Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 3
download
Đề tài tập trung nghiên cứu việc xây dựng và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị trong việc xây dựng và thực hiện đánh giá cán bộ, công chức; đáp ứng yêu cầu xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN THÚY PHƯỢNG LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - 2020
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hòa Phản biện 1: Phản biện 2: Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, Quận Đống Đa, TP. Hà Nội Thời gian: vào hồi ……… giờ …….. ngày …….. tháng …… năm 2020 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Triều Lê sơ (1428-1527) là triều đại được đánh giá có nhiều thành tựu trong quá trình cách tân và phát triển đất nước nhất, được coi là đỉnh cao phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Cải cách hành chính được thực hiện toàn diện, mạnh mẽ và thành công nhất dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Việc đánh giá nhân tài nói chung và kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại trong triều nói riêng là một trong những hoạt động được vua Lê nhận thấy vô cùng quan trọng và cần kíp để đưa Đại Việt trở nên ngày càng thịnh vượng. Chính vì lẽ đó, trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, ông đã tập trung nhiều hơn vào cải cách chế độ quan lại, nổi bật lên trong những chính sách được ban hành và áp dụng đó là lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông. Thông qua lệ khảo thí, khảo khóa, Lê Thánh Tông muốn đánh giá chính xác năng lực và phẩm hạnh của đội ngũ quan lại nhằm lựa chọn kẻ sĩ người tài phục vụ cho đất nước; đồng thời cũng để loại bỏ những người đã làm quan mà không cố gắng nỗ lực hết mình vì dân vì nước. Khổng Tử - nhà tư tưởng lỗi lạc của Trung Quốc thời xưa cho rằng, biết “ôn cố tri tân” – học hỏi từ lịch sử để mở mang hơn ở hiện tại, thì có thể làm bậc thầy trong thiên hạ. Nhìn lại và đánh giá những thành tựu và hạn chế đã trải qua trong các giai đoạn lịch sử, rút ra bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng và phát triển đất nước nói chung, đội ngũ quan lại nói riêng là một hoạt động có ý nghĩa kế thừa quan trọng khi nghiên cứu về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông. Bằng niềm say mê với lịch sử hành chính nước nhà, đặc biệt là lịch sử cải cách hành chính, với sự quan tâm về việc đánh giá cán bộ, công chức của nước ta hiện nay, tôi quyết định nghiên cứu đề tài: “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Quản lý công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Lịch sử hành chính là một trong những đề tài được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Có nhiều công trình nghiên cứu về những nội dung liên quan đến đề tài luận văn từ nhiều góc độ và cấp độ khác nhau: - Nhóm các bộ sử ghi chép lịch sử thời Lê; - Nhóm các công trình nghiên cứu ngày nay về cải cách hành chính và chế độ quan lại, chế độ cán bộ, công chức; - Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê sơ. Phần lớn những tài liệu trên chỉ tập trung nghiên cứu về cải cách tổ chức bộ máy hành chính và chế độ quan lại nói chung, chỉ đề cập đến một phần nhỏ của chế độ khảo thí, khảo khóa chứ chưa đi sâu nghiên cứu về chế độ này. Trên cơ sở các nội dung được đề cập tại các công trình nghiên cứu nói trên về cải cách bộ máy hành chính và chế độ quan lại thời Lê sơ, Luận văn với đề tài: “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” sẽ nghiên cứu một số điểm mới chưa được đề cập và đi sâu nghiên cứu, như: nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về quan lại và chế độ quan lại thời phong kiến; tái hiện lại một cách có hệ thống, khách quan và chân thực về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông; nghiên cứu để nhìn nhận, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông trong mối liên hệ chặt chẽ với việc đánh giá cán bộ, công chức ngày nay, gợi mở những giá
- 2 trị tham khảo và gắn những giá trị tham khảo đó với hoạt động quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu • Mục đích nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu việc xây dựng và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị trong việc xây dựng và thực hiện đánh giá cán bộ, công chức; đáp ứng yêu cầu xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. • Nhiệm vụ nghiên cứu: - Tìm hiểu về lệ khảo thí, khảo khóa, việc đánh giá và sử dụng quan lại (thăng – giáng, phân công, bố trí công việc) quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông; - Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa trong mối liên hệ chặt chẽ với công tác đánh giá cán bộ, công chức hiện nay; đúc rút bài học kinh nghiệm đối với việc hoàn thiện thể chế đánh giá cán bộ, công chức; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của hoạt động quản lý và sử dụng cán bộ, công chức. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu • Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương dưới triều Lê Thánh Tông (1460 – 1497) trong sự tham chiếu với những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay. • Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi tài liệu nghiên cứu: Đề tài luận văn nghiên cứu về lịch sử hành chính có sử dụng hệ thống các nguồn tài liệu như sau: - Các bộ biên niên sử ghi chép lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ theo sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, chính sách nhà nước: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử,… - Văn bản pháp luật, quy định, quy chế dưới triều Lê như: Lê Triều hình luật; Lê triều quan chế;… - Văn bản pháp luật hiện hành quy định về Cán bộ, Công chức: Luật Cán bộ, Công chức 2008, Nghị định số 56/2015/NĐ-CP do Chính Phủ ban hàng ngày 09 tháng 6 năm 2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP do Chính Phủ ban hành ngày 27 tháng 7 năm 2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức;… - Luận văn cũng sử dụng các tài liệu thứ cấp – hệ thống tài liệu đã được nghiên cứu của các tác giả về triều Lê sơ nói chung, Lê Thánh Tông nói riêng, dưới dạng các cuốn sách, kỷ yếu hội thảo khoa học, những luận văn, luận án, đề tài khoa học, bài báo, bài đăng tạp chí. Phạm vi nội dung nghiên cứu: Khảo thí là khoa thi không theo chính kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói chung. Khảo khóa là kỳ thi được tổ chức định kì 3 năm, 6 năm, 9 năm dành cho tất cả quan văn, quan võ trong triều nhằm kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực của đội ngũ
