Chức năng Công tố của Viện Kiểm sát<br />
Lại Văn Thái<br />
Khoa Luật<br />
Luận văn ThS Chuyên ngành: Luật Hình sự; Mã số 60 38 40<br />
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí<br />
Năm bảo vệ: 2013<br />
<br />
Abstract. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố tụng<br />
hình sự. Trình bày việc thực hiện chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng<br />
hình sự tiêu biểu trên thế giới. Nghiên cứu về chức năng công tố theo quy định của<br />
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Khảo sát thực trạng thực hành quyền công tố ở<br />
nước ta trong những năm gần đây, tìm ra những nguyên nhân của những kết quả đạt<br />
được và những tồn tại, hạn chế.<br />
Keywords. Luật hình sự; Công tố; Viện Kiểm sát; Pháp luật Việt Nam.<br />
<br />
Content<br />
MỞ ĐẦU<br />
<br />
1. Tính cấp thiết của đề tài<br />
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó<br />
có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện<br />
nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung<br />
làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10]. Yêu cầu trên đã được thể<br />
chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân<br />
dân (VKSND) năm 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003.<br />
Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải nâng<br />
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong đó việc tăng cường chất<br />
lượng công tố của VKS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là một nội<br />
<br />
dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị<br />
quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công<br />
tác tư pháp trong thời gian tới" đã chỉ rõ:<br />
Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và<br />
đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội;<br />
vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm lòng tin của nhân dân<br />
đối với Đảng, Nhà nước và với các cơ quan tư pháp [11].<br />
Cụ thể về công tố, Nghị quyết 08/NQ-TW đã có ý kiến chỉ đạo:<br />
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc<br />
tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện<br />
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ<br />
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội… Nâng cao chất<br />
lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với Luật sư,<br />
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… [11].<br />
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW "Về Chiến lược<br />
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm<br />
2020", trong đó có nội dung: "Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm<br />
sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên<br />
cứu hướng tới chuyển thành Viện công tố" [12].<br />
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận các<br />
nội dung: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống pháp luật;<br />
xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; đẩy mạnh<br />
việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; lấy cải cách hoạt động xét xử làm<br />
trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra…<br />
Trong những năm vừa qua, quá trình thực hiện đã đạt được những thành tựu đáng<br />
khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân. Tuy nhiên,<br />
vẫn còn những hạn chế, Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải cách tư<br />
pháp đến năm 2020" đã chỉ ra:<br />
<br />
Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định<br />
pháp luật dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm<br />
được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động<br />
của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp<br />
còn thiếu; trình độ nghiệp vụ bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu,<br />
thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề<br />
nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử.<br />
Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu<br />
[13].<br />
Những năm qua, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật<br />
như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKSND năm 2002, BLTTHS năm 2003<br />
nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng.<br />
Các văn bản trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng công tố của VKS. Vì vậy,<br />
cần nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của<br />
VKS riêng cũng như của các cơ quan tư pháp nói chung.<br />
Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, để góp phần bảo đảm VKS thực hiện tốt<br />
chức năng công tố, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn quyền công<br />
tố trong tố tụng hình sự là vấn đề bức xúc và cần thiết. Đây cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài<br />
"Chức năng công tố của Viện kiểm sát" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.<br />
2. Tình hình nghiên cứu<br />
Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự đã được một<br />
số sách, báo, công trình nghiên cứu đề cập. Một số tác giả đã có những nghiên cứu, bài viết về<br />
vấn đề này: Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố<br />
(nhìn nhận từ góc độ nhà nước pháp quyền) (tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2001; Lê Thị<br />
Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sĩ luật học), Hà Nội, 2002; Tiến sĩ Trần<br />
Văn Độ có bài Một số vấn đề về quyền công tố; một số bài viết của các tác giả khác trong tập<br />
kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực<br />
hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Hà Nội, 1999…<br />
<br />
Một số luận văn thạc sĩ luật học đã được công bố tại Khoa luật - Đại học quốc gia Hà<br />
Nội: Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng vào điều kiện Việt<br />
Nam, của Lý Văn Chính (năm 2004); Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong<br />
khởi tố, điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, của Lang Văn Bảo<br />
(năm 2005); Tranh tụng tại phiên tòa một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Mạnh<br />
Tiến (năm 2005); Phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định của Cơ quan<br />
điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình<br />
sự Việt Nam, của Đào Thị Diệp (năm 2008).<br />
Những luận văn, đề tài, công trình nghiên cứu trên về tổ chức và hoạt động của VKS<br />
nói chung, đồng thời đề cập đến các vấn đề liên quan đến quyền công tố. Từ khi BLTTHS<br />
2003 có hiệu lực đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về chức<br />
năng công tố của VKS; ngoài ra việc thực hiện các quy định về chức năng công tố có những<br />
nơi, địa bàn còn có nhận thức, áp dụng chưa thống nhất. Chính vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu<br />
về chức năng công tố của VKS là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.<br />
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài<br />
* Mục đích của đề tài:<br />
Trên cơ sở nghiên cứu chức năng để làm rõ vai trò của VKS trong thực hiện chức<br />
năng công tố cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chức<br />
năng công tố, đồng thời xác định thực trạng thực hiện chức năng, tìm nguyên nhân, trên cơ sở<br />
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tố đáp ứng yêu cầu cải<br />
cách tư pháp ở nước ta hiện nay.<br />
* Nhiệm vụ của đề tài<br />
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong tố tụng hình sự.<br />
- Nghiên cứu việc thực hiện chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng hình sự<br />
tiêu biểu trên thế giới.<br />
- Nghiên cứu về chức năng công tố theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt<br />
Nam.<br />
<br />
- Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố ở nước ta trong những năm gần<br />
đây, tìm ra những nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế.<br />
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu<br />
Trong khuôn khổ chuyên ngành luật hình sự, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích<br />
một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự,<br />
thực trạng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự những năm gần đây ở Việt Nam.<br />
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu<br />
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ<br />
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như thành tựu của<br />
các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật,<br />
xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận<br />
điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên<br />
tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.<br />
- Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa<br />
học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân<br />
tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của<br />
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC). Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết<br />
quả của của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các<br />
chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND.<br />
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn<br />
Về mặt lý luận: Kết quả luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây<br />
dựng một cái nhìn toàn diện về chức năng công tố của VKS, đồng thời thấy được trách nhiệm<br />
cũng như vai trò của VKS trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay.<br />
Về thực tiễn: Luận văn sẽ là tài liệu có giá trị, có thể dùng làm tài liệu tham khảo,<br />
nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên và<br />
lãnh đạo VKS. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm<br />
cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt<br />
động trong cơ quan VKS.<br />
<br />