, trong đó đặc biệt  quan tâm đến chất lượ ng, đáp  ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt  và lâu dài. Bốn là, tiến hành đồng bộ  công tác tư  tưởng, tổ  chức và  chính sách, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho  ĐNTT khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà trường quân đội được học tập, rèn luyện nâng  cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ  được  giao. Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa phát huy trách nhiệm của tổ  chức   để   xây   dựng  ĐNTT  khoa   học   Mác   ­   Lênin   trong   các   nhà  trường quân đội với nêu cao ý thức trách nhiệm, tính tích cực, chủ  động trong xây dựng của chính đội ngũ này. Kết luận chương 2 Thời gian qua, việc xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin  trong các nhà trường quân đội đã thu được  nhiều kết quả  quan  trọng, tiếp tục có sự phát triển về số lượng và tiến bộ đáng kể về  chất lượng, trình độ  chuyên môn; có phẩm chất chính trị  tốt, lập  trường vững vàng và có tiềm năng to lớn trên các mặt hoạt động  của mình; cơ cấu ngày càng hợp lý. Cùng với sự phát triển của đất   nước, của quân đội ta, ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin sẽ là một lực  lượng lớn mạnh trong các nhà trường quân đội của nước ta. Tuy nhiên, việc xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong  các nhà trường quân đội vẫn còn bộc lộ  những hạn chế, khuyết   điểm cả  trong nhận thức, trong lãnh đạo, chỉ  đạo và tổ chức thực   hiện; còn thiếu tính dự  báo, chưa theo kịp sự  phát triển của tình  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2