- 3 quan lại trong triều; trên cơ sở đó thực hiện việc bố trí, sắp xếp quan lại phù hợp. Luận văn tập trung nghiên cứu lệ khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông. Phạm vi thời gian nghiên cứu: - Thời gian nghiên cứu tập trung từ năm 1460 – 1497 là 38 năm trị vì Đại Việt của Lê Thánh Tông với Niên hiệu Quang Thuận (1460 – 1469) và niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497). - Đồng thời, đề tài nghiên cứu về công tác đánh giá cán bộ, công chức hiện nay ở Việt Nam nhằm liên hệ, so sánh, đối chiếu, rút ra bài học kinh nghiệm. Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu lệ khảo thí, khảo khóa từ cấp chính quyền Trung ương đến địa phương trên địa bàn lãnh thổ quốc gia Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp logic; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp khảo sát thực tế và xử lý số liệu; phương pháp so sánh. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu xã hội học, hành chính học như: phương pháp hành chính so sánh, phương pháp tiếp cận quy phạm pháp luật,… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu Ý nghĩa lý luận: - Phân tích và chứng minh về sự cần thiết của mọi nhà nước, mọi thời đại trong việc xây dựng đội ngũ quan lại có tài có đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý đất nước; - Luận văn đưa ra những nhận xét, đánh giá về tác động và hiệu quả của việc áp dụng thực thi lệ khảo thí, khảo khóa quan lại trong lịch sử; - Chỉ ra cách làm dẫn tới thành công của vua Lê Thánh Tông trong việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa; từ đó gợi mở những bài học có giá trị tham khảo cho quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; sự ảnh hưởng đến đội ngũ quan lại nói riêng và toàn bộ nền hành chính nhà nước nói chung. - Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm những kiến thức về chế độ quan lại trong lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn: - Đưa ra những bài học kinh nghiệm giúp quá trình ban hành chính sách và công tác quản lý cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay đạt hiệu quả hơn; - Đề tài nghiên cứu là cơ sở cho quá trình xây dựng, ban hành, thực thi các chính sách về đánh giá cán bộ, công chức, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, quản lý hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, lựa chọn được người tài, bố trí sắp xếp đúng người đúng việc. 7. Kết cấu của Luận văn Luận văn “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” được triển khai với bố cục gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời phong kiến Chương 2: Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) Chương 3: Những bài học kinh nghiệm cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
- 4 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI VÀ LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA THỜI PHONG KIẾN 1.1. Các khái niệm liên quan 1.1.1. Khái niệm quan lại Khái niệm “quan lại” chung nhất được Luận văn rút ra như sau: Quan lại là những người làm việc trong bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến, trong đó “quan” là những người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được tuyển chọn bằng nhiều phương pháp khác nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại” là những người được tuyển chọn vào làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ triều đình đến cấp huyện để giúp việc cho quan. 1.1.2. Khái niệm chế độ quan lại Chế độ quan lại – hay còn gọi là quan chế, là một trong những nội dung thiết yếu của các triều đại quân chủ phong kiến trong việc kiến tạo bộ máy nhà nước, xây dựng đường lối, chủ trương, thực hiện chính sách của vua và triều đình. Chế độ quan lại bao gồm một quy trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng lại có phân công, sắp xếp bố trí quan lại; luân chuyển, giản thải; kiểm tra, giám sát; chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan lại,…). 1.1.3. Lệ khảo thí, khảo khóa Lệ khảo thí, khảo khóa thực chất là việc đánh giá, xem xét trình độ hiểu biết, quan điểm trị quốc và hiệu quả công việc của quan lại theo định kì, theo khóa. Trong đó “khảo thí” là khoa thi không theo chính kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói chung; “khảo khóa” là kỳ thi kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực của đội ngũ quan lại trong triều. Lệ khảo thí, khảo khóa nhằm đánh giá ưu khuyết điểm, sai phạm của quan lại; qua đó xác định tài năng và đức độ của quan lại, vừa để làm căn cứ thưởng – phạt và điều chuyển quan lại; vừa để nhắc nhở quan lại cần phải tận tâm hơn với trách nhiệm của mình trong thi hành công vụ. Như vậy, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa trong nhà nước phong kiến cũng tương tự như hoạt động đánh giá cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay của nước ta 1.2. Sơ lược về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa thời phong kiến ở Việt Nam 1.2.1. Sơ lược về chế độ quan lại 1.2.1.1. Chế độ tuyển chọn quan lại Các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhiều phương pháp để lựa chọn đội ngũ quan lại. Tùy từng triều đại mà các hình thức thực hiện tuyển chọn quan lại là khác nhau. Song, có một số cách thức tuyển chọn quan lại nổi bật trong thời phong kiến Việt Nam được Luận văn đề cập, đó là: chế độ nhiệm tử (hay còn gọi là chế độ tập ấm); chế độ khoa cử (thi cử); chế độ tiến cử, bảo cử. Mỗi triều đại đều có nhiều cách thức để lựa chọn đội ngũ quan lại, tùy thể chế chính trị mà đề cao chế độ tuyển chọn này hoặc chế độ tuyển chọn khác (triều Lý, Trần chế độ tập ấm là nổi bật; nhưng sang triều Lê chế độ khoa cử là chế độ tuyển chọn quan lại thịnh hành,…) Nguồn tuyển chọn quan lại vào bộ máy nhà nước mỗi triều đại là khác nhau song đều cùng chung mục tiêu là lựa chọn được đội ngũ quan lại vừa đức vừa tài phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. 1.2.1.2. Chế độ sử dụng quan lại Luận văn khái quát chế độ sử dụng quan lại dưới thời phong kiến ở Việt Nam qua các chế độ: phân công, sắp xếp bố trí quan lại; luân chuyển, giản thải; kiểm tra, giám sát; chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan lại. Thông
