intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình

Chia sẻ: Vica999 Vica999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

21
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được hoàn thành với mục tiêu nhằm nghiên cứu làm rõ nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân tuân pháp luật trong hoạt động xét xử. Đánh giá việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ NHÀN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ- NĂM 2018
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯỢNG Phản biện 1 : …………………………………………….. Phản biện 2 : …………………………………………….. Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành Chính Quốc gia Địa điểm : Phòng họp............, nhà............ – Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia Số : 201 –Đường Phan Bội Châu – Thành phố Huế Thời gian : vào hồi giờ tháng năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tòa án là cơ quan có chức năng đặc biệt trong bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết một người có tội hay không có tội. Tòa án xét xử và giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính và giải quyết những vụ việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mình, hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Do đó, Bộ luật Tố tụng hình sự ngày 27/11/2015 có hiệu lực ngày 1/7/2016 Điều 23 đã ghi nhận điều này và đó chính là một trong những nguyên tắc cơ bản khi Tòa án thực hiện chức năng xét xử “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy nhiên trên thực tế, đặc biệt tại huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Vì vậy, nhiều vụ án mặc dù đã được các cấp toà sơ thẩm, phúc thẩm tuyên án nhưng vẫn tiếp tục có kháng cáo, kháng nghị do những phán quyết của Thẩm phán hoặc ý kiến của Hội thẩm nhân dân chưa thể hiện đúng tính khách quan, chính xác, thậm chí còn chịu sự chi phối bới một số nhân tố từ môi trường bên ngoài, làm cho hiệu lực của bản án thiếu đi giá trị vốn có của nó. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong hoạt động xét xử, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách pháp luật, đề ra phương hướng, mục tiêu cụ thể về hoạt động xét xử của Tòa án, đặc biệt là 1
  4. Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Vì vậy để bảo đảm tính tôn nghiêm của hoạt động xét xử tại địa phương, tác giả đã chọn đề tài: “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, các bài viết về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Có thể kể đến một số công trình có liên quan sau: - Luận văn Thạc sỹ:“Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Thị Bích Diệp, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; - Luận văn Thạc sỹ: “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật tố tụng dân sự” của Phan Bá Bảy, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, 2015; - Khóa luận tốt nghiệp: “Khi xét xử thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Hàn Mạnh Thắng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; - Luận văn: “Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”, của Trần Thị Nhung San, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1995; - Bài viết “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, của Trần Văn Kiểm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2011; - Bài viết “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của tòa án”, của Đỗ Thị Phương; đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học xét xử - Tòa án nhân dân 2
  5. tối cao; cùng nhiều những bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành khác. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh” không còn là vấn đề mới, trong thời gian qua đã có rất nhiều những bài viết, những công trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này. Tuy nhiên, sự khác biệt của đề tài mà tác giả nghiên cứu đó là sự không trùng lặp về việc Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, song những công trình khoa học nêu trên đều là những tài liệu có giá trị tham khảo về mặt lý luận và một số giải pháp cho tác giả khi kế thừa và tiếp thu những thành quả của những công trình nêu trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục đích nghiên cứu Đề tài luận văn đi nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án” cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân tuân pháp luật trong hoạt động xét xử. Đánh giá việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Rút ra nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong việc thực hiên nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ đó đưa ra phương hướng, một số giải pháp nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu cũng như thực hiện trên thực tế. 3
  6. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Là toàn bộ hoạt động của Tòa án trong hoạt động xét xử nhằm thi hành nguyên tắc “Thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”. - Phạm vi nghiên cứu + Về không gian: Đề tài luận văn nghiên cứu việc thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”. + Về thời gian: Đề tài lấy số liệu nghiên cứu trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2016. + Về nội dung: Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”. Nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong rất nhiều các văn bản luật: Luật tổ chức Tòa án, Luật tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân… 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Phương pháp luận: Dựa trên hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử. Phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm các phương pháp: - Phương pháp phân tích tài liệu; - Phương pháp thu thập và xử lý thông tin; - Phương pháp so sánh; - Phương pháp tổng hợp, logic biện chứng, hệ thống. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 4
