intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y tế công cộng: Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và hiệu quả can thiệp truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ nuôi con bằng sữa mẹ cho các bà mẹ có con 0-25 tháng tuổi tại 3 tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình, năm 2012- 2015

Chia sẻ: Co Ti Thanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

94
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của phụ nữ có con từ 0 - 25 tháng tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình năm 2012. Đánh giá hiệu quả của biện pháp can thiệp truyền thông giáo dục sức khoẻ đối với kiến thức, thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ của các phụ nữ có con dưới 2 tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình từ năm 2013 đến 2015.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y tế công cộng: Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và hiệu quả can thiệp truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ nuôi con bằng sữa mẹ cho các bà mẹ có con 0-25 tháng tuổi tại 3 tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình, năm 2012- 2015

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ------------------*----------------- ĐẶNG CẨM TÚ THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 0 - 25 THÁNG TUỔI TẠI 3 TỈNH HÀ NAM, QUẢNG BÌNH, LÀO CAI VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP, 2013-2015 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG HÀ NỘI - 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG ------------------*----------------- ĐẶNG CẨM TÚ THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 0 - 25 THÁNG TUỔI TẠI 3 TỈNH HÀ NAM, QUẢNG BÌNH, LÀO CAI VÀ HIỆU QUẢ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP, 2013-2015 Chuyên ngành: Y tế công cộng Mã số: 62 72 03 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hoàng Văn Tân 2. PGS.TS. Khương Văn Duy HÀ NỘI - 2018
  3. Công trình được hoàn thành tại: Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hoàng Văn Tân 2. PGS.TS. Khương Văn Duy Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án đước bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Viện họp tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, vòa hồi … giờ …, ngày … tháng … năm 2018 Có thể tìm luận án tại: 1. Thư viện Quốc gia 2. Thư viện Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
  4. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là phương pháp nuôi dưỡng trẻ tự nhiên mang lại lợi ích tối ưu nhất cho sự sống còn, lớn lên và phát triển của trẻ. Cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, tiếp tục cho ăn bổ sung hợp lý và duy trì bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi bảo đảm sự tăng trưởng và phát triển thể chất, tinh thần và trí tuệ của trẻ [1]. Nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp can thiệp có hiệu quả nhất trong giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cho trẻ. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn góp phần quan trọng giảm tỷ lệ mắc viêm phổi và tiêu chảy là 2 nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ nhỏ. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) chỉ riêng với can thiệp cho trẻ bú sớm và bú mẹ hoàn toàn (BMHT) trong 6 tháng đầu sẽ làm giảm 1,3 triệu ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi mỗi năm trên toàn thế giới [1]. Nuôi con bằng sữa mẹ còn có tác động tích cực đến sức khỏe bà mẹ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng các bà mẹ cho con bú giảm nguy cơ mắc ung thư vú và buồng trứng là 2 nguy cơ hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ. Tình trạng NCBSM ở Việt Nam cũng tương tự như các nước đang phát triển khác. Theo số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy chỉ có chỉ có 26,5% số bà mẹ cho con bú sớm và 24,3% số bà mẹ cho con BMHT trong 6 tháng đầu. Để góp phần cải thiện thực hành cho trẻ bú sớm và BMHT, đồng thời chuyển tải các chính sách, hướng dẫn vào thực tế chúng tôi thực hiện đề tài “Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và hiệu quả can thiệp truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ nuôi con bằng sữa mẹ cho các bà mẹ có con 0-25 tháng tuổi tại 3 tỉnh: Hà Nam, Lào Cai, Quảng Bình, năm 2012- 2015” với các mục tiêu sau: 1. Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của phụ nữ có con từ 0 - 25 tháng tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình năm 2012. 2. Đánh giá hiệu quả của biện pháp can thiệp truyền thông giáo dục sức khoẻ đối với kiến thức, thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ của các phụ nữ có con dưới 2 tuổi tại tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình từ năm 2013 đến 2015.
  5. 2 Những đóng góp mới của luận án Kết quả của luận án sẽ là cơ sở khoa học cho các giải pháp can thiệp truyền thông nâng cao tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ, một trong những ưu tiên trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Điểm mới của luận án là đúc kết ra mô hình sinh hoạt câu lạc bộ, truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức và tiến tới thay đổi hành vi của cộng đồng trong việc khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ. Luận án gồm 178 trang, 34 bảng, 9 biểu đồ và 181 tài liệu tham khảo, trong đó có 112 tài liệu nước ngoài. Về bố cục, phần đặt vấn đề 3 trang, tổng quan tài liệu 30 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 21 trang, kết quả nghiên cứu 47 trang, bàn luận 26 trang, kết luận 2 trang, khuyến nghị 2 trang.