- 5 qua đó, có thể khẳng định, chế độ sử dụng quan lại dưới thời phong kiến Việt Nam có sự kế thừa và phát triển phù hợp giữa các triều đại với nhau; càng về sau các vương triều càng có sự chú trọng hơn về chế độ sử dụng đội ngũ quan lại để có thể trọng dụng được nguồn nhân tài sẵn có của đất nước. Các chế độ quan lại ngày càng có nhiều ưu ái và đãi ngộ tốt hơn, giúp đội ngũ quan lại hạn chế được phần nào những tiêu cực trong quá trình làm việc, tập trung vào thực hiện nhiệm vụ được giao phó. 1.2.2. Sơ lược về lệ khảo thí, khảo khóa Phép khảo khóa được thực hiện từ thời Lý với tên gọi là “khảo công” đối với các quan văn – quan võ trong triều, niên hạn 9 năm một khóa, quan lại nào không có tội lỗi thì được thăng trật. Ngay từ giai đoạn đầu tiên thực hiện khảo công, nhà Lý đã phân loại các quan lại để khảo xét và trao chức vụ phù hợp với năng lực của từng người. Sang thời Trần đổi thành phép khảo khóa, thực hiện 15 năm một lần với các các quan văn võ ở địa phương. Nhìn chung, lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lý – Trần mặc dù góp phần công bằng vào việc đánh giá chất lượng đội ngũ quan lại nhưng còn khá đơn giản. Đến thời Lê sơ, lệ khảo thí, khảo khóa có nhiều chuyển biến tích cực. Đỉnh cao là dưới thời Lê Thánh Tông với hàng loạt các dụ, chỉ, sắc lệnh giúp hoàn thiện lệ khảo khóa và khảo thí quan lại. Bằng những quy định cụ thể về nội dung, mục đích, đối tượng, niên hạn thực hiện và sử dụng kết quả sau mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa; việc kiểm tra, đánh giá quan lại trở nên quy củ, công bằng, nghiêm minh và hiệu quả hơn các triều đại trước, góp phần củng cố bộ máy hành chính nhà nước. Từ thời Lê Trung Hưng về sau, lệ khảo khóa vẫn được tiếp tục thực hiện, song niên hạn và các chế độ khác đối với quan lại không giống nhau. 1.3. Tính kế thừa có chọn lọc của lịch sử hành chính 1.3.1. Quy luật của tính kế thừa lịch sử “Kế thừa” được hiểu là việc thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy (đối với những thứ có giá trị tinh thần). Kế thừa là mối liên hệ tất yếu, khách quan giữa cái mới và cái cũ trong quá trình phát triển, là một trong những nét cơ bản nhất của sự phát triển mọi ngành khoa học, trong đó có khoa học hành chính. Quá trình xây dựng và phát triển của lịch sử hành chính luôn có sự kế thừa và phát triển những chế độ, chính sách trước đó. Những chế độ, chính sách đúng đắn, phù hợp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước giống như một cánh tay hỗ trợ đắc lực cho các vương triều sẽ được kế thừa, phát triển, trường tồn cùng thời gian. Ngược lại, những chế độ, chính sách không hợp lý, không hiệu quả sẽ được sửa đổi hoặc thậm chí là loại bỏ; nhường chỗ cho những chế độ, chính sách khác phù hợp hơn với nhu cầu quản lý nhà nước 1.3.2. Học hỏi và kế thừa có chọn lọc chế độ quan lại trong lịch sử 1.3.2.1. Sự kế thừa chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Việt Nam Trải qua nhiều cuộc đấu tranh thực hiện cải cách, đổi mới đất nước, chính sách quan lại thời phong kiến nước ta có nhiều sự học hỏi, kế thừa giữa các triều đại với nhau, giúp cho chế độ, chính sách của các triều đại sau luôn phát triển và hiệu quả nhiều hơn các triều đại trước. Ngay từ khi Lý Công Uẩn lên ngôi trị vì, ông đã xây dựng lại hệ thống tổ chức bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt hơn cả, lần đầu tiên trong lịch sử phong kiến, Lý Công Uẩn dành sự quan tâm và xây dựng các cơ quan giám sát, kiểm tra đạo đức của vua quan trong triều; chú trọng chất lượng đội ngũ quan lại thông qua các kì khảo công. Sang thời Trần, nhà nước phong kiến quý tộc được xây dựng theo hướng quan liêu không có nhiều điểm nhấn trong chính sách quan lại, chế độ khảo khóa thực hiện 15 năm một lần nên chỉ mang tính hình thức là chính. Đến thời Lê sơ, việc xây dựng và ban hành chế độ, chính sách trong triều đã có nhiều chuyển biến tích cực. Với sự học hỏi, kế thừa và phát triển các chính sách quan lại của các triều đại trước, sự tinh anh trong nhận thức về tình hình đất
- 6 nước, Lê Thánh Tông đã thực hiện một cuộc cải cách hành chính hiệu quả; lệ khảo thí, khảo khóa nhận được sự quan tâm đặc biệt hơn cả. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, lần đầu tiên việc khảo thí được đưa vào nền nếp, việc khảo khóa được quy định thành một lệ, buộc phải tuân thủ thực hiện. Khi thời Lê sơ chấm dứt, các triều đại sau tùy thuộc vào tình hình đất nước để thực hiện chế độ quan lại, song phần lớn đều có kế thừa chế độ quan lại từ thời Lê Thánh Tông. Có thể khẳng định rằng, chế độ quan lại qua các triều đại phong kiến nước ta luôn có sự kế thừa và học hỏi từ những triều đại đi trước. Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi vương triều mà sự kế thừa được tiếp nhận và phát triển là khác nhau. 1.3.2.2. Học hỏi kinh nghiệm chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Trung Quốc Có ý kiến cho rằng “Chính quyền triều Lê là kết quả của quá trình tiếp nhận sáng tạo có sàng lọc, gọt đẽo từ mô hình bộ máy Trung Hoa, thích dụng với điều kiện thực tế của Việt Nam”. Thực tế cho thấy, chế độ quan lại của Trung Quốc có nhiều thay đổi giữa các triều đại, các triều đại sau thực hiện nhiều cách tân hơn so với các triều đại trước. Một số đặc điểm về quan chế Trung Quốc dưới thời phong kiến đã được Đại Việt ta học hỏi có thể kể đến như: tổ chức bộ máy quan lại, chế độ tuyển bổ quan lại, chính sách sử dụng quan lại,… Trong đó, chế độ giám sát là một trong những chế độ được chú trọng ngay từ những triều đại quân chủ chuyên chế đầu tiên, nhằm kiểm soát quyền lực của đội ngũ quan lại và điều hòa mâu thuẫn trong xã hội. Học hỏi cách kiểm tra, giám sát quan lại từ nhà nước phong kiến Trung Quốc, các triều đại nước ta đã chú trọng chế độ giám sát, đánh giá quan lại. Thời Lý, Trần coi đó là công việc trọng yếu và cần thiết song chưa có cơ chế và cách thức tổ chức hoạt động tốt nhất. Sang thời Lê sơ, bộ máy thực hiện chức năng đánh giá, giám sát cùng cơ chế thực hiện đã được tập trung cải tiến thêm một bước mới dựa trên những thành quả của bộ máy từ triều đại trước và học hỏi thành tựu Trung Quốc, vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tế đất nước. Tiểu kết chương 1: Quan lại là một nghề được coi trọng, nó có một vị trí cao thể hiện đẳng cấp của một con người. Bởi chỉ khi đạt tới thành tựu về kiến thức, địa vị, tiền tài, quyền lực và đẳng cấp cao trong xã hội mới là người làm quan. Chế độ quan lại bao gồm một quy trình trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại rất bài bản. Triều Lê sơ đã đã xây dựng được một đội ngũ quan lại dựa trên nền tảng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vô cùng thuận lợi. Bằng lệ khảo thí, khảo khóa được thực hiện nghiêm ngặt, vua Lê Thánh Tông đã có được đội ngũ quan lại đủ đức đủ tài, phục vụ cho việc xây dựng và phát triển đất nước. Bên cạnh đó, triều Lê sơ cũng kế thừa những thành quả trong quan chế từ các triều đại trong và ngoài nước, xây dựng lệ khảo thí, khảo khóa hoàn chỉnh từ việc thiết lập bộ máy thực hiện chức năng giám sát, tổ chức khảo thí, khảo khóa đến phân công, sắp xếp đội ngũ quan lại; nội dung mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa,… góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại, đưa đất nước nhanh chóng ổn định và phát triển cường thịnh.