  7. Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình”. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tế áp dụng nguyên tắc trong hoạt động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số phương hướng, giải pháp mang tính xây dựng nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về vấn đề này góp phần vào quá trình cải cách tư pháp trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Chương 2: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 5
  8. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm, cơ sơ pháp lý của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Ở nước ta, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của nhà nước Việt Nam được giao cho Tòa án nhân dân. Do vậy, Tòa án nhân dân có một vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước. Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp, các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. 1.1.2. Hội thẩm nhân dân và nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Hội thẩm nhân dân Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia (khoản 1 Điều 103 Hiến pháp 2013) trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn là một trong các nguyên tắc mang tính Hiến định và trong các văn bản luật. Như tại Điều 40 Bộ luật tố tụng Hình sự quy định: “Hội thẩm được phân công xét xử vụ án hình sự có nhiệm vụ quyền hạn nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa, tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng 6
  9. xét xử, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình”; Điều 222 của Bộ luật hình sự: “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một, Thẩm phán biểu quyết sau cùng”; Điều 49 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Hội thẩm có nhiệm vụ quyền hạn nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa, tham gia Hội đồng xét xử các vụ án dân sự, tiến hành các hoạt động tố tụng và ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử, Điều 264 của Bộ luật tố tụng dân sự: “Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một, Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa biểu quyết sau cùng”; Điều 12, 13 của Luật tố tụng Hành chính quy định: “Việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, ngiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dưới bất kỳ hình thức nào”, Điều 191 của Luật tố tụng hành chính quy định: “Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một, Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng”. Do đó, nếu việc xét xử của Tòa án mà không có Hội thẩm tham gia thì không chỉ là vi hiến mà còn vi phạm nghiêm trọng phạm pháp luật tố tụng. 7
  10. 1.2. Nội dung Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.2.1. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập Thứ nhất, tính độc lập thể hiện giữa các chủ thể tham gia với Tòa án. Thứ hai, tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm còn thể hiện ở chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với Tòa án. Thứ ba, độc lập đối với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Thứ tư, độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng. 1.2.2. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật Một trong những nội dung không kém phần quan trọng của nguyên tắc, đó là việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật. Điều này có nghĩa là, khi xét xử, Tòa án không có cấp trên, cấp trên của Hội đồng xét xử chính là pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ ý kiến của ai. Nội dung Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật biểu hiện ở những vấn đề sau: - Sự tuân theo pháp luật hình sự: - Sự tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: - Sự tuân theo các văn bản pháp luật khác có liên quan: 1.2.3. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với yếu tố bên ngoài Độc lập với các yếu tố bên ngoài là khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 8
  11. 222 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa”. 1.2.4. Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập là một phần nội dung của nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau, độc lập với các yếu tố khác. Độc lập trong xét xử không những được quy định thành nguyên tắc của bộ luật tố tụng hình sự, được ghi nhận trong Hiến pháp, luật tổ chức Tòa án mà nó còn được thể hiện ở những điều luật quan trọng khác của luật Tố tụng Hình sự, Tố tụng Dân sự, Tố tụng Hành chính như các điều luật về nghị án, về giới hạn xét xử, về giám đốc thẩm. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp luật. 1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, có thể khái quát ý nghĩa của nguyên tắc thành ba lĩnh vực như sau: 1.3.1. Ý nghĩa về mặt chính trị- xã hội Nguyên tắc xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động xét xử của Tòa án (cụ thể là của Thẩm phán và của Hội thẩm) phải đảm bảo sự độc lập trên cơ sở chỉ tuân theo pháp luật, không tuân theo bất cứ sự chỉ đạo khác nào ngoài pháp luật, trái pháp luật. 9
  12. 1.3.2. Về mặt pháp lý Thực hiện đúng nghiêm minh nguyên tắc sẽ góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và ổn định các quan hệ kinh tế- xã hội; đảm bảo và nâng cao chất lượng xét xử, đồng thời khẳng định được vị trí, vai trò và trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử các vụ án. 1.3.3. Ý nghĩa về mặt thực tiễn Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đảm bảo việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nguyên tắc này loại trừ các sự tác động không cần thiết, thậm chí tiêu cực của các cơ quan, tổ chức khác đến Hội đồng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, đảm bảo sự bình đẳng, độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử. Tóm tắt chương 1 Trong chương 1 này, luận văn đã tập trung làm rõ hơn về mặt lý luận của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đưa ra khái niệm, cơ sở pháp lý của nguyên tắc cũng như nội dung cơ bản của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, cũng như chỉ ra được mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Đây thực sự là một sản phẩm của hoạt động lập pháp có nhiều giá trị, tiến bộ hơn hẳn các kiểu nhà nước trước đó. Luận văn còn làm rõ ý nghĩa về mặt chính trị- xã hội, về mặt pháp lý cũng như về phương diện thực tiễn của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Từ đó, khẳng định được giá trị căn bản của nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của Tòa án nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên khi bị xâm hại. 10