  6. 3 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ Nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp tự nhiên, kinh tế và hiệu quả bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Kinh nghiệm thực tế và kết qủa của nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định các lợi ích của NCBSM đối với sự lớn lên và phát triển toàn diện của trẻ; giảm nguy cơ bệnh tật cho mẹ và lợi ích kinh tế cho cộng đồng. 1.1.1. Lợi ích đối với trẻ Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất bảo đảm cho sự sống còn và phát triển tối ưu cho trẻ em mà không có một loại thức ăn nào có thể thay thế được. Sữa mẹ có đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết và dễ cho trẻ tiêu hoá, hấp thu. Cùng với sự lớn lên của trẻ, sữa mẹ thay đổi số lượng để đáp ứng nhu cầu thay đổi đó kể cả số lượng sản xuất trong ngày và cho từng bữa bú. Một số thành phần trong sữa mẹ cũng thay đổi để đáp ứng phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ. Các phân tích về thành phần và số lượng sữa, các nhà khoa học đã khẳng định là nếu bà mẹ khỏe mạnh, dinh dưỡng, nghỉ ngơi đầy đủ sẽ cung cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ trong 6 tháng mà không cần bất cứ thức ăn, nước uống nào khác [176], [171]. Chính vì thế, WHO khuyến khích các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu có thể cải thiện sự tăng trưởng và phát triển, kết quả học tập và thậm chí cả khả năng thu nhập của trẻ trong tương lai [170]. Đồng thời WHO cũng chỉ ra rằng việc NCBSMHT trong 6 tháng đầu đời là cách tốt nhất phòng tránh tử vong cho trẻ em, ước tính có thể giảm hơn một triệu ca tử vong ở trẻ trên toàn thế giới mỗi năm [172]. Vì vậy, WHO khuyến cáo cho tất cả các bà mẹ cần cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cho ăn bổ sung hợp lý khi trẻ được tròn 6 tháng và tiếp tục bú mẹ cho đến 24 tháng hoặc lâu hơn [171], [59]. 1.1.2. Lợi ích đối với bà mẹ Khi trẻ bú sẽ kích thích tuyến yên sản xuất oxytocin, vì thế cho con bú sớm ngay sau khi đẻ sẽ giúp tử cung co hồi tốt, giảm nguy cơ chảy máu sau đẻ [171]. Các bà mẹ cho con bú thường giảm cân nhanh hơn, đồng thời ít nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường type II, ung thư vú, ung thư buồng trứng, loãng xương. Hàm lượng oxytocin trong máu cao hơn nên có thể giảm căng thẳng và chứng trầm cảm ở bà mẹ sau khi sinh [138], [109]. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu làm ức chế hoạt động của buồng trứng, sẽ làm bà mẹ chậm có kinh trở lại, vì vậy nuôi con bằng sữa mẹ có tác dụng như một biện pháp tránh thai tự nhiên [138]. Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy rằng nếu bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu và không có dấu hiệu có kinh nguyệt trở lại thì khả năng mang thai là dưới 2% [128]. 1.2. Thực trạng kiến thức và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ 1.2.1. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới Lợi ích của sữa mẹ đã được khẳng định trong trong rất nhiều nghiên cứu và đã được chứng minh rõ ràng trong thực tế. Phần lớn các bà mẹ ở các nước trên thế giới hiểu biết và ủng hộ NCBSM, tuy nhiên kiến thức và thực hành về cho trẻ bú sớm và BMHT còn hạn chế. Nhìn chung, thực hành NCBSM ở các ở các nước thu nhập thấp và trung bình tốt hơn ở các nước thu nhập cao với hầu hết các bà mẹ đều cho con bú và có đến hơn 60% kéo dài đến 20- 23 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ cho con bú sớm không đạt được như mong muốn và cũng chỉ có 37% số trẻ được BMHT trong 6 tháng [167].
  7. 4 Lý do số bà mẹ cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu thấp nhìn chung là giống nhau ở hầu hết các nghiên cứu trên thế giới. Mẹ không đủ sữa, phải đi làm sớm, mẹ hoặc con bị bệnh là những lý do chính bà mẹ không cho con bú hoàn toàn và cai sữa sớm [118], [133], [178]. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy có khoảng 8% số bà mẹ không cho con bú vì không thích làm công việc này [156]. 1.2.2. Kiến thức, thái độ và thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam Kiến thức, niềm tin là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc cho con BMHT trong 6 tháng đầu. Một số nghiên cứu cho thấy rằng nhiều bà mẹ không tin sữa mẹ có đủ chất cho trẻ phát triển đến 6 tháng tuổi, ví dụ trong một khảo sát thực hiện online với 509 bà mẹ tham gia, có 30,3% bà mẹ cho rằng sữa mẹ không đủ chất và lượng để cung cấp cho bé đến 6 tháng tuổi [54]. Trong khi các quảng cáo của nhiều hãng sữa công thức ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý và thực hành của bà mẹ về cho trẻ BMHT [16]. Tác động của các thành viên trong gia đình, về các thực hành truyền thống cũng ảnh hưởng nhiều đến việc cho bú sớm và BMHT. Các cặp vợ chồng ở cùng bố mẹ thường phải theo hướng dẫn theo kinh nghiệm của mẹ chồng hoặc mẹ đẻ cho trẻ ăn sam sớm với nhận thức là để trẻ cứng cáp hơn. Mặt khác, sự thiếu sự quan tâm từ phía gia đình như trong giai đoạn cho con bú, hay các quan niệm cho rằng sữa mẹ không cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong 6 tháng đầu, sữa mẹ không tốt cũng là các rào cản đối với BMHT. 1.3. Tác động của truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng truyền thông đóng vai trò quan trọng đối với NCBSM cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Những thông tin đúng sẽ cung cấp thêm kiến thức, thay đổi thái độ và cải thiện thực hành theo hướng tích cực, ngược lại các quảng cáo hay những gói dịch vụ khuyến mại của các hãng sữa thường làm giảm niềm tin vào sữa mẹ và ảnh hưởng nhiều đến các thực hành NCBSM. Tại Việt Nam, từ những năm đầu của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu đã khẳng định về ảnh hưởng lớn đến thực hành NCBSM. Kết quả nghiên cứu của Dương Văn Đạt và cộng sự cho thấy có tới 98% bà mẹ tiếp cận với các hãng sữa trong thời kỳ mang thai và sau sinh, trong đó có tới 53% bà mẹ quyết định mua sữa công thức sau khi nhận được những nội dung quảng cáo này [96], [97], [95]. 