- 7 CHƯƠNG 2 LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG (1460 – 1497) 2.1. Bối cảnh lịch sử và sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông 2.1.1. Bối cảnh lịch sử thời Lê sơ Không giống các triều đại khác là kế thừa chuyển giao quyền lực cho nhau, thời Lê sơ được thành lập bởi một cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài 10 năm – đó là khởi nghĩa Lam Sơn. Do vậy, đất nước được hình thành trong bối cảnh còn nhiều điều thiếu và yếu để đi lên. Song ngay từ buổi đầu dựng nước, năm 1428 Lê Lợi đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng thể chế, bộ máy nhà nước, tạo nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của một triều đại suốt 100 năm sau đó. 2.1.2. Sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông 2.1.2.1. Xuất phát từ yêu cầu của cuộc cải cách hành chính thời Lê Thánh Tông Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông bắt nguồn từ sự yếu kém của bộ máy hành chính từ thời vua Lê Thái Tổ đến vua Lê Nhân Tông. Tuy nhiên, cải cách hành chính dưới thời Lê Thánh Tông không chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân đó, trên thực tế cuộc cải cách này còn bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, mà từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông tuy các nhà vua này cũng muốn làm, nhưng chưa thực hiện được. Thứ nhất, do khủng hoảng thiết chế chính trị từ cuối thời Trần; thứ hai, đó là sự yếu kém của bộ máy hành chính nhà nước, sự tha hóa của đội ngũ quan lại triều đình; thứ ba, khủng hoảng cung đình là nguyên nhân trực tiếp khiến vua Lê Thánh Tông phải tiến hành cải cách hành chính. Với những nguyên nhân đã nêu trên, dựa trên những điều kiện sẵn có của Đại Việt bấy giờ, Lê Thánh Tông quyết định thực hiện một cuộc cải cách hành chính đất nước. Trước những tồn tại mà thực tế đặt ra, ông đã thực hiện cuộc cải cách hành chính khá toàn diện trên hai nội dung chủ yếu, đó là cải cách bộ máy hành chính và cải cách chế độ quan lại. Trong cải cách chế độ quan lại, Lê Thánh Tông thực hiện đổi mới từ việc tuyển chọn, đào tạo; kiểm tra, giám sát đến việc khen thưởng và xử phạt,… Để thực hiện hiệu quả chế độ quan lại, ông đã đặt ra lệ khảo thí, khảo khóa – biện pháp thực hiện kiểm tra, đánh giá tài năng, đức độ của quan lại từ trung ương đến địa phương. 2.1.2.2. Xuất phát từ mục đích cải cách đội ngũ quan lại dưới thời Lê Thánh Tông Nhận thức được vai trò đặc biệt của việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa; dưới thời Lê Thánh Tông, lệ khảo thí, khảo khóa được xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện như một lệ không thể bỏ qua. Việc ban hành và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa là tối quan trọng và cần thiết bởi vì: thứ nhất, khảo thí, khảo khóa thường xuyên giúp hạn chế những vấn đề còn tồn tại từ việc tuyển chọn quan lại bằng chế độ khoa cử; thứ hai, khảo thí, khảo khóa đánh giá phẩm hạnh của đội ngũ quan lại, hạn chế sự tha hóa về phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại trong triều đình; thứ ba, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa giúp xây dựng một đội ngũ quan lại chất lượng từ trung ương đến địa phương, góp phần thực hiện cải cách hành chính nhà nước được thực hiện hiệu quả. Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn đặt ra, lệ khảo thí, khảo khóa – biện pháp kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại được ban hành và đưa vào thực hiện nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại. 2.2. Nội dung lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông 2.2.1. Mục đích thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa 2.2.1.1. Làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng quan lại Kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông trước tiên được lấy làm cơ sở để đánh giá quan lại theo từng bậc, từ đó thực hiện các chế độ sử dụng đối với quan lại. Tùy thuộc vào kết quả của
- 8 kỳ khảo thí, khảo khóa mà các quan lại đã đạt được, có thể sẽ được thăng quan, thăng thưởng, hay giáng chức; được tuyển bổ hoặc bị luân chuyển đến vùng khác hay giản thải; nhiều quan lại có thể đổi ngạch đang đảm nhiệm,… sao cho phù hợp với năng lực thực tế của các quan lại sau kỳ kiểm tra, đánh giá. 2.2.1.2. Nâng cao ý thức đạo đức đội ngũ quan lại triều đình Với quan điểm: “Trăm quan là nguồn gốc của trị, loạn. Quan có đức, có tài thì nước trị. Quan vô đức, kém tài thềm, bậc dẫn đến họa loạn”. Để sử dụng đội ngũ quan lại sao cho phù hợp nhất, cần phải biết được đâu là người hay, kẻ dở, trong trăm quan ai là người có thực tài, mẫn cán, yêu nước thương dân, ai là người vô tài, vô đức, làm thì láo mà báo cáo thì hay, nhũng nhiễu dân chúng… Trên cơ sở đó, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa thường xuyên giúp nhắc nhở quan lại phải tận tâm hơn với trách nhiệm của mình, kích thích sự rèn luyện thường xuyên của quan lại cả về năng lực và đức hạnh để đáp ứng với yêu cầu thực tế, gắn trách nhiệm của quan lại với việc thực hiện nhiệm vụ được giao. 2.2.2. Kỳ hạn thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa Lệ khảo thí được thực hiện theo niên hạn 3 năm một lần. Cứ 3 năm một lần, các quan lại đương chức từ quan nhất phẩm đến cửu phẩm, cả quan văn lẫn quan võ, từ trong kinh đến ngoài đạo đều phải trải qua khảo thí. Ngay cả đối với những người đã đỗ trong các kỳ thi Đình, được bổ làm quan, đến kỳ khảo thí cũng phải khảo thí. Lệ khảo khóa được thực hiện lần lượt theo 3 kỳ. Sau khi nhậm chức từ đủ 3 năm trở lên, các lại, quan tham gia một kỳ khảo khóa. Theo đó: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo rồi mới tiến hành thăng giáng. 