  13. Chương 2 THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH 2.1. Các điều kiện cho việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 2.1.1. Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong hệ thống Tòa án nhân dân a. Về tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình b. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 2.1.2. Điều kiện về chế độ tiền lương, cơ sở vật chất Thực hiện Nghị quyết số 730/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngành Tòa án đã xác định chế độ lương dành cho Thẩm phán có 3 ngạch A1, A2, A3, trong đó: 2.2. Thực tiễn áp dụng thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình 2.2.1. Tình hình xét xử các loại án trong những năm gần đây (2011-2016) Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình là một huyện nằm phía Nam của tỉnh Quảng Bình có diện tích đất tự nhiên 119.169 ha, với dân số 90.000 người gồm có 15 xã, thị trấn, trong đó có 02 xã miền núi (Trường Sơn, Trường Xuân) và một xã ven biển Hải Ninh. Trong những năm qua, với ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập quốc tế và quá trình triển khai thực hiện các dự án trọng điểm như khu nghĩ dưỡng sinh thái FLC, công trình thủy điện Hồ Trooc Trâu, hồ Rào Đá... và nhiều công trình khác đã mở ra cho huyện 11
  14. Quảng Ninh nhiều điều kiện để phát triển kinh tế xã hội, đẩy nhanh tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa huyện Quảng Ninh trở thành một huyện có công nghiệp và dịch vụ du lịch phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Bảng 2.1. Số liệu các loại án đã giải quyết, xét xử từ năm 2011- 2016 Án Án có kháng cáo, kháng nghị Án Án Hôn Án Án Án Tổn Y Sử Hủ Đình Năm hình sự dâ nhâ Kin Lao Hàn g số á a y án chỉ n n và h tế độn h n án sự gia g chín đình h 2012 59vụ/9 19 100 02 0 01 22 07 08 02 05 8 bị cáo 2013 46vụ/7 17 90 01 0 01 20 12 04 01 03 0 bị cáo 2014 40vụ/8 20 84 02 0 0 20 09 10 0 01 3 bị cáo 2015 34vụ/6 05 84 02 01 02 14 06 06 0 02 4 bị cáo 2016 23vụ/2 15 85 0 03 02 06 01 04 0 01 7 bị cáo Tổn 193vụ 76 443 07 04 06 82 35 32 03 12 g /352bị cộng cáo Nguồn: Tòa án Nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình 2.2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình Trong những năm qua, nhiều Nghị quyết của Đảng đã được lãnh đạo Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh quán triệt thành các kế hoạch hành động thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong 12
  15. việc cải cách tư pháp. Hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực tiễn làm cơ sở cho Tòa án áp dụng pháp luật xét xử các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Sau khi các văn bản luật được ban hành, cơ quan có thẩm quyền đã có những hướng dẫn chi tiết và tập huấn cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nắm bắt kịp thời và áp dụng thống nhất pháp luật. Trên thực tế, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã được Thẩm phán và Hội thẩm xét xử tuân thủ và ngày càng phát huy ý nghĩa tích cực của nguyên tắc, bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án được khách quan, đúng pháp luật, hạn chế đến mức tối đa án oan sai, thiếu chính xác. 2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình 2.3.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Trên thực tế, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử và chỉ tuân theo pháp luật được các chủ thể của hoạt động xét xử tuân thủ và ngày càng phát huy ý nghĩa tích cực của nó, đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án được khách quan, đúng pháp luật hạn chế mức tối đa án oan sai, thiếu chính xác. 2.3.2. Những hạn chế trong việc áp dụng thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm trong độc lập xét xử của Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình Qua nghiên cứu, đánh giá về thực tiễn áp dụng thực hiện nguyễn tắc thẩm phán, hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình cho thấy còn có những hạn chế chủ yếu sau đây: 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên Hạn chế trong việc không tuân thủ nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong hoạt động xét xử đều xuất 13
  16. phát từ những nguyên nhân nhất định. Có thể khái quát những nguyên nhân chính sau: Một là, cơ sở của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải có một nền pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch. Hai là, sự tác động của một số yếu tố tới việc tuân thủ Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật ở Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình Ba là, hạn chế về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân Bốn là, hạn chế trong việc tuyển dụng và bổ nhiệm Thẩm phán 14
  17. Tóm tắt chương 2 Luận văn đã đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trên cơ sở thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật từ năm 2011 – 2016 và đã cho thấy rằng, hoạt động xét xử đã có những thay đổi rõ rệt so với trước đây. Các vụ án hình sự đã được xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật, không có tình trạng xử oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, không có vụ án hình sự nào bị hủy, cải sửa nghiêm trọng do lỗi chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm; các vụ án Dân sự, Hành chính đã được xét xử đúng quy định của pháp luật, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, vẫn còn một số vụ án dân sự bị hủy, sửa sai do áp dụng không đúng pháp luật, nguyên nhân xuất phát từ chỗ do năng lực của Thẩm phán còn hạn chế, chưa được đào tạo, bồi dưỡng kịp thời, các quy định của pháp luật chưa hoàn thiện, thống nhất, còn sự chồng chéo, mâu thuẫn mà chưa có sự hướng dẫn của Tòa án cấp trên; sự tác động của các yếu tố khác như lãnh đạo Tòa án cấp trên, cấp ủy địa phương làm cho Thẩm phán và Hội thẩm xét xử thiếu khách quan nên đã tác động không nhỏ đến việc xét xử. Để nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ thuân theo pháp luật ở Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh nói riêng và Tòa án các cấp của Việt Nam nói chung đạt kết quả cao đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị đòi hỏi phải có những phương hướng, giải pháp thực tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, củng cố tạo niềm tin của nhân dân vào công lý góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 15
  18. Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 3.1. Phương hướng thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong những năm gần đây, Nhà nước rất quan tâm đến hoạt động tư pháp, bắt đầu bằng nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm cụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết chú trọng đến việc tăng cường và nâng cao hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, bản án, quyết định của Tòa án phải dựa trên chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét ý kiến tranh tụng của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên Tòa. Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ Chính trị như một luồng gió mới thay đổi khá mạnh mẽ nhận thức của những người tiến hành tố tụng. Từ hình thức “án bỏ túi” chuyển sang “án tại phiên tòa”. Từ đó mà việc xét xử được công khai, dân chủ và có chất lượng hơn trước. Quyền của những người tham gia tố tụng được quan tâm đúng mực hơn. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 một lần nữa lại xác định rõ việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân là việc cần thiết; Tiếp tục đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, xem đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Bên cạnh đó, nghị quyết cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh và bổ trợ, đảm bảo cơ sở vật chất trong hoạt động tư pháp. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đã là nguồn động viên lớn lao và là phương hướng giúp những người tiến hành tố tụng nói chung và những người làm công tác xét xử có tinh thần trách nhiệm, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, hoạt 16
  19. động xét xử của Tòa án ngày càng được đảm bảo về chất lượng, xét xử khách quan, đúng pháp luật. 3.1.1. Nâng cao nhận thức tầm quan trọng của nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.1.2. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.1.3. Giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.2. Giải pháp nâng cao nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Tòa án huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật nói chung và các quy định có liên quan trực tiếp việc thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Luật pháp quy định rõ ràng, minh bạch thì việc áp dụng vào thực tế sẽ chính xác, đúng đắn. Để Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có thể độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng đều phải được quy định chính xác, thống nhất, chặt chẽ, bảo đảm thẩm phán và hội thẩm khi xét xử phải độc lập đối với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan hoặc cán bộ nhà nước khác. - Về hệ thống pháp luật hình sự - Hệ thống pháp luật dân sự: 3.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi đạo đức, lương tâm nghề nghiệp của Thẩm phán, Hội thẩm trong việc thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Các Thẩm phán phải được đào tạo và thường xuyên được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế. Các Thẩm phán phải được đào tạo chuẩn (có trình độ tốt nghiệp đại học và trên đại học chuyên ngành luật) và thường xuyên 17
  20. được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế…. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử. 3.2.3. Đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán Cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi những quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm Thẩm phán để loại bỏ những yếu tố không hoặc ít liên quan đến năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp; bảo đảm không có sự phân biệt đối xử về bất cứ yếu tố gì bất hợp lý trong quá trình này, từ đó chọn ra được những Thẩm phán có năng lực và đạo đức tốt; cũng như khuyến khích những người có năng lực và đạo đức tốt cống hiến cho hệ thống Tòa án. Đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục, giảm sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương nhưng vẫn cần đảm bảo được 03 yếu tố cơ bản: (i) thành phần Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cần đảm bảo phản ánh được ý kiến của giới Thẩm phán, đồng thời các cơ quan đại diện và các tổ chức nghề nghiệp phải có khả năng giám sát và có tiếng nói trong việc tuyển chọn; (ii) quy trình tái bổ nhiệm Thẩm phán cần được thay thế bởi quy trình bỏ phiếu tín nhiệm; (iii) các yếu tố để quyết định không bổ nhiệm lại cần phải được quy định rõ ràng trong pháp luật. Nếu xét kỹ, Luật Tổ chức TAND năm 2014 vẫn chưa đảm bảo được toàn bộ những yếu tố này. 3.2.4. Xây dựng và đổi mới hoạt động của các cơ quan, tổ chức, bổ trợ tư pháp Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp như Luật sư, Công chứng, Giám định, Hộ tịch… tuy không trực tiếp quyết định các bản án, nhưng sự khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp kém hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả điều tra, truy tố và khi xét xử, Thẩm phán rất dễ sai lầm, đưa ra phán quyết không đúng pháp luật. Vì vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, phải hoàn thiện pháp 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2