1.4. Một số chương trình can thiệp cải thiện kiến thức, thái độ, thực hành NCBSM 1.4.1. Một số mô hình trên thế giới Có khá nhiều chương trình can thiệp thúc đẩy kiến thức và thực hành NCBSM ở nhiều nước trên thế giới. Tìm hiểu các số liệu thứ cấp trên thư viện Pubmed, Medline, Cochrane Library, EMBASE và của WHO từ tháng 5/2012 đến 27/11/2012 cho kết quả có 372 chương trình can thiệp được thực hiện, trong đó có 111 nghiên cứu sử dụng can thiệp truyền thông dựa và cộng đồng, 21 can thiệp tại cộng đồng và 43 nghiên cứu kết hợp can thiệp ở cộng đồng và ở các dịch vụ y tế. Trong số 111 nghiên cứu can thiệp truyền thông dựa vào cộng động có 27 nghiên cứu ở các nước đang phát triển. Các can thiệp ở những nghiên cứu này cũng chủ yếu tiến hành các truyền thông cá nhân, truyền thông nhóm, thăm hộ gia đình và có thêm hình thức gọi điện thoại hỏi thăm, tư vấn, khuyến khích các bà mẹ. Từ các nghiên cứu đã thực hiện ở các nước trên thế giới, có thể thấy rằng, hiệu quả các can thiệp truyền thông dựa vào cộng đồng có ý nghĩa nâng cao nhận thức, kiến thức cho các bà
  8. 5 mẹ và những người thân để tạo lập một môi trường hỗ trợ cho các bà mẹ thực hành những hành vi đúng. 1.4.2. Một số mô hình tại Việt Nam Mô hình tư vấn dinh dưỡng “Mặt trời bé thơ” được thành lập dựa trên hệ thống y tế công lập, thiết kế các hoạt động cộng đồng, truyền thông và hỗ trợ tiếp cận đến các phòng tư vấn dinh dưỡng. Mô hình được triển khai tại 15 tỉnh, thành trên cả nước gồm: Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắc Lắc, Đắc Nông, Khánh Hòa, Vĩnh Long, Tiền Giang và Cà Mau; nhiều địa phương đã ghi nhận những cải thiện đáng kể trong cách thức nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ nhỏ. Sau 5 năm triển khai, Dự án đã hỗ trợ thành lập gần 800 phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” tại các cơ sở y tế của 15 tỉnh trên cả nước (và mở rộng thêm 250 phòng vào cuối kỳ dự án năm 2014). Riêng tại Hà Nội, đã có 121 phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” được thành lập trên 12 huyện, từ năm 2009 đến nay số lượng phòng tư vấn “Mặt trời bé thơ” đã tăng gấp 7 lần số lượng phòng tư vấn ban đầu, với số lượt tư vấn trung bình tại mỗi phòng là trên dưới 100 lượt/tháng. Mô hình “Tham gia của người cha về NCBSM ở Hải Dương”. Đây là một can thiệp sử dụng thiết kế phỏng thực nghiệm có đối chứng và so sánh trước sau, được triển khai trong giai đoạn từ tháng 5/2010 đến đến tháng 9/2011. Địa bàn can thiệp là CHILILAB, là thực địa của Trường Đại học Y tế công cộng, thị xã Hải Dương. Nguyên tắc của triển khai can thiệp là lồng ghép với các hoạt động chăm sóc sức khỏe thường quy của địa phương. Địa bàn can thiệp là 3 phường và 4 xã của thị xã Chí Linh - Hải Dương. Địa bàn đối chứng được chọn là 7 xã/thị trấn của huyện Thanh Hà, nơi không được tiếp cận với các biện pháp can thiệp đặc thù của nghiên cứu, có đặc điểm kinh tế văn hóa xã hội và các chương trình, hoạt động chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng khá tương đồng nhưng không giáp với Chí Linh (CHILILAB).
  9. 6 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thoả mãn 1 trong các điều kiện sau: - Những phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi - Những phụ nữ đã xây dựng gia đình đang mang thai 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 2.2.1. Địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được triển khai tại ba tỉnh Hà Nam, Lào Cai và Quảng Bình. Là những tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, đặc trưng cả khu vực thành thị, nông thôn, có mức sống và điều kiện kinh tế, xã hội tương đương nhau, có dân tộc thiểu số sinh sống là một đối tượng đặc thù để khai thác khi tiến hành nghiên cứu. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh sử dụng kết quả của chương trình “Nuôi con bằng sữa mẹ” do Hội LHPN Việt Nam thực hiện tại các tỉnh này, do đó đây cũng là cách chọn tỉnh thuận tiện, thuận lợi cho nghiên cứu sinh thực hiện đề tài và kiểm tra giám sát tại các địa bàn này. 2.2.2. Thời gian nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2012 đến tháng 12/2015. Chi tiết thời gian thực hiện như sau: 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Giai đoạn 1: điều tra cắt ngang kết hợp với nghiên cứu định tính a) Điều tra cắt ngang Cỡ mẫu nghiên cứu cho 03 tỉnh trong nghiên cứu này dựa vào công thức tính cỡ mẫu ước 2 1  p  lượng một tỷ lệ trong quầnZthể1 với / 2 độ 2 chính xác tương đối: n=  p Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế), tỷ lệ bà mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu là 10% (p = 0,10) với mức ý nghĩa 5% và với độ chính xác tương đối của ε là 0,265. Cỡ mẫu tính được là 492 trường hợp đối tượng phụ nữ có con từ 0-25 tháng tuổi, phụ nữ đang mang thai, nhưng để đảm bảo hiệu ứng thiểt kế, chúng tôi nhân đôi cỡ mẫu là 984, thực tế chúng tôi đã điều tra được 920 trường hợp phụ nữ đang có thai, và có con từ 0-25 tháng tuổi (đạt tỷ lệ 97,6%). b) Nghiên cứu định tính Bảng 2.1: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 1 TT Nội dung Số lượng 1 Thảo luận nhóm bà mẹ có con dưới 24 tuổi, mỗi nhóm 8-10 người 12 nhóm/12 xã 2 Thảo luận nhóm bà mẹ đang mang thai, mỗi nhóm 8-10 người 12 nhóm/12 xã 3 Thảo luận nhóm chồng/mẹ chồng, mỗi nhóm 8-10 người 12 nhóm/12 xã 4 Thảo luận nhóm lãnh đạo địa phương, các tổ chức đoàn thể, mỗi 12 nhóm/ 12 xã nhóm 3-5 người
  10. 7 2.3.2. Giai đoạn 2: nghiên cứu can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con từ 0 - 24 tháng và đánh giá sau can thiệp 2.3.2.1. Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu trong nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu can thiệp cộng đồng không có đối chứng, có nghĩa lấy số liệu điều tra ban đầu để xác định các chỉ số sau đó can thiệp bằng truyền thông giáo dục để thay đổi kiến thức, hành vi của các bà mẹ đang cho con bú và các bà mẹ có gia đình nhưng chưa có con, đang mang thai. 2.3.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu a) Nghiên cứu định lượng Cỡ mẫu nghiên cứu trong nghiên cứu này dựa vào công thức tính cỡ mẫu ước lượng nguy cơ tương đối với độ chính xác tương đối: 2 (1−𝑝1 ) (1−𝑝2 ) 𝑛 = 𝑍1−𝛼/2 [ + ] /[𝑙𝑜𝑔𝑒 (1 − 𝜀 )]2 𝑝1 𝑝2 Trong đó: n: là cỡ mẫu cần thiết cho nhóm nghiên cứu p1: là tỷ lệ ước tính ban đầu 0,19 p2: là tỷ lệ ước tính sau can thiệp là 0,25 ε: Mức độ chính xác mong đợi. ε = 0,20 Z21-α/2: Giá trị của hệ số giới hạn tin cậy. Với α = 0,05 thì hệ số tin cậy của ước lượng là 95% và Z1-α/2 = 1,96 Tra bảng tính được cỡ mẫu tối thiểu là 267 đối tượng cho can thiệp nhưng thực thế số đối tượng bà mẹ được chọn vào nhóm nghiên cứu là 261 người (đạt 97,8%). b) Nghiên cứu định tính Bảng 2.2: Tổng hợp đối tượng nghiên cứu định tính giai đoạn 2 TT Nội dung Số lượng 1 Thảo luận nhóm bà mẹ có con dưới 24 tuổi, mỗi nhóm 10-12 người 3 nhóm/3 huyện 2 Thảo luận nhóm bà mẹ đang mang thai, mỗi nhóm 10-12 người 3 nhóm/3 huyện 3 Thảo luận nhóm lãnh đạo địa phương, các tổ chức đoàn thể, mỗi 12 nhóm/ 12 xã nhóm 3-5 người 4 Phỏng vấn sâu 01 chủ nhiệm CLB 24 PVS/24 CLB
  11. 8 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ 3.1.1. Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ Bảng 3.1: Kiến thức về lựa chọn nuôi con tốt nhất sau sinh Tỉnh Cộng Kiến thức lựa chọn nuôi con Hà Nam Quảng Bình Lào Cai sau sinh tốt nhất n % n % n % n % Con bú sữa mẹ hoàn toàn 289 92,6 300 95,5 283 96,3 872 94,8 Vừa bú mẹ, ăn sữa ngoài 17 5,5 9 2,9 9 3,1 35 3,8 Cho ăn sữa pha 0 0,0 1 0,3 0 0,0 1 0,1 Không biết 6 1,9 4 1,3 2 0,7 12 1,3 Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100 Trong 920 bà mẹ được hỏi về kiến thức lựa chọn nuôi con tốt sau sinh, 94,8% bà mẹ có kiến thức đúng là việc cho con bú sữa mẹ hoàn toàn sau sinh là tốt nhất. Tuy nhiên vẫn còn 3,8% bà mẹ cho rằng nên vừa cho trẻ bú mẹ vừa ăn sữa ngoài và 0,1% cho trẻ ăn sữa pha ngay sau khi sinh, 1,3% bà mẹ không biết. Không có sự khác nhau về kiến thức lựa chọn nuôi con sau sinh tốt nhất của bà mẹ giữa 3 tỉnh, p > 0,05. 100% 90% 17,5 30,1 30,6 26 80% 70% Không đúng 60% Đúng 50% 40% 82,5 69,9 69,4 74 30% 20% 10% 0% Hà Nam Quảng Bình Lào Cai Chung χ2 test: p
  12. 9 Bảng 3.2: Kiến thức về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ Tỉnh Cộng Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ Hà Nam Quảng Bình Lào Cai n % n % n % n % Giúp trẻ khỏe mạnh 134 42,9 100 34,7 93 31,6 336 36,5 Bảo vệ sức khỏe cho trẻ 87 27,9 46 14,7 25 8,5 158 17,2 Giúp phát triển thể lực, trí não 48 15,4 38 12,1 31 10,5 117 12,7 Tốt cho hệ tiêu hóa 144 46,2 43 13,7 39 13,3 226 24,6 Giúp trẻ thông minh hơn 43 13,8 30 9,6 16 5,4 89 9,7 Tạo kết gắn giữa mẹ con 27 8,7 15 4,8 4 1,4 46 5,0 Là biện pháp tránh thai tốt 8 2,6 0 0 0 0 8 0,9 Giảm bệnh tiêu chảy ở TE 33 10,6 10 3,2 13 4,4 56 6,1 Phù hợp phong tục VN 10 3,2 4 1,3 0 0 14 1,5 Một số lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ được các bà mẹ nhắc đến là giúp trẻ khỏe mạnh (36,5%), tốt cho hệ tiêu hóa của trẻ (24,6%), bảo vệ sức khỏe cho trẻ (17,2%), giúp trẻ phát triển thể lực và trì não (12,7%), giúp trẻ thông minh hơn (9,7%) và giảm bệnh tiêu chảy ở trẻ em (6,1%). Bên cạnh đó còn 1 số tác dụng quan trọng mà chưa nhiều bà mẹ biết tới là tạo sự kết gắn giữa mẹ và con (5%), là biện pháp tránh thai tốt (0,9%). Bảng 3.3: Nguồn thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ Tỉnh Nguồn thông tin về Cộng Hà Nam Quảng Bình Lào Cai nuôi con bằng sữa mẹ n=312 % n=314 % n=294 % n=920 % Tivi, đài, báo 255 81,7 212 67,5 197 67,0 664 72,2 Cán bộ y tế 74 23,7 68 21,7 101 34,4 243 26,4 Cán bộ hội phụ nữ 25 8,0 113 36,0 34 11,6 172 18,7 Câu lạc bộ 2 0,6 2 0,6 1 0,3 5 0,5 Người thân 87 27,9 66 21,0 47 16,0 200 21,7 Khác 44 14,1 7 2,2 17 5,8 68 7,4 Nguồn thông tin chính về nuôi con bằng sữa mẹ mà bà mẹ nhận được chủ yếu là từ tivi, đài báo (72,2%), trong đó cao nhất tại tỉnh Hà Nam (81,7%), tiếp đến là Quảng Bình và Lào Cai (67,5% và 67,0%). Tiếp đến là từ cán bộ y tế (26,4%), người thân (21,7%) và cán bộ hội phụ nữ (18,7%). Chỉ có 1 số ít bà mẹ nhận được từ việc tham gia câu lạc bộ (0,5%). Bà mẹ tại tỉnh Lào Cai được nhận thông tin từ cán bộ y tế là 34,4%, cao hơn so với Hà Nam và Quảng Bình (23,7% và 21,7%).
  13. 10 3.1.2. Thái độ về nuôi con bằng sữa mẹ 3.1.2.1. Thái độ tích cực Bảng 3.4: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị bệnh tật tránh được viêm nhiễm Tỉnh Giúp bảo vệ trẻ không bị Cộng Hà Nam Quảng Bình Lào Cai bệnh n % n % n % n % Không đồng ý 1 0,3 2 0,7 3 1,0 7 0,7 Đồng ý 180 57,7 246 78,3 253 86,1 713 73,8 Rất đồng ý 131 42,0 66 21,0 38 12,9 240 25,5 Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100 Tỷ lệ phụ nữ đồng ý là nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ không bị bệnh tật/tránh được viêm nhiễm là 73,8% và rất đồng ý chiếm 25,5%. Chỉ 0,7% phụ nữ không đồng ý với quan điểm này. Tỉnh Hà Nam có tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với ý kiến trên đạt tới 42,0%, cao hơn so với tỉnh Quảng Bình (21,0%) và Lào Cai (12,9%). Sự khác nhau về thái độ của các bà mẹ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ không bị bệnh tật/tránh được viêm nhiễm giữa các bà mẹ ở các tỉ nh tham gia nghiên cứu có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Bảng 3.5: Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ tạo được sự kết gắn mẹ con Tỉnh Tạo được sự kết gắn giữa Cộng Hà Nam Quảng Bình Lào Cai mẹ và con n % n % n % n % Không đồng ý 1 0,3 10 3,2 4 1,4 15 1,6 Đồng ý 171 54,8 252 80,3 245 83,3 668 72,6 Rất đồng ý 140 44,9 52 16,5 45 15,3 237 25,8 Cộng 312 100 322 100 294 100 920 100 Tỷ lệ phụ nữ có thái độ đồng ý và rất đồng ý với việc nuôi con bằng sữa mẹ tạo được sự kết gắn giữa mẹ và con chiếm tới 98,4%, trong đó 72,6% đồng ý và 25,8% rất đồng ý. Tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với quan điểm này tại tỉnh Hà Nam cũng cao hơn so với tỉnh Quảng Bình và Lào Cai, sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Bảng 3.6 Thái độ về việc nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ khỏe mạnh hơn Tỉnh Cộng Giúp trẻ khỏe mạnh hơn Hà Nam Quảng Bình Lào Cai n % n % n % n % Không đồng ý 11 3,5 5 1,6 12 4,1 28 3,0 Đồng ý 176 56,4 252 80,3 232 78,9 660 71,7 Rất đồng ý 125 40,1 57 18,1 50 17,0 232 25,2 Cộng 312 100 314 100 294 100 920 100 Tỷ lệ phụ nữ đồng ý là nuôi con bằng sữa mẹ giúp cho trẻ khỏe mạnh hơn những trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ chiếm 77,7% và rất đồng ý chiếm 25,2%. Tỷ lệ bà mẹ tại tỉnh Hà Nam rất đồng ý với quan điểm này là 40,1%, cao hơn so với tỉnh Quảng Bình (18,1%) và Lào Cai (17,0%). Sự khác biệt giữa các tỉnh là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
  14. 11 3.1.2.2. Thái độ tiêu cực 100 88,4 88,1 85,4 79,9 80 Rất đồng ý Đồng ý 60 40 18,8 13,5 20 10,3 11,2 1,3 1,3 0,7 1,1 0 Hà Nam Quảng Bình Lào Cai Chung Biểu đồ 3.2: Thái độ về quan điểm nuôi con bằng sữa bột giúp trẻ có thân hình khỏe mạnh, chống được béo phì Tỷ lệ phụ nữ có thái độ không đồng ý với quan niệm nuôi con bằng sữa bột giúp trẻ có thân hình khỏe mạnh và chống được béo phì chiếm tỷ lệ cao (85,4%). Chỉ có 13,5% phụ nữ đồng ý và 1,1% rất đồng ý. Tính riêng theo từng tỉnh, tỷ lệ bà mẹ ở tỉnh Quảng Bình tham gia nghiên cứu có thái độ tiêu cực chiếm tỷ lệ 20,1% (đồng ý: 18,8% và rất đồng ý: 1,3%), các bà mẹ ở tỉnh Hà Nam và Lào Cai tỷ lệ này thấp hơn (11,6% và 11,9% tương ứng với từng tỉnh). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 80 68,3 70,4 63,7 57,3 60 40 Rất đồng ý 40 34,1 Đồng ý 27,2 28,2 Không đồng ý 20 4,5 2,2 1,4 2,7 0 Hà Nam Quảng Bình Lào Cai Chung Biểu đồ 3.3: Thái độ về quan điểm phụ nữ không nên cho con bú nơi công cộng Có 57,5% phụ nữ không đồng ý với quan điểm là phụ nữ không nên cho con bú nơi công cộng. Tỷ lệ phụ nữ đồng ý là 40,0% và rất đồng ý là 2,7%. Tỷ lệ bà mẹ ở tỉnh Lào Cai có thái độ không đồng ý với quan điểm này là 70,4%, tiếp theo là các bà mẹ ở tỉnh Hà Nam (68,3%) và tỷ lệ thấp nhất là các bà mẹ ở tỉnh Quảng Bình (34,1%). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 3.1.3. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ Bảng 3.7: Thực hành cho con bú ngay sau sinh Tỉnh Thực hành cho trẻ bú mẹ sau Cộng Hà Nam Quảng Bình Lào Cai sinh n % n % n % n % Cho trẻ bú sau sinh (n = 808) Bú mẹ 247 86,1 276 97,5 224 94,1 747 92,4 Vừa bú mẹ vừa ăn ngoài 36 12,5 6 2,1 11 4,6 53 6,6 Ăn sữa pha 4 1,4 1 0,4 3 1,3 8 1,0
  15. 12 Thời gian bắt đầu cho trẻ bú sữa mẹ sau sinh (n = 800) Trong 1 giờ đầu 197 69,6 259 91,8 133 56,6 589 73,6 Sau 1 giờ 86 30,4 23 8,2 102 43,4 211 26,4 Trong tổng số 808 trẻ, phần lớn được bú mẹ sau sinh chiếm 92,4%. Tỷ lệ trẻ sau sinh vừa được bú mẹ và vừa ăn ngoài chiếm 6,6% và chỉ có 1,0% số bà mẹ cho con ăn sữa pha ngay từ đầu. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ sau sinh cao nhất ở tỉnh Quảng Bình (97,5%), tiếp đến là Lào Cai (94,1%) và thấp nhất ở Hà Nam (86,1%). Tỷ lệ trẻ vừa bú mẹ vừa ăn sữa ngoài và chỉ được ăn sữa pha từ sau sinh cao hơn hẳn ở tỉnh Hà Nam (12,5% và 1,4%) so với 2 tỉnh còn lại, sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Tỷ lệ thực hành đúng là cho trẻ bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh là 73,6%, cao hơn hẳn ở tỉnh Quảng Bình (91,8%) so với tỉnh Hà Nam (69,6%) và Lào Cai (56,6%). Sự khác biệt về thực hành cho trẻ bú sữa mẹ sớm sau sinh giữa 3 tỉnh nghiên cứu là có ý nghĩa thống kê với p
  16. 13 3.2. Hiệu quả can thiệp giáo dục truyền thông nâng cao kiến thức và thái độ cho con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của các bà mẹ có con từ 0 đến dưới 25 tháng tuổi 3.2.1. Hiệu quả về kiến thức cho con bú mẹ sau sinh, thời gian cai sữa và lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ Bảng 3.8: Kiến thức lựa chọn nuôi con tốt nhất Kiến thức lựa chọn nuôi con Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can tốt nhất n % n % thiệp (%) Cho con bú mẹ hoàn toàn 252 96,6 256 98,1 +1,5 Vừa bú mẹ vừa ăn ngoài 6 2,3 4 1,5 -34,8 Nuôi bằng sữa bột 3 1,1 1 0,4 -63,6 Cộng 261 100,0 261 100,0 Trước can thiệp, tỷ lệ phụ nữ có con 0 - 25 tháng tuổi lựa chọn cho con bú mẹ hoàn toàn tới 96,6%, sau can thiệp tỷ lệ phụ nữ 0 - 24 tuổi lựa chọn cho con bú mẹ hoàn toàn tăng lên 98,1%. Hiệu quả trước và sau can thiệp đạt 1,5%, nhưng hiệu quả lựa chọn nuôi con bằng sữa bột giảm tới 63,6% và vừa bú mẹ vừa cho ăn ngoài cũng giảm tới 34,8%. Bảng 3.9: Kiến thức về thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn Kiến thức về thời gian bú Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can sữa mẹ hoàn toàn n % n % thiệp (%) ≤ 3 tháng 7 2,7 0 0,0 -100,0 4 tháng 32 12,3 4 1,5 -87,8 5 tháng 36 13,8 3 1,1 -92,0 ≥ 6 tháng 186 71,2 254 97,3 +36,2 Cộng 261 100,0 261 100,0 Tỷ lệ phụ nữ có con 0 - 25 tháng tuổi đã có thay đổi kiến thức về hiệu quả thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng so với trước can thiệp lên tới 36,2% và hiệu quả thời gian cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 4 tháng giảm tới 87,8%, bú sữa mẹ hoàn toàn trong 5 tháng đầu giảm tới 92,0%. Đặc biệt không còn phụ nữ nào cho con bú sữa mẹ hoàn toàn trong 3 tháng đầu. Bảng 3.10: Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ n % n % thiệp (%) (261) (261) Sữa mẹ chứa đủ chất 149 57,1 259 99,2 +73,7 Chứa nhiều loại kháng thể 131 50,2 259 99,2 +97,6 Tinh khiết, an toàn 16 6,1 252 96,6 +1483,6 Giúp trẻ khỏe mạnh 85 32,6 257 98,5 +202,1 Bảo vệ sức khỏe cho trẻ 33 12,6 253 96,9 +669,0 Giúp phát triển thể lực, trí não 33 12,6 252 96,6 +666,7 Tốt hơn loại thực phẩm khác 15 5,7 248 95,0 +1566,7 Chứa nhiều vitamin 8 3,1 249 95,4 +2977,4 Tốt cho hệ tiêu hóa 59 22,6 255 97,7 +332,3
  17. 14 Giúp trẻ thông minh hơn 24 9,2 242 92,7 +907,6 Tạo kết gắn giữa mẹ con 14 5,4 255 97,7 +1709,3 Chứa nhiều khoáng chất 7 2,7 245 93,9 +3377,8 Là biện pháp tránh thai tốt 3 1,1 165 63,2 +5645,5 Giảm bệnh tiêu chảy ở trẻ em 12 4,6 248 95,0 +1965,2 Phù hợp phong tục Việt Nam 2 0,8 235 90,0 +11150,0 Hiệu quả sau can thiệp so với trước can thiệp về lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ thay đổi rất lớn, thay đổi thấp nhất là kiến thức về sữa mẹ có đủ chất cho con tăng lên 73,7% so với trước can thiệp và đặc biệt tăng lên tới 11.150% về kiến thức “nuôi con bằng sữa mẹ phù hợp với phong tục Việt Nam”. Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy, kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ đã được cải thiện đáng kể: “Em thu được nhiều kiến thức, ví dụ nuôi con bằng sữa mẹ tiện hơn, đầy đủ chất dinh dưỡng hơn, vì sữa mẹ chứa nhiều kháng khuẩn, bảo vệ cơ thể trẻ chống lại bệnh tật. Trẻ bú mẹ ít bị tiêu chảy, nhiễm trùng đường ruột, đường hô hấp và ít bị dị ứng hơn so với trẻ nuôi nhân tạo” (PVS mẹ, 35t, xã Liêm Chung). “Thứ nhất đến CLB biết cho bú ngay khi trẻ sinh ra, rồi bú mẹ đến chừng nào, khi ăn dặm là cho ăn từ lỏng đến đặc, dinh dưỡng như thế nào là phù hợp, rồi làm sao tạo bát bột cho đủ màu để cho trẻ thích ăn, ngon miệng, rồi cách cho trẻ gần gũi với bố mẹ” (TLN người thân, xã Gia Phú). Các bà mẹ thấy rất rõ hiệu quả của việc NCBSM và chăm sóc con theo khoa học với việc so sánh tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của những đứa con được sinh ra trước và sau khi tham gia sinh hoạt CLB. “Đứa thứ hai phát triển rất tốt, khoẻ mạnh, thấy thông minh hơn, giảm bệnh tật, ít ốm đau. Đặc biệt là về bệnh tiêu chảy, đứa thứ nhất em cho ăn sớm nên hay bị rối loạn đường ruột, hay đi bác sỹ hơn” (TLN mẹ, xã Vạn Trạch). “Em hoàn toàn cho con bú bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu, sức đề kháng của con em cao hơn so với những đứa trẻ mà mẹ không cho bú sữa bằng em. Cháu không bị ốm vặt, không bị sốt” (TLN mẹ, xã Liêm Chung). “Cháu thứ hai em tham gia CLB em cho bú ngay lập tức, cháu thứ nhất thì 2, 3 tiếng sau em mới cho bú. Đứa đầu tiên em cũng cho bú hoàn toàn bằng sữa mẹ nhưng cai sữa 18 tháng, cháu thứ 2 phải 2 năm em mới cho cai sữa. Đứa thứ nhất 4 tháng cho ăn sam rồi, đứa thứ 2 thì 6 tháng mới cho ăn sam. Em nấu bột gạo loãng ra, cho đủ dinh dưỡng như tôm, cá, cua, thịt bò, rau. Em áp dụng phương pháp của CLB vào đứa trẻ này nên sức khỏe của nó tốt hơn đứa trước. Cháu thứ hai thông minh, nhanh nhẹn hơn anh” (PVS mẹ, 35t, xã Xuân Giao).
  18. 15 3.2.2. Hiệu quả về thái độ nuôi con bằng sữa mẹ 3.2.2.1. Những thái độ tích cực Bảng 3.11: Nuôi con bằng sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị bệnh Giúp bảo vệ trẻ không Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can bị bệnh n % n % thiệp (%) Không đồng ý 2 0,8 5 1,9 +137,5 Đồng ý 196 75,1 149 57,1 -24,0 Rất đồng ý 63 24,1 107 41,0 +31,1 Cộng 261 100,0 261 100,0 Tỷ lệ các bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi sau can thiệp giáo dục sức khỏe nuôi con bằng sữa mẹ về lợi ích của sữa mẹ giúp bảo vệ trẻ không bị bệnh ở mức độ rất đồng ý tăng lên 31,1% so với trước can thiệp, nhưng tỷ lệ không đồng ý về lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ cũng tăng lên so với trước can thiệp. Bảng 3.12: Nuôi con bằng sữa mẹ tạo sự kết gắn giữa mẹ và con Tạo sự kết gắn giữa mẹ Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can và con n % n % thiệp (%) Không đồng ý 4 1,5 0 0,0 -100,0 Đồng ý 205 78,5 130 49,8 -36,6 Rất đồng ý 29 19,9 131 50,2 +152,3 Cộng 261 100,0 261 100,0 Tỷ lệ về thái độ lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ tạo sự kết gắn giữa mẹ và con có hiệu quả thực sự sau giai đoạn can thiệp giáo dục sức khỏe quan hoạt động của câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ, không có bà mẹ nào không đồng ý (0,0% và hiệu quả can thiệp giảm tới 100,0%). Tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với thái độ nuôi con bằng sữa mẹ tạo sự kết gắn giữa mẹ và con tăng sau can thiệp so với trước can thiệp đạt tới 152,5%. Bảng 3.13: Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ khỏe mạnh hơn trẻ không nuôi con bằng sữa mẹ Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can Giúp trẻ khỏe mạnh n % n % thiệp (%) Không đồng ý 10 3,8 1 0,4 -89,5 Đồng ý 190 72,8 142 54,4 -25,3 Rất đồng ý 61 23,4 118 45,2 +93,2 Cộng 261 100,0 261 100,0 Tương tự như thái độ nuôi con bằng sữa mẹ giúp tạo kết gắn giữa mẹ và con, tỷ lệ bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi đã thay đổi đáng kể sau can thiệp so với trước can thiệp. Tỷ lệ bà mẹ rất đồng ý với thái độ này đạt tới 93,2% so sau can thiệp với trước can thiệp và chỉ còn 1/261 bà mẹ không đồng ý với thái độ này.
  19. 16 3.2.2.2. Những thái độ tiêu cực Bảng 3.14: Nuôi con bằng sữa bột giúp trẻ khỏe mạnh, chống béo phì Nuôi con bằng sữa bột Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can giúp trẻ khỏe mạnh n % n % thiệp (%) Không đồng ý 4 1,5 219 83,9 +5493,3 Đồng ý 34 13,4 26 10,0 -25,4 Rất đồng ý 223 85,4 16 6,1 -92,9 Cộng 261 100,0 261 100,0 Về thái độ tiêu cực, trước can thiệp tỷ lệ bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi có tỷ lệ rất đồng ý với thái độ nuôi con bằng sữa bột sẽ giúp trẻ có thân hình khỏe mạnh, chống béo phì chiểm tới 85,5% số bà mẹ có con 0 - 25 tháng tuổi, nhưng sau khi can thiệp tham gia câu lạc bộ nuôi con bằng sữa mẹ đã thay đổi ngược lại hoàn toàn. Tỷ lệ bà mẹ không đồng ý với quan điểm này đạt tới 5493,3% so với trước can thiệp và tỷ lệ rất đồng ý đã giảm tới 92,9%. Bảng 3.15: Phụ nữ không nên cho con bú mẹ ở nơi công cộng Phụ nữ không nên cho Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can con bú mẹ ở nơi công n % n % thiệp (%) cộng Không đồng ý 11 4,2 209 80,1 +1807,1 Đồng ý 97 37,2 48 18,4 -50,5 Rất đồng ý 153 58,6 4 1,5 -97,4 Cộng 261 100,0 261 100,0 Cũng như thái đổi về nuôi con bằng sữa bột sẽ giúp trẻ có thân hình khỏe mạnh, chống béo phì, hiệu quả sau can thiệp cũng thay đổi ngược lại so với trước can thiệp, tỷ lệ không đồng ý với thái độ phụ nữ không nên cho con bú mẹ ở nơi công cộng từ từ 4,2% trước can thiệp lên đến 80,1% và hiệu quả đạt tới 1807,1% và rất đồng ý giảm tới 97,4% so với trước can thiệp. Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy sự thay đổi thái độ tích cực trong việc nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ và tác động tới người thân trong gia đình. “Khi mình hiểu biết, mình thực hiện việc đấy tự tin hơn nhiều. Ví dụ vắt sữa để ra ngoài, mình sợ không tốt chẳng hạn, nhưng sau khi đi sinh hoạt CLB, mình về truyền đạt cho mọi người, nếu mình bận đi làm, mình vắt sữa để tủ lạnh. Khi cháu đòi bú, người nhà hâm lại sữa cho cháu bú” (PVS mẹ, 35t, xã Liêm Chung). 3.3.3. Nguồn truyền thông giúp thay đổi kiến thức và hành vi về nuôi con bằng sữa mẹ Bảng 3.16: Nguồn truyền thông giúp thay đổi kiến thức và hành vi nuôi con bằng sữa mẹ Trước can thiệp Sau can thiệp Hiệu quả can Nguồn truyền thông n n % % thiệp (%) (261) (261) Từ đài, báo, TV 187 71,6 233 89,3 +24,7 Từ cán bộ y tế 64 24,5 209 80,1 +226,9 Từ cán bộ hội PN 47 18,0 218 83,5 +363,9 Từ câu lạc bộ 2 0,8 256 97,7 +12112,5 Từ người thân 52 19,9 233 89,3 +348,7
  20. 17 Sau can thiệp, các bà mẹ đã tiếp cận nhiều hơn với tất cả các nguồn thông tin về nuôi con bằng sữa mẹ. Trong đó, đặc biệt là từ câu lạc bộ tăng từ 0,8% trước can thiệp lên 97,7% sau can thiệp, chỉ số hiệu quả lên tới 12.112,5%. Tiếp đến là từ người thân, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ y tế và tăng ít nhất là từ đài, báo, tivi. “Lúc đầu còn ngại, mình đi thì đi không đi thì thôi, nhưng về sau mình thích. Đầu tiên bỡ ngỡ. Sau vui vẻ, thoải mái. Bổ ích cho chị em” (TLN mẹ, xã Vạn Trạch). “Cháu thấy CLB này sinh hoạt rất tốt và tạo cho mẹ biết cách chăm sóc bé thật hiệu quả, cháu mong muốn CLB này duy trì mãi mãi và ngày càng phong phú hơn” (TLN mẹ, xã Xuân Giao). “Từ khi có câu lạc bộ này nhiều thanh niên vẫn tham gia bên đoàn, tham gia cả bên phụ nữ. Tức là hội viên từ 18 tuổi trở lên, nó tạo uy tín cho tổ chức hội, đó là cái em thấy quan trọng nhất” (Cán bộ Hội LHPN tỉnh Quảng Bình).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2