2.2.3. Tiêu chí thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa Nội dung khảo thí được quy định rõ ràng cho quan văn và quan võ. Quan văn thì giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân (thực chất đây là một bài văn theo yêu cầu, đề bài do nhà vua đích thân ra và trực tiếp chấm); quan võ thì thi dàn trận, bắn cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật. Nội dung lệ khảo khóa được thực hiện chú trọng vào 2 tiêu chí, đó là: thành tích công việc đã đạt được và được lòng dân nơi cai quản hay không. Tiêu chí đầu tiên dùng để đánh giá quan lại là năng lực hoạt động thực tiễn, mức độ hoàn thành và những thành tích đạt được trong công việc được giao. Tiêu chí thứ hai đánh giá tài năng, đức độ, sự mẫn cán của quan lại căn cứ vào kết quả làm việc của các vị quan lại tại nơi nhậm chức có duy trì được làng xã trù phú, giữ gìn thuần phong mỹ tục, có để xảy ra nạn trộm cướp hoành hành, đặc biệt nhân dân có được hưởng cuộc sống yên vui an lạc… hay không? 2.2.4. Đối tượng thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa Mọi quan lại đang tại chức từ nhất phẩm đến cửu phẩm, cả văn lẫn võ, từ trong kinh đến ngoài đạo, dù đỗ đại khoa hay mới được bổ nhiệm… không một đối tượng nào được miễn trừ, lẩn tránh thực hiện việc khảo thí. Kể cả đối với con cháu các quan viên đang còn đi học cũng cần tham gia khảo thí. Còn khảo khóa cũng được thực hiện đối với toàn bộ quan lại trong triều đình từ trung ương đến địa phương, bất kể giữ vị trí nào, nếu đã nhậm chức từ đủ 3 năm trở lên phải tham gia khảo khóa. 2.2.5. Trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa Ngự sử đài là cơ quan chuyên làm công việc giám sát ở triều đình, can gián nhà vua, đàn hặc các quan lại nhằm giữ gìn kỷ cương phép nước. Ngự sử đài xét lỗi, đàn hặc mọi quan lại văn, võ, điều tra đơn thư của người dân, duyệt xét các án tử. Bên cạnh Ngự sử đài, Lê Thánh Tông lập ra Lục khoa – cơ quan giám sát công việc của Lục bộ. Ở địa phương, Các ty tại thừa tuyên vừa là cơ quan quản lý, vừa là cơ quan phối hợp với trưởng quan phụ
- 9 trách các ty thực hiện giám sát, kiểm tra hoạt động quan viên dưới quyền. Trưởng quan phụ trách ty chịu trách nhiệm thực hiện trực tiếp công việc khảo thí, khảo khóa – nhận xét, đánh giá các quan lại dưới quyền cai quản của mình. 2.2.6. Xử lý kết quả sau khảo thí, khảo khóa Sau mỗi kỳ khảo thí, kết quả được chia làm 3 bậc: bậc 1: có tài cán, văn võ song toàn, làm việc nhanh, hiệu quả; bậc 2: biết chữ, tính toán giỏi; bậc 3: biết chữ. Dựa vào đánh giá quan lại sau mỗi lần khảo thí, nhà Lê phân bổ quan lại của các bậc vào các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương sao cho hợp lý. Người đỗ thì được phân công công việc, thưởng áo, tiền, thăng chức, tước. Còn người không đỗ thì bị giáng chức hoặc bãi chức; binh lính thì bị thải hồi hoặc bắt phục dịch các công việc nặng nhọc khác. Còn kết quả mỗi kỳ khảo khóa, quan lại được chia làm 3 loại, đó là: xứng chức, bình thường và không xứng chức. Quan nào nhận xét là xứng chức thì được thăng chức theo lệ. Quan nào bị quan trên nhận xét là không xứng chức thì lập tức bị bãi chức, bị giáng chức hoặc bị trừng phạt theo tội lỗi phạm phải. Người có biệt tài, được đặc chỉ thăng bổ thì không phải theo lệ ấy mà có thể làm sớm hơn so với quy định. 2.2.7. Việc thực hiện chế độ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông Trong suốt 38 năm trị vì, kể từ năm 1428 đến năm 1497, vua Lê Thánh Tông liên tục đưa ra dụ, sắc, lệnh để ngày một hoàn thiện hơn quy định về khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại triều đình. Cuối năm 1488, lệ khảo khóa được quy định chi tiết, cụ thể từ thời hạn, đối tượng thực hiện, đến trách nhiệm thực hiện của các quan lại. Cùng với đó, những dụ, sắc, lệnh được ban hành qua các năm giúp lệ khảo thí, khảo khóa càng về những năm cuối thời Hồng Đức càng được thực hiện nghiêm minh, rõ ràng. 2.3. Đánh giá thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông đã đem lại hiệu quả tích cực trong quá trình xây dựng các chế độ và sử dụng đội ngũ quan lại trong triều đình. Nhờ đó, ông đã xây dựng được một nhà nước với đội ngũ quan lại mẫn cán, trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính thời bấy giờ, đưa Đạt Việt đạt đến đỉnh cao của một nhà nước quân chủ phong kiến mà chưa có triều đại nào làm được. Những thành quả đáng kể từ việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông gồm: - Vua Lê Thánh Tông đã tập trung thể chế hóa lệ khảo thí, khảo khóa ngay từ những năm đầu tiên lên ngôi trị vì đất nước; - Mục đích việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa để đánh giá quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông được đặt ra rõ ràng; - Tiêu chí đánh giá của lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông được quy định cụ thể, dễ xác định; - Đối tượng áp dụng việc kiểm tra, đánh giá bằng lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều Lê Thánh Tông là toàn bộ đội ngũ quan lại triều đình, thể hiện sự quan tâm, sát sao của triều đình với chất lượng thực tế của đội ngũ quan lại; - Việc đưa ra kỳ hạn khảo thí, khảo khóa theo niên hạn 3 năm một lần buộc đội ngũ quan lại luôn học hỏi, không ngừng phấn đấu, thường xuyên rèn luyện bản thân; - Việc thực hiện khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông diễn ra nghiêm ngặt, chặt chẽ, đúng niên hạn đã đem lại hiệu quả cao trong việc đánh giá và sử dụng đội ngũ quan lại;
- 10 - Kết quả các kỳ khảo thí, khảo khóa được sử dụng hiệu quả trong việc làm cơ sở để ban hành các chính sách sử dụng khác cho đội ngũ quan lại. Nhìn chung, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông là hoạt động đã đạt được nhiều thành tựu trong quá trình quản lý và sử dụng đội ngũ quan lại. Nhờ đó, dưới những năm trị vì của ông, những hoạt động cải cách, cách tân đất nước được triển khai, thực hiện nhanh chóng, mang lại một kết quả cao, gây dựng Đại Việt vững mạnh. Tiểu kết chương 2: Với một thế kỷ tồn tại, triều Lê sơ là triều đại đưa đất nước đạt đến thời kỳ hưng thịnh nhất của phong kiến Việt Nam ta. Dưới thời Lê Thánh Tông, cuộc cải cách hành chính đã làm cho nhiều phương diện của đất nước đã có sự thay đổi rõ rệt. Trong đó, chế độ quản lý và sử dụng quan lại dưới thời Lê Thánh Tông là một chế độ được đánh giá là khá hoàn chỉnh, vừa tạo động lực cho quan lại phấn đấu, vừa thúc đẩy sự cạnh tranh minh bạch trong quan trường. Chế độ quan lại đạt được thành tựu như vậy là nhờ một phần không nhỏ của việc ban hành và sử dụng lệ khảo thí, khảo khóa đúng niên hạn, mục đích và nội dung khảo thí, khảo khóa rõ ràng. Vua Lê Thánh Tông đã xây dựng được một đội ngũ quan lại vừa có đức, vừa có tài, mẫn cán với công việc, luôn tuân thủ pháp luật, tạo nguồn lực vững mạnh trong công cuộc thực hiện cải cách, đổi mới đất nước. CHƯƠNG 3 NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay 3.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay Luận văn đưa ra cách hiểu về cán bộ, công chức ở nhiều quốc gia trên thế giới và khái niệm cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2020. Trên cơ sở đó rút ra cách hiểu chung về cán bộ, công chức. Luận văn cũng đưa ra cái nhìn tổng quan về việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay thông qua quan điểm chỉ đạo của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước ban hành, từ đó khẳng định việc đánh giá cán bộ, công chức được thực hiện hàng năm hiện nay tương tự với việc thực hiện khảo thí, khảo khóa để kiểm tra, đánh giá quan lại thời xưa. 3.1.2. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay Đứng trên góc độ quan điểm cá nhân và thực tế của kết quả điều tra xã hội học, luận văn đánh giá thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay thông qua việc đưa ra những thành tựu đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại. Một số thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện đánh giá cán bộ, công chức đáng kể đến ở nước ta hiện nay bao gồm: - Thứ nhất, công tác đánh giá cán bộ, công chức nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước; - Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện cơ bản hệ thống thể chế về đánh giá và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức trong cả nước;
- 11 - Thứ ba, việc đánh giá cán bộ, công chức bám sát quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng; - Thứ tư, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức dần được nâng lên. Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức đã trưởng thành hơn, có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, luận văn đưa ra những hạn chế còn tồn tại trong việc đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta như sau: - Một là, hệ thống pháp luật chưa thực sự hoàn chỉnh; - Hai là, hệ thống những tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức khó đánh giá chính xác, còn mang tính định tính; - Ba là, việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức còn mang tính hình thức, cào bằng, mang nặng ý chí chủ quan và cảm tính, chưa khách quan, công bằng, sát thực; - Bốn là, quá trình thực hiện đánh giá cán bộ, công chức tại nhiều cơ quan, địa phương còn hạn chế và lúng túng; - Năm là, kết quả của việc đánh giá cán bộ, công chức chưa được sử dụng có hiệu quả trong quản lý đội ngũ cán bộ, công chức; - Sáu là, mục đích thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hàng năm chưa được xác định rõ ràng. Cùng với việc đưa ra những luận điểm trên, Luận văn minh họa cụ thể kết quả khảo sát bằng biểu đồ về việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay và những bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông với những con số thống kê cụ thể, dễ so sánh, đánh giá. Với những thành tựu và hạn chế đã kể trên, việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hiện nay cần chú trọng nghiên cứu, nhìn nhận lại lịch sử nước nhà và học hỏi kinh nghiệm, vận dụng linh hoạt sáng tạo vào điều kiện hiện tại. 3.2. Những giá trị tham khảo từ lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông 3.2.1. Coi trọng việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức, coi đó là hoạt động tối cần thiết để đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Đảng và Nhà nước ta cần đổi mới và nâng cao nhận thức về việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức hàng năm; cần hiểu rõ tầm quan trọng và cần thiết của đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng vừa chuyên, đủ đức đủ tài trong tiến trình cải cách toàn diện đất nước. Trong bất kỳ hoạt động nào của đất nước, nguồn nhân lực có chất lượng tốt luôn là nhân tố then chốt quyết định sự thành công. Vậy nên, chỉ khi coi trọng việc kiểm tra, đánh giá thì chất lượng cán bộ, công chức mới được nâng lên và nhanh chóng hoàn thiện; đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước mới được củng cố vững chắc; việc thực hiện cải cách hành chính – kinh tế – xã hội của đất nước mới có thể diễn ra suôn sẻ, thuận lợi, gặt hái được nhiều thành công. 3.2.2. Chú trọng việc xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đảm bảo việc đánh giá cán bộ, công chức nghiêm ngặt, chặt chẽ, có hiệu lực hiệu quả Dưới thời Lê Thánh Tông, văn bản pháp luật và các chỉ, dụ, lệnh hay các tài liệu khác có liên quan đến việc thực hiện chế độ quan lại nói chung, lệ khảo thí, khảo khóa nói riêng đều được xây dựng khá hoàn chỉnh thành một hệ thống, tạo nên tính thống nhất từ trung ương cho đến các địa phương. Ngày nay, trước trước hạn chế về sự
- 12 thiếu đồng bộ và thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, cần có những biện pháp kịp thời nhằm xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật nhằm tạo khung hành lang pháp lý; trên cơ sở đó, xây dựng và hoàn thiện những chính sách khác, đặt biệt là những chính sách liên quan đến quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. 3.2.3. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện công tác đánh giá cán bộ, công chức hoạt động độc lập Dưới thời Lê Thánh Tông, bộ máy kiểm tra, giám sát không là bộ phận hợp thành bên trong của hệ thống quyền lực đang cần phải kiểm tra, giám sát mà nó đứng bên ngoài để kiểm tra, giám sát. Vì thế, bộ máy kiểm tra, giám sát có khả năng kiểm tra, giám sát được toàn bộ hệ thống quyền lực nhà nước. Khi thực hiện cải cách hành chính nhà nước cần chú trọng hơn nữa vào nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, nhất là bộ máy thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát ở nước ta hiện tại. Cần có sự phân cấp, phân quyền rõ ràng; tạo cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan kiểm tra, giám sát để có thể thực hiện kiểm tra, đánh giá có hiệu lực, hiệu quả hơn nữa. 3.2.4. Coi trọng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá Việc lựa chọn đội ngũ quan lại có kinh nghiệm làm việc, đủ đức đủ tài trở thành người chịu trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa đối với các quan viên khác trong lịch sử cải cách của Lê Thánh Tông là một bài học kinh nghiệm quý báu trong sử dụng đội ngũ quan lại. Trong quá trình xây dựng chính sách quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức ngày nay, cần coi trọng hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá. Có như vậy mới có thể xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, góp phần xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh. 3.2.5. Xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp thực hiện đánh giá cán bộ, công chức Việc xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp tiến hành đánh giá cán bộ, công chức góp phần định hướng cụ thể, chi tiết đích đến phải đạt được, và hướng đi sao cho đúng. Chỉ khi có định hướng đúng đắn và kế hoạch thực hiện cụ thể thì việc đánh giá mới được triển khai hiệu quả, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. 3.2.6. Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá rõ ràng, cụ thể; dễ đo lường, kiểm chứng Những tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta hiện đang sử dụng khó có thể xác thực và đánh giá chính xác, còn mang tính chất định tính là nhiều. Để việc đánh giá được thực hiện hiệu quả hơn, cần phải đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ thể và rõ ràng hơn, đồng thời dễ dàng khảo sát lại bằng thực tế. Ví dụ, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, có thể ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện việc đánh giá với những quy định cụ thể hơn, dễ xác thực và lượng hóa hơn trong nội hàm từng tiêu chí để việc đánh giá được thực hiện chính xác và xác thực, góp phần đánh giá đúng năng lực, trình độ và thái độ làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay; nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ, công chức. 3.2.7. Xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công chức Để xử lý và sử dụng có hiệu quả hơn kết quả đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức; cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đưa ra những quy định và hướng dẫn cụ thể cho việc xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công chức. Từ đó, tạo động lực phấn đấu cho cán bộ, công chức luôn cố gắng rèn luyện trình độ kiến thức, trau dồi phẩm chất đạo đức, cố gắng hoàn thiện bản thân để luôn đạt được kết quả tốt
- 13 nhất sau mỗi kỳ kiểm tra, đánh giá. Chỉ có sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiệu quả mới tạo được tiền đề việc đánh giá cán bộ, công chức được thực hiện thêm phần khách quan, công bằng và hiệu quả hơn. 3.3. Một số kiến nghị cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay 3.3.1. Kiến nghị đối với các nghiên cứu tiếp theo Luận văn “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” mới chỉ là một nghiên cứu nhỏ vì việc nghiên cứu lịch sử hành chính nhằm rút ra kinh nghiệm cho công cuộc cải cách hành chính nói chung và quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng còn rất nhiều nội dung mà Luận văn chưa có đủ điều kiện và thời gian để tiếp cận sâu hơn. Những kinh nghiệm về chính sách sử dụng quan lại, đánh giá đội ngũ quan lại dưới triều vua Minh Mệnh; về việc kế thừa chính sách sử dụng và đánh giá quan lại của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới;… là những bài học có giá trị trong công cuộc cải cách việc quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Đây là những vấn đề rộng mà trong thời gian tới, cần có thêm nhiều nghiên cứu đi sâu tìm hiểu hơn. 3.3.2. Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền Để thực hiện tốt quá trình đánh giá cán bộ, công chức, các cấp chính quyền cần có những thay đổi nhất định trước, trong và sau khi thực hiện đánh giá cán bộ, công chức. Luận văn đưa ra một vài kiến nghị cho các giai đoạn thực hiện đánh giá cán bộ, công chức nhằm thúc đẩy việc đánh giá trở nên hiệu quả hơn, góp phần thành công trong quản lý và sử dụng cán bộ, công chức nhà nước. 3.3.3. Kiến nghị đối với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là cái nôi tạo ra đội ngũ cán bộ, công chức, do vậy cần chú trọng những nội dung, phương pháp và cách thức thực hiện đào tạo, bồi dưỡng để có được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng vừa chuyên. Các đơn vị đào tạo cần chú trọng xây dựng các môn học, giáo trình, chương trình giảng dạy, kết hợp các phương pháp giảng dạy xen kẽ nhằm tạo hiệu ứng tốt nhất trong quá trình truyền tải kiến thức. Đồng thời, kết hợp giữa “học” với “hành”; giữa đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ với việc quan tâm nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức. 3.3.4. Kiến nghị đối với cán bộ, công chức Mỗi cán bộ, công chức cần không ngừng học tập, rèn luyện năng lực chuyên môn và đạo đức, lối sống cho bản thân. Đó là những điều rất tốt ông cha đã làm được, để lại nhiều bài học quý báu cho chúng ta hiện nay. Tiểu kết chương 3: Từ hệ thống khái niệm về cán bộ, công chức và những nhận thức chung về việc đánh giá cán bộ, công chức; sau khi đối chiếu với khái niệm quan lại, chế độ quan lại và việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại, có thể khẳng định rằng cán bộ, công chức ngày nay chính là quan lại thời xưa, và khái niệm đánh giá cán bộ, công chức ngày nay tương đương với lệ khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại thời xưa. Trên cơ sở lý luận đã đưa ra, luận văn đã đưa ra thực trạng của việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức đang được thực hiện theo hệ thống pháp luật hiện hành. Từ đó, đối chiếu với việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông để đúc rút những bài học kinh nghiệm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại của đất nước.
- 14 KẾT LUẬN Với mục đích tập trung nghiên cứu lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 -1497) để rút ra những bài học có giá trị trong việc đánh giá cán bộ, công chức ngày nay, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa hồng vừa chuyên, Luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau: 1. Hệ thống hóa các vấn đề chung về chế độ quan lại, lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời phong kiến ở nước ta, bao gồm: Thứ nhất, hệ thống hóa các khái niệm “quan lại” và “chế độ quan lại”, đề xuất khái niệm lại chung nhất như sau: Quan lại là những người làm việc trong bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến, trong đó “quan” là những người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được tuyển chọn bằng nhiều phương pháp khác nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại” là những người được tuyển chọn vào làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ triều đình đến cấp huyện để giúp việc cho quan. Khái niệm chế độ quan lại bao gồm một quy trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng có phân công, sắp xếp bố trí quan lại; luân chuyển, giản thải; kiểm tra, giám sát; chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan lại,…). Thứ hai, tóm tắt chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời phong kiến ở Việt Nam. Theo đó, luận văn đề cập đến các chế độ quan lại như chế độ tuyển dụng, các chế độ sử dụng quan lại (bao gồm: phân công và sắp xếp, luân chuyển và giản thải, kiểm tra và giám sát đội ngũ quan lại) trong thời phong kiến. Từ đó tập trung vào chế độ kiểm tra và giám sát quan lại thông qua lệ khảo thí, khảo khóa. Thông lệ này mặc dù đã được tổ chức thực hiện từ thời Lý song chưa có quy định rõ ràng nên chưa thực hiện thường xuyên: Nhà Lý lấy 9 năm làm một khóa, nhà Trần lấy 15 năm một lần xét. Thời hạn này được đánh giá là “chậm trễ quá”. Đến thời Lê sơ, việc thực hiện chế độ quan lại đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt, lệ khảo thí, khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được xây dựng quy củ, thực hiện nghiêm minh, công bằng và có hiệu quả lớn đối với việc củng cố bộ máy hành chính nhà nước. Các triều đại về sau lấy chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa đã ban hành dưới thời Lê Thánh Tông làm nền tảng cho việc xây dựng và áp dụng các chính sách đối với quan lại, song niên hạn đánh giá mỗi giai đoạn một khác. Thứ ba, chỉ rõ chính sách quan lại và việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa ở nước ta có sự học hỏi, kế thừa có chọn lọc từ chế độ quan lại của các triều đại trước trong nước và nước ngoài, mà điển hình là của Trung Quốc. Chế độ quan lại trong nước ta những ngày đầu bắt đầu chế độ phong kiến còn nhiều hạn chế và thiếu sót, do các vua quan tập trung xây dựng và củng cố quân đội bảo vệ đất nước. Càng về sau các triều đại càng chú trọng đến việc cải cách và thực hiện tốt hơn chế độ quan lại nhằm tạo nền tảng vững chắc để xây dựng quốc gia hưng thịnh. Bên cạnh việc học hỏi và kế thừa những thành tựu của các triều đại trong lịch sử phong kiến Đại Việt, chế độ quan lại nước ta còn có sự kế thừa có chọn lọc chế độ quan lại phong kiến Trung Quốc. Về tổ chức bộ máy quan lại, chế độ tuyển bổ và sử dụng quan lại đều có những nét khá tương đồng với Trung Quốc hơn 2000 năm lịch sử phong kiến. Ngự sử đại phu – bộ phận thực hiện chức năng giám sát đã được xây dựng từ ngay những năm đầu tiên của chế độ phong kiến Trung Quốc, càng về triều đại sau càng được hoàn thiện hơn. Việc thực hiện kiểm tra, đánh giá quan lại dưới thời Tống ở Trung Quốc khoảng những năm đầu thế kỷ XII cũng diễn ra 3 năm một lần, đánh giá quan lại dựa trên việc thực hiện một bài thi và hiệu quả hoạt động thực tế của mỗi quan viên. Trên cơ sở kết quả đánh giá quan lại, nhà Tống thực hiện việc thăng giáng chức quan phù hợp; khen thưởng hoặc trừng
- 15 phạt quan viên nghiêm khắc bằng hình thức tự thôi việc hoặc buộc thôi việc; bổ nhiệm vị trí quản lý tương xứng với năng lực và phẩm chất đạo đức quan lại,… Đây là một chế độ kiểm tra, giám sát quan lại khá hoàn thiện, được phong kiến Việt Nam tiếp thu có sáng tạo và vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tế. 2. Tìm hiểu về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), và Luận văn khẳng định chế độ kiểm tra, đánh giá quan lại dưới thời Lê Thánh Tông là một chế độ tương đối hoàn chỉnh, vừa tạo động lực cho quan lại phấn đấu, vừa thúc đẩy sự cạnh tranh minh bạch trong quan trường. Với bối cảnh lịch sử đầy khủng hoảng, triều Lê sơ được thiết lập từ một cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài 10 năm. Nhưng ngay từ những ngày đầu thành lập, triều Lê sơ đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng thể chế, bộ máy nhà nước, tạo nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của một triều đại suốt 100 năm tồn tại của thời Lê sơ. Để trở thành một triều đại hưng thịnh nhất suốt 1000 năm lịch sử phong kiến Việt Nam, cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được triển khai thực hiện khá thành công. Cải cách tập trung vào việc xây dựng và tổ chức lại hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước và chú trọng cải cách chế độ quan lại. Điểm sáng trong quá trình cải cách của vua Lê Thánh Tông là việc ban hành lệ khảo thí, khảo khóa – chính sách đánh giá đội ngũ quan lại khá hoàn chỉnh so với các triều đại trước đó. Theo đó, lệ khảo thí, khảo khóa được thực hiện nhằm 2 mục đích chính, đó là: làm cơ sở thực hiện các chế độ sử dụng quan lại và góp phần nâng cao ý thức đạo đức của đội ngũ quan lại trong triều. Tất cả quan lại trong triều đình đều phải tham gia thực hiện các kỳ khảo thí, khảo khóa khi đã đủ thời gian làm việc là 3 năm. Với kỳ hạn thực hiện khảo thí 3 năm một lần, khảo khóa thực hiện theo 3 kỳ: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo và 9 năm thông khảo; nội dung các kỳ khảo thí, khảo khóa được quy định rõ ràng. Với kỳ khảo thí, quan văn thì giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân; quan võ thì thi dàn trận, bắn cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật. Kỳ khảo khóa chú trọng đánh giá 2 nội dung là thành tích công việc đã đạt được và được lòng dân nơi cai quản hay không; nghĩa là đánh giá toàn diện về cả trình độ, kiến thức, kỹ năng của quan lại để xử lý công việc được giao và tư cách, phẩm chất đạo đức khi làm quan. Lệ khảo thí, khảo khóa ban hành kèm theo việc quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại và việc xử lý, sử dụng kết quả đánh giá quan lại trong việc thực hiện các chính sách khác đối với quan lại. Từ những nội dung trên, luận văn đưa ra những đánh giá khách quan về việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông, có sự đối chiếu với những triều đại khác trong lịch sử phong kiến để thấy được sự hoàn thiện của chính sách được ban hành dưới triều Lê Thánh Tông. 3. Luận văn đã phân tích, đánh giá việc kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại dưới triều Lê Thánh Tông trong mối liên hệ chặt chẽ với việc đánh giá cán bộ, công chức ngày nay. Trên cơ sở tìm hiểu về cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay qua tư tưởng của Đảng cùng pháp luật của Nhà nước, luận văn đánh giá khách quan thực trạng của việc đánh giá cán bộ, công chức đang được thực hiện. Từ những kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức, Luận văn gợi mở những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo đúc rút từ lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay ở Việt Nam; định hướng cho việc tiếp thu, kế thừa giá trị lịch sử hành chính một cách có chọn lọc và khách quan nhất. Để những bài học, những giá trị tham khảo ấy phục vụ cho nhiệm vụ đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức; có thể ứng dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay; Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức thực hiện đánh giá; các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.
- DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ STT Tên công trình nghiên cứu Tạp chí đăng tải 1 Khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học Tạp chí Khoa học thời đại Bình kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện Phước số 47, 2019, tr50-53. nay
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 232 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn