Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông
lượt xem 3
download
Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung và cơ bản của hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. Phân tích, đánh giá một cách đúng đắn thực trạng QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông, nêu ra những kết quả khả quan đã đạt được cũng như làm rõ những mặt khó khăn, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HUỲNH THỊ CÁT TƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - NĂM 2017
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐINH VĂN TIẾN Phản biện 1:…TS. HOÀNG SỸ KIM…………………………………… ……………………………………………………………….. Phản biện 2:…TS. LƯƠNG THANH SƠN …………………………….. ……………………………………………………………….. Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp ..., Nhà..... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP……………… Thời gian: vào hồi …9h30… giờ ..27… tháng …5… năm 2017 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới Việt Nam có một nền văn hóa mang bản sắc dân tộc độc đáo riêng. Là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc anh em nên Việt Nam có một hệ thống đồ sộ và đặc sắc về các lễ hội. Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Việt Nam thì hoạt động về lễ hội là lĩnh vực văn hóa rất nổi bật, bởi lẽ nó giúp cho người dân Việt Nam ta nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng cuộc sống an lành, yên vui. Đắk Nông là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên của Việt Nam, cũng có đông dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn, nên hoạt động về lễ hội ở đây cũng hết sức độc đáo và nổi bật mang nhiều nét đặc sắc, đậm nét truyền thống và bản sắc riêng của các dân tộc tại chỗ là M’Nông, Ê Đê, Mạ với nhiều lễ hội như: Lễ hội đâm trâu, Lễ mừng nhà mới, Lễ cúng thần nước, Lễ hội cồng chiêng… Nét đặc sắc trong kho tàng văn hóa của Đắk Nông có nhiều điểm tương đồng với tỉnh Đắk Lắk (do được tách ra từ tỉnh Đắk Lắk) và mang đặc trưng của khu vực Tây nguyên như: những bộ sử thi (trường ca Đam san, Xinh Nhã, Đam Kteh…), những phong tục cổ, kiến trúc nhà sàn, nhà rông, tượng nhà mồ, các nhạc cụ truyền thống (cồng chiêng, đàn đá, đàn T’rưng…). Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Nông đã có sự quan tâm và chỉ đạo sâu sắc đến các hoạt động về lễ hội trên địa bàn tỉnh, đã đề ra nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách đúng đắn để nhằm gìn giữ, phát huy và bảo tồn các hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh. Bởi lẽ, lễ hội mang trong mình tính giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương, tự hào dân tộc, xây dựng tinh thần đoàn kết trong cộng đồng. Vì thế mà, lễ hội được xem là một hoạt động văn hóa đặc biệt và nhạy cảm, nên rất cần có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, nhằm đảm bảo các hoạt động này diễn ra lành mạnh, đúng bản chất, không bị biến tướng, lợi dụng và xuyên tạc nội dung. Công tác QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh đã gặt hái được nhiều kết quả khả quan, đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã làm và đã đạt được thì vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra trước mắt cần phải quan tâm. Quan trọng nhất là các hình thái tổ chức lễ hội ngày càng mai một dần, nét đặc trưng, đặc sắc vốn có làm nên tinh thần của lễ hội dần dần được chuyển đổi hoặc thay thế, người dân đặc biệt là lớp trẻ hiện nay không còn mặn mà với truyền thống, không biết tiếp thu và giữ gìn các truyền thống quý báu của cha ông đi trước đã để lại, và hơn hết thảy đó là dựa vào các hoạt động lễ hội của đồng bào các dân tộc, kẻ xấu đã lợi dụng xuyên tạc và kích động. Điều đó đặt ra cho công tác QLNN là làm sao phải đưa các lễ hội hết sức đặc trưng này diễn ra đúng với giá trị cao đẹp vốn có của nó. Điều này có ý nghĩa chiến lược tới sự phát triển của văn hóa tỉnh Đắk Nông nói riêng và của cả nước nói chung trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong tiến trình hội nhập với thế giới, đồng thời làm cho nền tảng tinh thần của xã hội ngày càng vững chắc, tiến bộ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần của nhân dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông” làm đề tài viết luận văn thạc sĩ Quản lý công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Vấn đề về QLNN về hoạt động lễ hội nói chung trên phạm vi quốc gia và phạm vi địa phương cụ thể là đề tài được nhiều cơ quan, ban ngành, học giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều đề tài khoa học có giá trị về lý luận cũng như thực tiễn cao góp phần bổ sung, ứng dụng vào việc tăng cường công tác QLNN về hoạt động lễ hội trên phạm vi cả nước nói chung và của từng địa phương cụ thể nói riêng. Chúng ta có thể điểm qua một số công trình, đề tài tiêu biểu đã được công bố sau đây: 1
- Lê Như Hoa (2004), “Quản lý lễ hội dân gian cổ truyền - thực trạng và giải pháp”, đề tài khoa học cấp Bộ. Đề tài đã nêu lên được cơ sở lý luận về lễ hội dân gian cổ truyền - một di sản văn hóa của dân tộc. Đề tài cũng đã phân tích rõ thực trạng và những nhận thức về quản lý lễ hội dân gian cổ truyền ở nước ta hiện nay. Và điểm nhấn mạnh của đề tài là những giải pháp cụ thể và mang tính vận dụng cao đối với công tác quản lý lễ hội góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa - du lịch. TS. Nguyễn Quang Lê (2009), “Nhận diện bản sắc văn hóa qua một số lễ hội truyền thống của người Việt”, đề tài khoa học cấp Bộ. Nội dung công trình gồm 7 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản; Chương 2: Lớp văn hóa bản địa - nền tảng của bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt; Chương 3: Lớp giao lưu văn hóa với phật giáo trong bản sắc văn hóa: Lễ hội chùa; Chương 4: Lớp giao lưu văn hóa với Đạo giáo trong bản sắc văn hóa: Lễ hội thờ các vị thánh bất tử và Đức Thánh Trần; Chương 5: Lớp giao lưu văn hóa với Nho giáo trong bản sắc văn hóa: Thể chế hóa hệ thống nghi lễ trong lễ hội; Chương 6: Lớp giao lưu văn hóa với tín ngưỡng Chăm trong bản sắc văn hóa người Việt; Chương 7: Việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội Việt Nam hiện đại. GS.TS. Lê Hồng Lý (2014), “Vai trò của Nhà nước đối với lễ hội dân gian hiện nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số (6), tr. 3-7. Bài viết đã khái quát chung nhất về hình thức của các lễ hội dân gian cũng như thống kê về các lễ hội dân gian tại Việt Nam. Nêu lên được vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức các lễ hội dân gian. Tuy nhiên sự tham gia của Nhà nước vào công tác tổ chức lễ hội dân gian cũng có những bất cập từ việc tham gia này. Tác giả, đã nêu lên được những bất cập ấy, thông qua đó giúp đề cao được vai trò của nhà nước, tránh những sai sót xảy ra trong công tác quản lý lễ hội dân gian của Nhà nước. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (2015), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Đây là công trình miêu tả khá toàn diện và có hệ thống. Nội dung cuốn sách được chia là 3 phần: Phần 1: miêu tả lễ hội của người Việt và lễ hội của các dân tộc thiểu số; Phần 2: bao gồm các câu ca, hội hè thường được trình diễn trong các lễ hội; Phần 3: Miêu tả các trò diễn, trò chơi, cuộc thi tài trong lễ hội. Thông qua đó, người đọc một lần nữa có cái nhìn hệ thống lại những trò diễn trong dân gian giữa các vùng miền trên cả nước. PGS.TS. Bùi Hoài Sơn (2012), “Lễ hội truyền thống - thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, số 1(831), tr. 72-77. Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc sắc. Trong những năm vừa qua, đã có không ít người vội vã cho rằng, xã hội hiện đại với nhịp sống hối hả không còn phù hợp cho việc tổ chức các lễ hội truyền thống, các lễ hội này sẽ biến mất... Thực tế đã cho thấy điều ngược lại, các lễ hội truyền thống ngày càng được phục hồi, kịch bản được phục dựng và được tổ chức nhiều hơn, quy mô hơn, có tác động đến nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội. Bài viết đã nêu khá rõ thực trạng của các hoạt động lễ hội truyền thống hiện nay ở nước ta. Đồng thời bài viết cũng đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa. PGS.TS. Bùi Quang Thanh (2016), “Quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đối với lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng Sản, số 2(880), tr. 95-101. Đây là một bài viết khá hay, tác giả đã chỉ ra được thực trạng văn hóa lễ hội cổ truyền ở nước ta hiện nay, tài liệu còn có những số liệu thống kê về số lượng lễ hội cổ truyền ở nước ta, những điểm tích cực mới, những bất cập, những vấn đề phản văn hóa nào đang diễn ra, bài viết cũng đề cập khá rõ. Tác giả bước đầu đi sâu khảo sát thực trạng hoạt động quản lý văn hóa tại một số di tích và địa phương tổ chức lễ hội mang tính phổ biến, đại diện, hiện hữu trong không gian văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, cho phép nhận diện một số vấn đề (cả lý luận lẫn thực tiễn) liên quan đến công tác quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đã và đang đặt ra ở Việt Nam lâu nay. Tác giả cũng nêu lên 2
- những nhận định sâu sắc từ những vấn đề đã và đang đặt ra đối với việc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý văn hóa với văn hóa quản lý trong phạm vi lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay. Nguyễn Thị Tuyến (2016) “Một số vấn đề đặt ra trong quản lý lễ hội hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 4(382), tr. 3-6, 11. Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, có thể thấy việc tổ chức và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc văn hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả cho cả nhà quản lý và cộng đồng. Bài viết đã nêu lên được thực tiễn quản lý lễ hội ở nước ta hiện nay. Cùng với những kết quả đạt được, việc quản lý lễ hội ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Tác giả Nguyễn Thị Tuyến cũng phân tích rõ những hạn chế cùng nguyên nhân của những hạn chế đồng thời đưa ra được những nhận định về một số vấn đề đặt ra trong quản lý lễ hội ở nước ta hiện nay. PGS. Lê Trung Vũ, PGS.TS. Lê Hồng Lý (2000), Lễ hội Việt Nam, Nxb. Văn hóa - thông tin. Đây là công trình tập thể của nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu, biên khảo... Sách tập trung một cách hệ thống các bài viết về những lễ hội hiện còn duy trì trên đất nước Việt Nam, mặc dù trong số đó có một phần ngày nay đã thay đổi hoặc không còn được duy trì thường xuyên nữa. Thông qua những mô tả sinh động của các bài khảo cứu trong sách, chúng ta sẽ có một nhận thức khá đầy đủ về lễ hội Việt Nam ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Đây có thể xem là công trình biên khảo lớn nhất hiện nay về chủ để này. Ngoài ra, sách còn có thêm một phần phụ lục biên soạn về các lễ hội lớn ở vùng Đông Nam Á. Những công trình nghiên cứu, các đề án, các bài viết, các cuộc hội thảo khoa học liên quan đến hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại Việt Nam đã nêu lên được cơ sở lý luận cũng như đánh giá được thực trạng công tác QLNN về hoạt động lễ hội tại Việt Nam. Các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tư liệu quý giá để tham khảo, áp dụng và kế thừa rất đáng để trân trọng. Tuy nhiên, đề tài “Quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông” là một đề tài mới mang tính đặc thù riêng, nghiên cứu cụ thể mà chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu và làm rõ hơn nữa về lý luận cũng như thực tiễn công tác QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông hiện nay, nhằm góp phần đưa công tác QLNN về hoạt động lễ hội của tỉnh vào vòng quay ổn định, bền vững hòa nhập với công cuộc phát triển văn hóa của các tỉnh Tây nguyên nói riêng và của cả nước nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xu hướng hội nhập góp phần xây dựng một bền văn hóa tinh thần ổn định và bền vững. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận chung về QLNN đối với hoạt động lễ hội như khái niệm, vai trò, chức năng... - Nghiên cứu kinh nghiệm của hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội của một số tỉnh, thành phố lân cận. - Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian qua, nêu lên những kết quả khả quan đã đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất phương hướng, giải pháp phù hợp, khả thi với điều kiện vốn có của tỉnh nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông hiện nay, tầm nhìn đến năm 2030. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3
- 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động QLNN có hiệu quả và hiệu lực về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội. - Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tinh Đắk Nông. - Về Thời gian: Nghiên cứu công tác QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có sử dụng số liệu của giai đoạn trước để so sánh. Phương hướng, giải pháp cho QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới, tầm nhìn đến năm 2030. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê, so sánh. - Phương pháp điều tra, khảo sát, thực tiễn. Ngoài ra luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công tŕnh nghiên cứu khoa học đã được công bố. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận chung và cơ bản của hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. - Phân tích, đánh giá một cách đúng đắn thực trạng QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông, nêu ra những kết quả khả quan đã đạt được cũng như làm rõ những mặt khó khăn, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản, khả thi để áp dụng vào thực tiễn, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh trong thời gian tới. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan và cá nhân trong việc nghiên cứu, hoạch định chính sách bảo tồn, giữ gìn và phát huy các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội. Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. Chương 3: Quan điểm, định hướng và một số giải pháp quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông. 4
- Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm về lễ hội - Khái niệm về nghi lễ: Nghi lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ niệm một sự kiện, nhân vật nào đó nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện về sự kiện, nhân vật đó với mong muốn nhận được sự may mắn tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng siêu linh mà người ta thờ cúng. - Khái niệm về hội: Hội là tập hợp những hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội của một cộng đồng dân cư nhất định, là cuộc vui tổ chức cho đông đảo người dân tham dự theo phong tục truyền thống hoặc nhân những dịp đặc biệt. Những hoạt động diễn ra trong hội phản ánh điều kiện, khả năng và trình độ phát triển của địa phương, đất nước ở vào thời điểm diễn ra các sự kiện đó. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong một khoảng thời gian và không gian xác định, nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời là dịp để biểu hiện các ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên - thần thánh và con người trong xã hội. 1.1.2. Khái niệm về lễ hội truyền thống Lễ hội truyền thống còn được gọi là lễ hội dân gian hay lễ hội cổ truyền, thường tổ chức ở đình, chùa (chùa mang chức năng hội làng), đền, miếu, phủ, điện... trong các làng gọi là Hội làng, hoặc ngày nay ở thị trấn, tỉnh thành thì gọi là Hội đình, Hội đền, Hội phu, do dân làng, trước hết là các cụ - đại biểu của những tầng lớp trong cộng đồng làng, phường, phố tổ chức. 1.1.3. Khái niệm về lễ hội hiện đại Lễ hội hiện đại là những hoạt động mang ý nghĩa xã hội có liên quan đến các sự kiện chính trị, quân sự, văn hóa xã hội như các hoạt động chào mừng những sự kiện nào đó, lễ khai mạc hay bế mạc các sự kiện quan trọng gắn với một tổ chức hay rộng hơn là trên phạm vi quốc gia - dân tộc. Lễ hội thường diễn ra do các cơ quan chính quyền, đoàn thể tổ chức. Thường gắn với một cơ quan tổ chức đoàn thể vào thời điểm nào đó có ý nghĩa với sự ra đời tồn tại, phát triển của cơ quan, tổ chức đó. Không gian của lễ hội hiện đại thường diễn ra ở các trung tâm đô thị, thủ đô và các thành phố lớn của đất nước [46, tr. 244]. 1.1.4. Khái niệm quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội - Khái niệm về quản lý : Quản lý là sự tác động có tổ chức, có đích hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu dự kiến. - Khái niệm về quản lý nhà nước : Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng là toàn bộ mọi hoạt động của nhà nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước. Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp là hoạt động quản lý do một loại cơ quan đặc biệt thực hiện mà Hiến pháp và pháp luật nước ta gọi là các cơ quan hành chính nhà nước, còn gọi là hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước, hay thường gọi đơn giản hơn là hoạt động chấp hành và điều hành [38, tr. 2]. - Khái niệm quản lý nhà nước về lễ hội: QLNN đối với hoạt động lễ hội được hiểu là quá trình sử dụng các công cụ quản lý: chính sách, pháp luật, các nghị định, chế tài, tổ chức bộ máy vận hành và các nguồn lực để kiểm soát, can thiệp vào các hoạt động của lễ hội bằng các phương thức thực hiện như: thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm duy trì việc 5
- thực hiện hệ thống chính sách, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, chế tài của nhà nước đã ban hành. 1.2. Các loại hình lễ hội theo quy định hiện hành - Lễ hội dân gian là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh người có công với nước với cộng đồng, thờ cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về truyền thống lịch sử , văn hóa, đạo đức xã hội. - Lễ hội lịch sử, cách mạng là lễ hội được tổ chức nhằm tôn vinh những danh nhân, sự kiện lịch sử, cách mạng. - Lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch là lễ hội được tổ chức để quảng bá về thể thao, du lịch bao gồm: festival, liên hoan văn hóa, thể thao, du lịch; tuần văn hóa - du lịch; tháng văn hóa - du lịch; năm văn hóa - du lịch và các lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch khác. - Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài tổ chức tại Việt Nam là lễ hội do tổ chức của Việt Nam hoặc tổ chức nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam tổ chức nhằm giới thiệu giá trị văn hóa tốt đẹp của nước ngoài với công chúng Việt Nam. 1.3. Những vấn đề chung về lễ hội 1.3.1. Một số đặc điểm chung của lễ hội Lễ hội là loại hình văn hóa rất đa dạng, phong phú và đặc sắc. Tại mỗi vùng miền, lễ hội tuy mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng chứa đựng trong nó những đặc điểm chung vốn có của tất cả các lễ hội trên khắp cả nước. Những đặc điểm chung đó là: tính thiêng, tính cộng đồng, tính địa phương, tính cung đình, tính đương đại và tính giáo dục sâu sắc. 1.3.2. Vai trò của lễ hội đối với đời sống xã hội Lễ hội là một trong những hoạt động văn hóa nổi trội trong đời sống con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng hướng tới các mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn ra dưới những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thỏa mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt và lâu dài của mọi tầng lớp người dân, thỏa mãn mọi nhu cầu của các cá nhân và tập thể trong môi trường mà họ sinh sống. Nước ta, đang trên đường tiến vào nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng lễ hội vẫn thu hút và lôi cuốn mọi người dân. Nói cách khác lễ hội vẫn thỏa mãn nhu cầu của con người không chỉ ở xã hội trước mà ngay cả ở xã hội hiện đại hội nhập quốc tế này. Bởi lẽ lễ hội mang trong mình nó vai trò đặc biệt như sau: - Lễ hội có vai trò cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng. - Lễ hội có vai trò hướng người dân nhớ về cội nguồn dân tộc. - Lễ hội có vai trò cân bằng đời sống tâm linh. - Lễ hội có vai trò sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. - Lễ hội có vai trò bảo tồn và trao truyền văn hóa. 1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động lễ hội Lễ hội là một tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, làm giàu và phát huy giá trị nền văn hóa dân tộc. Những năm qua khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đời sống tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, do đó mà nhu cầu tham gia lễ hội đã trở thành một nhu cầu chính đáng có ý nghĩa lớn. Tuy vậy, lễ hội cũng là một hoạt động không nằm ngoài quy luật có những yếu tố tác động làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động lễ hội đó là những yếu tố: yếu tố chính trị, yếu tố pháp lý, yếu tố kinh tế, yếu tố lịch sử và yếu tố con người. 1.4. Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội 1.4.1. Vai trò của quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội 6
- QLNN đóng vai trò định hướng cho sự phát triển của nền văn hóa nói chung và sự duy trì và phát huy các hoạt động lễ hội nói riêng. QLNN đối với hoạt động lễ hội nhằm tạo điều kiện cũng như tạo một môi trường thuận lợi cho các hoạt động lễ hội được diễn ra theo đúng mục đích và đúng bản chất. QLNN về hoạt động lễ hội góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng cao đời sống tinh thần cũng như đời sống vật chất của người dân. QLNN đóng vai trò bảo vệ và chấn chỉnh đối vơi hoạt động lễ hội khi có những sai phạm nảy sinh. Như vậy sự QLNN đối với hoạt động lễ vội vừa có vai trò phát huy, bảo tồn, gìn giữ các tinh hoa văn hóa của lễ hội và vừa có vai trò bảo vệ hoạt động lễ hội, giúp lễ hội được diễn ra đúng với tinh thần vốn có của lễ hội đem đến giá trị tinh thần hết sức to lớn cho quần chúng nhân dân. 1.4.2. Nội dung của quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội Thứ nhất, ban hành hệ thống các quy chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động lễ hội. Luật Di sản Văn hóa được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Ngày 18/6/2009 Quốc hội đã ban hành văn bản Luật số 32/2009/QH12 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10. Ngày 03/9/2013 Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Nghị định số 3202/VBHN–BVHTTDL Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa. Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống thông qua các biện pháp sau đây: - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. - Khuyến khích việc tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống gắn với lễ hội. - Phục dựng có chọn lọc nghi thức lễ hội truyền thống. - Khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài về nguồn gốc, nội dung giá trị truyền thống tiêu biểu, độc đáo của lễ hội. Thứ hai, bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội Căn cứ Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cụ và căn cứ vào Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16/7/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày 22/12/2015 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư số 15/2015/TT- BVHTTDL Quy định về tổ chức lễ hội. Trong đó quy định về trách nhiệm của cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Điều 13), trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Điều 14), trách nhiệm của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Sở Văn hóa và Thể thao) (Điều 15). Về công tác tổ chức vận hành của bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa nói chung và hoạt động lễ hội nói riêng, do lễ hội là lĩnh vực được xem tương đối đặc biệt ở Việt Nam, bởi hoạt động lễ hội luôn gắn với các vấn đề về tư tưởng, tinh thần nên công tác QLNN trong lĩnh vực này cũng đặc biệt hơn ở các lĩnh vực khác. Nhà nước ta đã xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hội đồng Lý luận Văn học Nghệ thuật Trung ương, Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học Nghệ thuật Việt Nam trong công tác chỉ đạo và phối hợp hoạt động thực hiện công tác QLNN về lễ hội trong chiến lược phát triển về văn hóa. 7
- Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức có liên quan đến công tác quản lý nhà nước về lễ hội. Trong công tác QLNN về lễ hội, thì việc xây dựng một nguồn nhân lực hoạt động văn hóa rất là quan trọng, vì họ là người trực tiếp tuyên truyền vận động nhân dân, thực thi các quy định đề ra và đồng thời vừa phải giải quyết những sai phạm, tiêu cực nảy sinh. Nguồn nhân lực QLNN về hoạt động lễ hội thường là cán bộ, công chức thuộc cơ quan chuyên trách của ngành, được phân công trách nhiệm hoặc chuyên viên văn hóa ở cơ sở. Vì vậy, cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều cấp độ khác nhau, có khả năng độc lập về nghiên cứu cũng như chỉ đạo về thực tiễn, biết tham khảo kinh nghiệm quản lý và tổ chức lễ hội ở các địa phương khác, có khả năng tham mưu và xây dựng các văn bản mang tính chất quản lý đặc thù. Do vậy mà trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham gia vào hoạt động quản lý và tổ chức lễ hội phải có nhiệm vụ: - Làm đúng chuyên môn, nhiệm vụ trong công tác quản lý và tổ chức lễ hội đã được phân công và giao phó. - Là cầu nối giữa các ngành, các lĩnh vực liên quan đến công tác quản lý và tổ chức lễ hội trong hoạt động lễ hội. - Tuyên truyền, khuyến khích, khen thưởng những việc làm khả quan đã đạt được cũng như chấn chỉnh, ngăn ngừa những sai phạm nảy sinh trong công tác quản lý và tổ chức lễ hội. - Thực thi tốt chức năng hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra và giám sát khi thực thi công vụ. Đồng thời phối hợp nhịp nhàng với các cơ quan chức năng có liên quan khi xử lý những sai phạm không đáng có xảy ra trên tinh thần phù hợp với chính sách, và đúng với quy định của pháp luật. Thứ tư, phân bổ, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội Hoạt động lễ hội vốn là sinh hoạt văn hóa cộng đồng cho nhân dân, là một hoạt động bao gồm nhiều thành phần tham gia, diễn ra trên quy mô lớn mang tính cộng đồng. Do đó, công tác phân bổ, huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính trong công tác QLNN đối với hoạt động lễ hội tương đối phức tạp, cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, bài bản cũng như phải được tính toán một cách chu toàn hợp lý và phải được tiến hành một cách khoa học. Nhà nước yêu cầu các cơ quan, đơn vị có liên quan đến công tác quản lý và tổ chức lễ hội hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực trong việc tổ chức lễ hội. Nhà nước khuyến khích các cá nhân, tổ chức đóng góp và tài trợ cho việc tổ chức lễ hội. Ðiều này mang lại nhiều lợi ích nhất là huy động được nguồn kinh phí tổ chức lễ hội tiết kiệm cho ngân sách nhà nước. Do vậy mà, việc phân bổ, huy động và sử dụng hiệu quả một cách khoa học, hợp lý sẽ làm cho công tác QLNN về hoạt động lễ hội ngày càng hiệu quả, đảm bảo trật tự, tiết kiệm, phát huy tốt các giá trị văn hóa, góp phần khai thác tiềm năng kinh tế, văn hóa và du lịch, đồng thời khơi dậy những nguồn tiềm năng kinh tế mới, bổ sung vào nguồn lực tài chính của quốc gia. Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với hoạt động của lễ hội. Trách nhiệm của cơ quan, đơn vị thuộc Bộ VHTT&DL; trách nhiệm của UBND và thành phố trực thuộc Trung ương; trách nhiệm của Sở VHTT&DL trong công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát việc quản lý và tổ chức lễ hội được quy định một cách cụ thể, rõ ràng. Công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát việc quản lý và tổ chức lễ hội nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm các quy định của Nhà nước, đồng thời nâng cao ý thức thực hiện nếp sống văn minh trong bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa của hoạt động lễ hội. Các cơ quan đơn vị trực thuộc Bộ 8
- VHTT&DL cũng như thuộc Sở VHTT&DL tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát việc QLNN theo Luật Di sản. Xây dựng kế hoạch, tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong công tác chuẩn bị, quản lý và tổ chức hoạt động lễ hội, bảo vệ di tích trong hoạt động lễ hội đồng thời bố trí cán bộ theo dõi sát các diễn biến trong quá trình diễn ra lễ hội. Chủ động xử lý kịp thời và kiên quyết nhằm khắc phục nhanh và hiệu quả những vấn đề nảy sinh, thường xuyên báo cáo tình hình hoạt động lễ hội về Bộ để tổng hợp và báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định. 1.5. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội ở một số tỉnh, thành phố và những bài học rút ra cho tỉnh Đắk Nông 1.5.1. Kinh nghiệm của tỉnh Đắk Lắk Đắk Lắk nằm ở trung tâm Cao nguyên Nam Trung bộ của nước Việt Nam, là vùng đất nổi tiếng về cà phê, cao su, tiêu…và lễ hội. Đến với Đắk Lắk là đến với núi rừng, sông hồ, những ngọn thác hùng vĩ hòa cùng không gian văn hóa tín ngưỡng Tây Nguyên đặc sắc. Mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tuy có truyền thống và bản sắc độc đáo riêng, nhưng cùng nhau đoàn kết, xây dựng quê hương và hình thành nên một vùng văn hóa phong phú và giàu bản sắc. Bên cạnh nền văn hóa cộng đồng đa dạng ấy, phải nói đến một sinh hoạt văn hóa cộng đồng không thể thiếu đó là hoạt động lễ hội của người dân đang sinh sống trên địa bàn tỉnh. Tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia đối với hoạt động lễ hội của Chính phủ về công tác bảo tồn và giữ gìn các lễ hội, đã góp một phần không nhỏ làm chuyển biến bộ mặt văn hóa lễ hội trên địa bàn tỉnh và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho quần chúng nhân dân. Trong những năm qua công tác QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh đối với các lễ hội truyền thống đã có sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền địa phương và các ngành liên quan nên bảo đảm được các yêu cầu tổ chức và quản lý đặt ra. Đồng thời các lễ hội mới như: lễ hội cà phê, lễ hội voi Buôn Đôn, lễ hội đua thuyền ở Hồ Lắk… được tổ chức trên quy mô cấp tỉnh, khu vực do tỉnh, huyện chủ tŕ đã xây dựng được kế hoạch tổ chức và quản lý một cách khoa học, chặt chẽ, diễn ra tốt đẹp và hiệu quả. Cùng với đó, các cơ quan, đơn vị trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk cùng với các cấp các ngành có liên quan luôn tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát các hoạt động lễ hội. 1.5.2. Kinh nghiệm của thành phố Đà Lạt Thành phố Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm đồng, nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Nơi đây có khí hậu rất mát mẻ, địa thế xinh đẹp, kỳ vỹ cùng nền văn hóa, kiến trúc độc đáo đã giúp cho Đà Lạt trở thành thành phố du lịch nổi tiếng trên khắp cả nước. Các hoạt động lễ hội trên địa bàn thành phố Đà Lạt diễn ra sôi nổi và đa dạng, do vậy mà công tác QLNN về du lịch tại thành phố cũng được tăng cường và hết sức chặt chẽ. Ngày 01/11/2016 UBND tỉnh Lâm Đồng đã ban hành công văn số 6761/UBND-VX2 về tăng cường công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh. Qua thực tiễn về công tác QLNN về hoạt động lễ hội thì các cơ quan, đơn vị chức năng tại thành phố Đà Lạt và tỉnh Lâm Đồng đã đạt được những thành công, hiệu quả nhất định, mặc dù vẫn có những sai sót xảy ra nhưng đã kịp thời khắc phục và sửa chữa, giúp cho các hoạt động lễ hội được diễn ra quy mô và thành công. Cũng thông qua công văn số 6761/UBND-VX2 các sở, ban, ngành của thành phố sẽ căn cứ chức năng, nhiệm vụ tiếp tục quán triệt đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị và người dân trên địa bàn thành phố, đồng thời tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong đó chú trọng xây dựng môi trường văn hóa xã hội thông qua các hoạt động lễ hội. 9
- Thực hiện tốt công tác quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn thành phố; định hướng tuyên truyền về giá trị, ý nghĩa giáo dục của lễ hội; vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội… nhằm đảm bảo hoạt động lễ hội được diễn ra an toàn, hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, vui chơi, giải trí lành mạnh cho nhân dân. Ngoài ra công tác nâng cao nâng lực của đội ngũ nguồn nhân lực để quản lý lễ hội đã và đang được thực hiện. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, kỹ năng làm việc với cộng đồng của đội ngũ này ngày càng vũng mạnh, đảm bảo thực hiện tốt và hiệu quả các nhiệm vụ đề ra Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, trước, trong và sau lễ hội. Kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các vi phạm. Tổ chức tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện tốt các quy định của nhà nước về hoạt động lễ hội trên địa bàn thành phố. 1.5.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho công tác quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông Một là, quán triệt các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động văn hóa trong đó có hoạt động lễ hội . Hai là , tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa. Ba là, thường xuyên tổ chức tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho người dân về ý thức giữ gìn phát huy giá trị tinh hoa của lễ hội, khôi phục các lễ hội văn hóa dân gian của cộng đồng. Bốn là, cần hạn chế sử dụng ngân sách trong công tác tổ chức lễ hội thay vào đó là kêu gọi và huy động nguồn kinh phí từ cộng đồng. Năm là, quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ làm công tác QLNN về hoạt động lễ hội vì đây là lực lượng nòng cốt ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý. Sáu là, tăng cường kiểm tra, thanh tra, đôn đốc, giám sát công tác quản lý và tổ chức lễ hội kể cả trước và sau khi tổ chức. TIỂU KẾT CHƯƠNG I Qua chương I, tác giả luận văn đã nêu lên được cơ sở lý luận chung và cơ bản nhất của công tác QLNN về hoạt động lễ hội. Tác giả đã nêu lên được hệ thống các khái niệm cơ bản về lễ hội cũng như các khái niệm về QLNN về hoạt động lễ hội. Tác giả, đã đi sâu và phân tích kỹ vai trò của công tác QLNN có tầm quan trọng như thế nào cũng như nội dung của công tác QLNN về hoạt động lễ hội hiện nay ra sao. Đã từng bước tạo nền tảng cơ bản cho công cuộc nghiên cứu của tác giả trước tình hình thực tiễn về công tác QLNN đối với hoạt động lễ hội tại địa phương của mình. Cùng với đó là sự học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm QLNN về hoạt động lễ hội ở những thành phố, tỉnh bạn nổi tiếng về du lịch, nổi tiếng có những lễ hội đặc sắc, từ đó mà tác giả đã rút ra bài học kinh nghiệm quý báu để đưa vào luận văn, để luận văn trở thành một nguồn tư liệu hữu ích cho những nhà quản lý, những nhà khoa học đang và muốn quan tâm đến vấn đề lễ hội nói chung và công tác QLNN về lễ hội nói riêng. 10
- Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG 2.1. Khái quát chung về tỉnh Đắk Nông 2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử, văn hóa của tỉnh Đắk Nông - Vị trí địa lý: Đắk Nông là một trong 5 tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, nằm ở phía Tây Nam Trung Bộ, đoạn cuối dãy Trường Sơn.. Phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk; phía Đông giáp tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Lâm Đồng; phía Tây giáp tỉnh Bình Phước và tỉnh Munđunkiri của Vương quốc Camphuchia; phía nam giáp tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Bình Phước. - Điều kiện tự nhiên: Đắk Nông là tỉnh thuộc miền núi, có độ cao trung bình vào khoảng 600 – 700m, có nơi lên đến 1.970m so với mực nước biển. Diện tích tự nhiên 6.516,9 km². Khí hậu Đắk Nông mang tính chất nhiệt đới với hai mùa rõ rệt. - Lịch sử: Sau ngày hai miền thống nhất, tháng 5/1975, tỉnh Quảng Đức được thành lập lại, tháng 11/1975, tỉnh Quảng Đức sát nhập vào tỉnh Đắk Lắk. Từ ngày 01/01/2004, tỉnh Đắk Nông được tái lập theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ban hành ngày 26/11/2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk. -Hành chính: Các đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Nông, từ sau năm 2004, gồm: thị xã Gia Nghĩa và 7 huyện (Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Glong, Đắk R’Lấp, Đắk Song, Krông Nô, Tuy Đức); với 71 xã, phường, thị trấn. - Kinh tế: Tổng thu NSNN trên địa bàn ước thực hiện 9 tháng là 1.044 tỷ đồng, đạt 71% dự toán Trung ương, 65% dự toán địa phương, giảm 6% so với thực hiện cùng kỳ năm trước. Tổng chi NSĐP ước đạt 3.373 tỷ đồng, đạt 71% tự toán, tăng 13 % so với cùng kỳ năm trước. Chi đầu tư phát triển tăng mạnh trong khi chi thường xuyên chỉ tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. - Dân cư: Tính đến năm 2015, dân số toàn tỉnh Đắk Nông đạt khoảng 583.912 người, mật độ dân số đạt 89,70 người/km², toàn tỉnh có 41 dân tộc. Trong đó, đông nhất là dân tộc kinh khoảng 411.018 người. Bên cạnh đó thành phân dân tộc thiểu số tại chổ đã sống trên địa bàn tỉnh từ lâu đời nay gồm 3 dân tộc đó là: M’Nông khoảng 45.973 người, Mạ khoảng 6.636 và người Ê Đê khoảng 6.121 người. Còn lại là các dân tộc anh em từ phía khắp mọi miền đất nước di cư vào đây sinh sống và làm ăn kinh tế . - Văn hóa: Nét đặc sắc của văn hóa tại Đắk Nông có lẽ phần nào hơi thở của văn hóa Đắk Lắk do một thời gian dài tỉnh này là một khu vực thuộc tỉnh Đắk Lắk. Vùng đất này có một nền văn hóa khá đa dạng và phong phú của nhiều dân tộc anh em, nên nó mang nhiều bản sắc riêng đậm nét truyền thống. Đắk Nông hiện có 10 di tích lịch sử, văn hóa, thắng cảnh được xếp hạng, trong đó có 09 di tích cấp quốc gia, 01 di tích cấp tỉnh. Các di tích nổi bật tại Đắk Nông phần lớn là những địa danh gắn với cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như Di tích lịch sử cách mạng Ngục Đắk Mil, căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV, Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M’Nông… 2.1.2. Khái quát về các lễ hội tại tỉnh Đắk Nông - Lễ hội sum họp cộng đồng của người M’Nông và Mạ: Lễ hội sum họp cộng đồng thường được tổ chức khi mùa màng trên nương rẫy đã thu hoạch xong, nếu gia đình nào còn lúa trên nương, rẫy thì không được tham gia, lễ hội thường diễn ra vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 dương lịch, địa điểm tổ chức lễ được già làng lựa chọn đó là nnơi có núi rừng, sông suối linh thiêng hoặc những khu đất rộng. Dân làng tập trung khẩn cầu các thần linh về chứng giám, phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, sung túc, đoàn kết, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. 11
- - Lễ hội ăn trâu mừng được mùa - đón mừng năm mới của người Ê Đê: Khi con chim Krao hót vang núi rừng báo hiệu một mùa rẫy đã được thu hoạch xong thì cũng là lúc các buôn làng Ê Đê tổ chức lễ ăn trâu mừng được mùa - đón năm mới. Lễ mừng được mùa thường tổ chức tại một bãi đất rộng của buôn làng. Lễ vật là một con heo thiến béo tròn và 7 ché rượu lớn. Khi các ché rượu đã được cột, heo đã được nướng chín vàng, già làng hòa tiết heo vào bát rồi tưới vào các ché rượu và khấn thần linh. Sau lời khấn của già làng, dàn chiêng Knah rộn rã, ngân vang khắp núi rừng như mang thông điệp của dân làng đến với Yàng, mời Yàng về vui hội với buôn làng. Già, trẻ, gái, trai quay quần bên ché rượu. Mọi người vừa uống rượu cần vừa ăn thịt heo nướng và trò chuyện vui vẻ bên nhau. Sau lễ cúng mừng được mùa là lễ ăn trâu mừng được mùa. Có thể nói đây là lễ hội lớn nhất trong năm của người Êđê. Không khí chuẩn bị lễ hội của buôn làng thật rộn ràng và náo nhiệt. Đến ngày lễ, già làng sai con cháu dắt con trâu buộc vào gốc cây nêu và cột bảy ché rượu thành một dãy dài trước cây nêu. Sau khi dân làng đã tụ hội đông đủ, mọi thủ tục đã được chuẩn bị xong, các dàn chiêng nổi lên rộn rã báo hiệu lễ ăn trâu bắt đầu. Các cô gái mùa điệu mừng mùa xung quanh cột nêu mừng đón mọi người từ khắp buôn làng xa gần đến vui ngày lễ hội của buôn làng. - Lễ cúng thần rừng (Giang Pri) của người M’Nông và Mạ: Được tổ chức vào tháng 12 hàng năm với mục đích cầu cho mưa thuận, gió hóa, mùa màng bội thu, cầu cho rừng xanh tốt, với ý nghĩa nêu cao truyền thống bảo vệ rừng của đồng bào dân tộc M’Nông. Lễ hội thường được tổ chức ở không gian linh thiêng, gần cánh rừng. Dân trong làng làm lễ dựng cây nêu, buộc trâu từ chiều hôm trước đến sáng hôm, dân làng làm lễ khóc trâu và đến lúc mặt trời lên làm lễ đâm trâu cúng thần rừng. Sau đó cả buôn làng tổ chức hát, múa, chơi các trò chơi dân gian, uống rượu cần và thưởng thức ẩm thực. - Lễ mừng lúa mới (Yu Rhe) của người Mạ: Đây là lễ hội lớn nhất của người Mạ trong mỗi mùa nương rẫy, thường được tổ chức vào tháng giêng, đầu tiết xuân. Thời gian, quy mô và tầm quan trọng của nó tương ứng với tết đầu năm của người Việt. Lễ Rhe được diễn ra vào lúc mọi gia đình đã thu hoạch xong mùa lúa rẫy và đã đổ thóc vào kho. Thời gian lễ hội kéo dài bảy ngày. Trước khi bước vào lễ hội, mỗi nhà đều đã trang trí và dựng một cây nêu. Ông Chủ rừng dẫn đầu đoàn người đi cúng tại các kho lúa trong làng. Sau lễ Rhe là bảy ngày kiêng cử, không ai đi rừng, lên rẫy, không ai rời khỏi làng. - Lễ cúng bến nước (Ngă yang kpin êa) của người Ê Đê: Hằng năm sau khi kết thúc một mùa rẫy, chủ bến nước (Pô pin ea) chuẩn bị rượu, heo, gạo nếp cho lễ cúng bến nước của buôn làng. Những người dân trong buôn làng cũng tự nguyện mang gạo, gà, heo, bầu, bí … đóng góp cho chủ bến nước để tổ chức lễ cúng bến nước. Ngày làm lễ cúng bến nước, dân làng tập trung đông đủ tại nhà chủ bến nước. Khi mọi việc đã chuẩn bị xong, dàn chiêng Knah đánh lên một hồi chiêng dài báo hiệu với thần linh Lễ cúng bến nước bắt đầu. Tiếp sau đó là các lễ như: Lễ cúng Thần Nước, Thần Đất, Thần Lúa và cúng linh hồn tổ tiên ông bà và Lễ cúng sức khỏe cho chủ bến nước và các thành viên trong gia đình của chủ bến nước, cầu cho mọi người sức khỏe. Sau các lễ cúng, mọi người cùng nhau ăn uống, vui chơi cho tới tận khuya. Sáng hôm sau, mọi người trong buôn làng lại tụ tập đông đủ trước cổng buôn làng để cúng Thần cổng làng nhằm xin các Yàng phù hộ cho dân làng no ấm, bình yên. Bên cạnh những lễ hội truyền thống hết sức độc đáo, đặc sắc và đậm đà bản sắc dân tộc của người M’Nông, Ê Đê và Mạ là những lễ hội truyền thống của đồng bào các anh em dân tộc thiểu số từ khắp mọi miền đất nước cùng di cư về nơi đây sinh sống đó là những lễ hội cổ truyền của người Việt và lễ hội cổ truyền của các dân tộc dân tộc thiểu số ở phía Bắc di cư vào đây lập nghiệp. Tuy định cư ở Đắk Nông chưa lâu, song người Kinh ở Đắk Nông đều tổ chức những ngày lễ tết cổ truyền của dân tộc Việt, tiêu biểu như Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Thu… Đối với các anh em dân tộc thiểu số từ khắp mọi miền đất 12
- nước (đa phần ở phía Bắc Việt Nam) về đây sinh sống và lập nghiệp thì có những lễ hội đặc trưng như: Lễ hội Lồng Tồng của người Tày tại huyện Krông Nô, Lễ cúng thần sấm sét xua đuổi tai ương, điều xấu của người Mông tại xã Đắk Nia - Thị xã Gia Nghĩa, Lễ mừng thọ của người Thái ở huyện Krông Nô, hay Lễ cấp sắc của người Dao tại huyện Đắk Mil. Tuy nhiên, do các anh em dân tộc từ khắp mọi miền đất nước về đây an cư lập nghiệp nên số lượng không nhiều và sống rãi rác khắp trên địa bàn tỉnh nên về tính chất và quy mô của lễ hội diễn ra không lớn. Không chỉ kể đến các lễ hội truyền thống hết sức đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và đồng bào các dân tộc anh em di cư vào đây sinh sống thì còn phải kể đến những lễ hội hiện đại, những lễ hội cách mạng trên địa bàn tỉnh như: Lễ kỷ niệm ngày giải phóng Gia Nghĩa 23/3, Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh Đắk Nông… 2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông 2.2.1. Thực trạng về thể chế, chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội Sau hơn 10 năm thành lập tỉnh (2004 - 2017), với sự quan tâm và giúp đỡ của Trung ương, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Nông thì lĩnh vực văn hóa nói chung đã có những bước phát triển đáng kể, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh được quan tâm, tiến hành điều tra, sưu tầm, lưu giữ. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được khôi phục, phát huy. Thông qua các văn bản chỉ đạo của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương thì Đảng bộ và chính quyền các cấp, các ngành tỉnh Đắk Nông đã triệt để tiếp thu và triển khai trên diện rộng cả về quy mô cũng như chất lượng công tác quản lý đối với các hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh cụ thể đó là: Tỉnh ủy, HĐND tỉnh; hoàn thiện các quy chế hoạt động đề ra các giải pháp, nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 đã đề ra. UBND tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết định số 05/2015/QĐ-UBND, ngày 29/01/2015, Ban hành Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Quy định có nêu rõ lễ hội phải được tổ chức an toàn, tiết kiệm, không phô trương hình thức. Nội dung lễ hội được chia làm hai phần: Phần lễ được tổ chức trang nghiêm, ngắn gọn, đảm bảo tính giáo dục truyền thống; phần hội tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, các trò chơi dân gian tạo không khí vui tươi, lành mạnh. Đối với các lễ hội truyền thống hết sức đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh là những lễ hội thu hút nhiều người dân trong và ngoài địa bàn tỉnh tham gia, có lễ hội thời gian kéo dài 3 - 7 ngày, vì vậy mà Sở VHTT&DL tỉnh Đắk Nông đã chủ động phối hợp với UBND huyện, UBND xã và Ban tổ chức lễ hội trong công tác quản lý và tổ chức lễ hội đúng với quy chế mà nhà nước ban hành. Đối với lễ hội lớn của dân tộc như lễ hội mừng xuân mới diễn ra trên địa bàn tỉnh hằng năm thì công tác QLNN đối với hoạt động lễ hội này được tiến hành hợp lý, khoa học và bài bản. Thực hiện theo sự chỉ ðạo của UBND tỉnh, Sở VHTT&DL tỉnh ðã xây dựng kế hoạch triển khai tổ chức lễ hội mừng xuân mới được diễn ra một cách hiệu quả, tiết kiệm đúng theo quy chế. Bên cạnh đó các lễ hội mừng xuân mới của đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ cũng như đồng bào dân tộc thiểu số khắp mọi miền đất nước di cư về đây sinh sống cũng được sự quan tâm, chỉ đạo của UBND tỉnh. Các cấp các ngành ở huyện, xã luôn kịp thời báo cáo tình hình lên cơ quan cấp trên là tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở VHTT&DL để nhận văn bản hướng dẫn, giúp công tác quản lý và tổ chức lễ hội ở cơ sở được diễn ra lành mạnh, vui tươi và tốt đẹp. Song song với đó là các lễ hội cách mạng được diễn ra trên quy mô lớn trên địa bàn tỉnh như: Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh, Lễ kỷ niệm giải phóng Gia Nghĩa 23/3… cũng được UBND tỉnh chỉ đạo thông qua quyết định số 110/QĐ - UBND về việc Ban hành Chương trình công tác trọng tâm năm 2016 của 13
- Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. Các lễ hội cách mạng đã diễn ra thành công, hiệu quả, mang đầy tính nghiêm trang của niềm tự hào dân tộc. Các chương trình nghệ thuật, thể thao được diễn ra hài hòa, chất lượng cả về nội dung và hình thức. Công tác bảo vệ trước, trong và sau khi các lễ hội cách mạng diễn ra được triển khai cẩn trọng, chu đáo, an toàn, tốt đẹp. Các lễ hội có nguồn gốc nước ngoài thì công tác QLNN về hoạt động của những lễ hội này càng phải được sự quan tâm chặt chẽ từ phía cơ quan chủ trì tổ chức lễ hội. Tránh được tình trạng lộn xộn, gây mất an ninh trật tự, đảm bảo cho người dân được thụ hưởng văn hóa tinh thần mới mẻ và tốt đẹp. 2.2.2. Thực trạng về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội Hiện tại, QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thuộc phòng Nghiệp vụ quản lý văn hóa - sở VHTT&DL tỉnh, quản lý nhà nước về lễ hội ở thị xã Gia Nghĩa có phòng Văn hóa Thông tin thị xã Gia Nghĩa, cấp huyện có phòng VHTT huyện, ở xã có ban VHTT xã. Khi có hoạt động lễ hội diễn ra phòng Nghiệp vụ quản lý văn hóa của Sở phối hợp với các phòng ban có liên quan trong Sở cùng thực hiện công tác QLNN về hoạt động lễ hội. Đối với những lễ hội có quy mô cấp tỉnh thì đơn vị quản lý, tổ chức lễ hội thực hiện các công việc như: thành lập ra ban tổ chức, xây dựng kế hoạch tổ chức, phân công các tiểu ban về nội dung, tuyên truyền, tài chính, an ninh, hậu cần… trước khi lễ hội diễn ra. Thời gian tổ chức, chuẩn bị cho từng lễ hội cũng phụ thuộc vào quy mô của lễ hội. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông ban hành Kế hoạch số 12/KH-UBND về việc Tổ chức Lễ hội mừng xuân Bính Thân năm 2016. Sở VHTT&DL là đơn vị chủ trị, phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức lễ hội mừng xuân Bính Thân năm 2016; Tham mưu UBND tỉnh thành lập Ban tổ chức, các tiểu ban và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên tham gia; Xây dựng kế hoạch, kịch bản chung của chương trình;. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan trong công tác tổ chức các hoạt động cụ thể. Đối với các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số, do thường được diễn ra vào mùa xuân, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham dự và trở thành nét đẹp văn hóa trên địa bàn tỉnh. Những năm gần đây, việc tổ chức lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh đã được chính quyền các cấp quan tâm, tạo điều kiện về công tác tổ chức cũng như kiện toàn ban tổ chức lễ hội. Theo đó, Các hoạt động của lễ hội phải được sự cho phép bằng văn bản của UBND huyện, thị xã trước khi tiến hành tổ chức. Ban tổ chức lễ hội tổ chức họp để thống nhất nội dung, chương trình. Phân công phối hợp với các đơn vị liên quan để đảm bảo an ninh, trật tự khi diễn ra lễ hội. Riêng Mặt trận và các tổ chức Đoàn thể phối hợp tuyên truyền vận động người dân cùng chấp hành các quy định trong lễ hội. Đảm bảo lễ hội được diễn ra tốt đẹp và thành công. 2.2.3. Thực trạng về nguồn lực cán bộ, công chức, viên chức quản lý nhà nước về lễ hội Hiện nay cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội cấp tỉnh là Sở VHTT&DL tỉnh Đắk Nông, các lễ hội cấp huyện có phòng VHTT huyện, thị xã. Bộ phận QLNN về hoạt động lễ hội tại Sở là phòng Nghiệp vụ quản lý văn hóa. Tại các phòng VHTT huyện và thị xã thì phân công cán bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý văn hóa trong đó có lễ hội. Hiện nay, tại các phòng VHTT huyện, thị xã hay ban Văn hóa Thông tin xã thì chỉ có 01 công chức đảm nhiệm vai trò này. Do Đắk Nông là tỉnh mới thành lập, tuổi đời còn non trẻ, nên hệ thống các hoạt động lễ hội diễn ra trên địa bàn tỉnh còn chưa sâu rộng, chỉ một số ít lễ hội lớn cấp tỉnh được tổ chức như: Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh Đắk Nông (01/01/2004 - 01/01/2014) và đón nhận Huân chương Độc lập hạng II; Lễ kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Gia Nghĩa - Đắk Nông (23/3/1975 - 23/3/2015), 10 năm thành lập thị xã Gia Nghĩa (27/6/2005 - 27/6/2015) và công bố quyết định công nhận thị xã Gia Nghĩa là đô thị loại III… Đó là những lễ 14
- hội lớn của tỉnh có nhiều đơn vị cùng tham gia trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của lễ hội này. UBND tỉnh, Sở VHTT&DL, Công an tỉnh, Sở Y tế… Các cơ quan, đơn vị này trực tiếp phân công cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ của mình khi lễ hội diễn ra, thường xuyên báo cáo tình hình diễn biến lễ hội. Trong những năm vừa qua, UBND tỉnh Đắk Nông đã ban hành nhiều kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Đương cử như quyết định của UBND tỉnh Đắk Nông được ban hành năm 2016 là Quyết định số 58a/QĐ-UBND Về Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Đắk Nông năm 2016. Trong đó có cán bộ, công chức, viên chức Sở VHTT&DL tỉnh. Hằng năm, Sở VHTT&DL tỉnh Đắk Nông đều tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lức quản lý văn hóa, lễ hội cho đội ngũ cán bộ văn hóa, đặc biệt là cán bộ văn hóa cơ sở. 2.3.4. Thực trạng về kinh phí tổ chức, quản lý lễ hội Trong những năm vừa qua việc tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh đa phần được lấy từ nguồn ngân sách địa phương do UBND tỉnh bố trí và có sự đóng góp và hổ trợ từ phía các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh. Các doanh nghiệp này đã đóng góp một phần không nhỏ nguồn kinh phí cho việc hỗ trợ tổ chức các ngày lễ trọng đại này, giúp cho các lễ hội cách mạng tại tỉnh được diễn ra tốt đẹp và thành công. Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác quản lý và tổ chức lễ hội, UBND tỉnh đã chỉ đạo gắt gao, hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách nhà nước để tổ chức lễ hội, thay vào đó là đẩy mạnh triển khai thực hiện việc xã hội hóa khi tổ chức các lễ hội. Các cấp chính quyền, đơn vị QLNN về hoạt động lễ hội đã nhận thức đúng chủ trương của Nhà nước, đánh giá được vai trò to lớn của nguồn lực xã hội. công cuộc này bước đầu đã đem lại kết quả hết sức khả quan, tạo nên hiệu quả vượt mong đợi. Đẩy mạnh xã hội hóa nguồn kinh phí tổ chức lễ hội từ quần chúng nhân dân, giảm tải gánh nặng cho ngân sách Trung ương và địa phương đang là hướng đi chung của tất cả các địa phương trên cả nước. Song hành cùng xu hướng đó, UBND tỉnh Đắk Nông đã chỉ đạo Sở VHTT&DL tỉnh Đắk Nông phải làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền những giá trị cao đẹp cũng như ý nghĩa thiêng liêng dân tộc của hoạt động lễ hội, đồng thời phải phổ biến những quy định của pháp luật hiện hành trong công tác tổ chức và tham gia lễ hội để người dân nắm, người dân hiểu và người dân chấp hành. Việc xã hội hóa nguồn kinh phí tổ chức lễ hội từ quần chúng nhân dân đã góp phần đáng kể cho việc tổ chức các hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua. 2.2.5. Thực trạng về công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội Luôn đề cao và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát được xem là một nội dung quan trọng của công tác QLNN đối với hoạt động lễ hội. Đây là biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế các vấn đề tiêu cực nảy sinh trước, trong và sau khi hoạt động lễ hội diễn ra. Từ công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát thường xuyên đối với hoạt động lễ hội mà UBND tỉnh, Sở VHTT&DL cùng các đơn vị có liên quan trong công tác QLNN về lễ hội nắm bắt và xử lý nhanh, kịp thời những vi phạm quy định về pháp luật cũng như những vấn đề không mong muốn bất ngờ diễn ra. Nhờ vậy mà nhanh chóng sửa chữa cũng như chấn chỉnh kịp thời những diễn biến xấu, giúp ngăn chặn những hậu quả nghiêm trọng, làm cho hoạt động lễ hội diễn ra một cách tốt đẹp nhất, đáp ứng nhu cầu tinh thần cũng như vui chơi giải trí của người dân. Công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát các hoạt động liên quan khi lễ hội diễn ra được tiến hành đồng bộ và thường xuyên. Công tác này nhằm đảm bảo cho nội dung lễ hội được diễn ra đúng với kế hoạch, chương trình, đảm bảo cho các hoạt động lễ hội diễn ra theo đúng với quy chế, quy định của nhà nước. 15
- Đối với những lễ hội tín ngưỡng lớn của dân tộc như: Lễ hội mừng xuân, Lễ Phật đản, Lễ vu lan…thì công tác thanh, kiểm tra, giám sát chú trọng vào các hiện tượng mê tín dị đoan, cờ bạc, mua bán và xử dụng pháo, vệ sinh an toàn thực phẩm trong dịch vụ ăn uống, an ninh trật tự, vệ sinh môi trường... Đối với những lễ hội cách mạng lớn của tỉnh thì công tác kiểm tra. Thanh tra và giám sát phải có sự phối hợp chặt chẽ của những đơn vị chức năng có liên quan theo quy định, đó là các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ VHTT&DL, UBND tỉnh, Sở VHTT&DL tỉnh. Vì đây là những lễ hội mang tính cách mạng cần phải được diễn ra hết sức trang nghiêm và chuẫn mực nên công tác thanh, kiểm tra càng phải được tiến hành thường xuyên và chặt chẽ. Còn đối với những lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ thì công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát của Sở VHTT&DL tỉnh Đắk Nông được tiến hành đồng bộ, tập trung vào khía cạnh an ninh trật tự, tránh tình trạng lộn xộn, gây mất an ninh trật tự có thể xảy ra trong quá trình diễn ra lễ hội. 2.3. Đánh giá chung 2.3.1. Kết quả đã đạt được của công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian qua Thứ nhất, công tác tổ chức và quản lý của quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội diễn ra trên địa bàn tỉnh thực hiện đúng với quy định, pháp luật của nhà nước. Thứ hai, các hoạt động lễ hội được diễn ra thành công do công tác chỉ đạo, phân công nhiệm vụ và phối hợp thực hiện của các cơ quan đơn vị có liên quan về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh được quy định chặt chẽ, xuyên suốt, thống nhất và đồng bộ từ trên xuống. Thứ ba, xây dựng và tổ chức thực hiện thành công các đề án nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Thứ tư, tổ chức thành công các lễ hội đã góp phần kích thích phát triển nền kinh tế - xã hội của tỉnh. Thứ năm, công tác quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn tỉnh đạt được hiệu quả, góp phần làm nâng cao ý thức của người dân về truyền thống quý báu của dân tộc, biết quý trọng những gì thiêng liêng mà cha ông để lại, biết gắn kết, tương trợ lẫn nhau và biết giữ gìn di sản văn hóa. 2.3.2. Những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông Thứ nhất, tại một số địa phương trong tỉnh vẫn chưa thực hiện phổ biến, quán triệt sâu rộng, nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác tổ chức và quản lý các hoạt động lễ hội. Sự phối hợp giữa các đơn vị liên quan trong tổ chức và quản lý lễ hội chưa thực sự nhịp nhành và còn nhiều bất cập. Thứ hai, mặc dù Sở VHTT&DL đã xây dựng và triển khai thực hiện được nhiều đề án để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong đó có hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên các đề án này khi được tiến hành triển khai thực hiện chỉ mới dừng lại ở góc độ bảo tồn chứ chưa thực sự phát huy liên tục và lâu dài những lễ hội cổ truyền này. Thứ ba, đội ngũ cán bộ trong ngành văn hóa từ Sở cho đến phòng, ban ít và thiếu kinh nghiệm, kiến thức về công tác quản lý nhà nước đối với lễ hội. Đội ngũ nhân lực QLNN về hoạt động lễ hội ở các địa phương rất mỏng, thiếu kiến thức và kỹ năng tác nghiệp. Thứ tư, việc lồng ghép các hoạt động lễ hội vào công tác quảng bá du lịch chưa thực sự hiệu quả, các hoạt động du lịch khi được lồng ghép với các lễ hội đặc sắc của đồng bào dân tộc thiếu số sống lâu đời trên vùng đất này vẫn còn thiếu tính quy mô. 16
- Thứ năm, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân tham gia vào các lễ hội vẫn chưa thực sự hiệu quả, chưa nâng cao được ý thức của người dân trong việc giữ gìn an ninh trật tự. Thứ sáu, các hoạt động lễ hội diễn ra còn thiếu tính quy mô do kinh phí để tổ chức thực hiện còn ít, và việc xã hội hóa nguồn kinh phí vẫn chưa được thực hiện hiệu quả. Thứ bảy, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế Một là, do đa phần các đơn vị phối hợp thực hiện không phải là đơn vị chính chủ trì, mà chỉ đảm nhận một phần nhỏ chuyên môn nghiệp vụ thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình nên các cơ quan, đơn vị này thường lơ là công tác phối hợp. Thường thực hiện theo chỉ đạo một cách hình thức, cắt cử cán bộ tham gia công tác phối hợp ít, không đủ lực lượng để bao quát hết tất cả tình hình, dẫn đến tình trạng vẫn chưa thực hiện tốt được công việc được giao. Hai là, nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế việc thực hiện các đề án của Sở VHTT&DL về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong đó có hoạt động lễ hội một mặt xuất phát do những tác động mạnh mẽ các dòng văn hóa tín ngưỡng, sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện đại đã làm thay đổi môi trường của văn hóa truyền thống, một bộ phận người dân thờ ơ hoặc quay lưng với văn hóa truyền thống... Mặt khác xuất phát từ chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội như: sự phối hợp chưa nhịp nhàng của các cơ quan hữu quan, sự thiếu kinh nghiệm, chuyên môn sâu rộng của cán bộ được phân công thực hiện nhiệm vụ... Ba là, với đặc thù là tỉnh mới thành lập nên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành văn hóa phần lớn được luân chuyển công tác từ tỉnh Đắk Lắk. Nếu xét về trình độ học vấn thì đều là thạc sĩ về văn hóa, cử nhân Đại học, cao đẳng nhưng xét về khả năng hiểu biết sâu rộng về nền văn hóa đặc biệt là văn hóa lễ hội đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ cũng như hiểu biết về tất cả các bản sắc văn hóa lễ hội của tất cả đồng bào dân tộc di cư vào đây sinh sống thì lại hạn chế. Bên cạnh đó là sự thiếu hụt cán bộ làm công tác văn hóa là người các dân tộc thiểu số ở địa phương cũng như chưa thực sự chú trọng đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ văn hóa là người đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Bốn là, việc quảng bá du lịch thông qua các lễ hội truyền thống vẫn còn gặp nhiều khó khăn và bất cập và nguyên nhân dẫn đến việc xúc tiến quảng bá du lịch thông qua các hoạt động lễ hội chưa đạt được hiệu quả như mong đợi được xuất phát từ những yếu tố sau: thứ nhất là kinh phí cho hoạt động quảng bá còn ít nên hiệu quả không cao; thứ hai là hình thức quảng bá còn hạn hẹp, thứ ba nữa là sự phối hợp giữa các ngành, địa phương và giữa các doanh nghiệp hoạt động du lịch với nhau chưa được gắn kết chặt chẽ. Năm là, việc tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân khi tham gia vào các hoạt động lễ hội vẫn chưa thực sự hiệu quả. Điều này xuất phát từ nguyên nhân buông lỏng quản lý, không hướng dẫn kịp thời của tập thể các cán bộ làm công tác tổ chức và quản lý lễ hội. Sáu là, công tác vận động, kêu gọi, phổ biến về giá trị lễ hội có tốt thì việc xã hội hóa mới đạt hiệu quả, vấn đề nằm ở chỗ, các tổ chức hay cá nhân nếu không hiểu về các giá trị tinh thần vô giá của lễ hội sẽ không tự nguyện tham gia vào quyên góp hỗ trợ tổ chức, bảo tồn hay phục dựng những lễ hội diễn ra trên địa bàn tỉnh. Bảy là, nguyên nhân dẫn đến công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội do lực lượng ít và mỏng, trình độ chuyên môn của cán bộ thanh tra, phương tiện thực hiện công việc chưa đáp ứng được yêu cầu, sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị hữu quan cũng như giữa các tiểu ban chưa đồng bộ. 17
- TIỂU KẾT CHƯƠNG II Trong chương II tác giả đã nêu lên được thực trạng công tác QLNN về hoạt động lễ hội tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian vừa qua. Qua đó cho chúng ta thấy Sở VHTT&DL tỉnh đã và chưa làm được những gì, còn gặp phải những thiếu sót và yếu kém gì trong công tác QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh. Từ đó tác giả rút ra được những điểm cốt lõi nhất về tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành văn hóa trong công tác QLNN về hoạt động lễ hội. Đó là, trong những năm qua Sở VHTT&DL tỉnh nhà đã đạt được nhiều khởi sắc trong công tác QLNN đối với lĩnh vực văn hóa nói chung và đối với lĩnh vực hoạt động lễ hội nói riêng. Đã đạt được những kết quả khả quan đáng khích lệ góp phần xây dựng được đời sống tinh thần vừa truyền thống vừa phong phú và vừa hướng tới những giá trị tốt đẹp của tương lai, đem lại cuộc sống ổn định và vững bền cho xã hội. Bên cạnh những kết quả khả quan đáng trân trọng và khích lệ ấy, thì công tác QLNN về hoạt động lễ hội cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn đáng lưu tâm. Những tồn đọng, hạn chế, khó khăn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, và được phân ra làm ba nhóm nguyên nhân chính sau: (1) Nguyên nhân xuất phát từ việc thiếu đồng bộ, nhịp nhàng của các cơ quan, đơn vị liên quan trong QLNN về lễ hội; (2) Nguyên nhân xuất phát từ sự thiếu chuyên môn và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đảm nhiệm vai trò QLNN về hoạt động lễ hội và (3) Nguyên nhân xuất phát từ sự thiếu ý thức của người dân khi tham gia vào các hoạt động lễ hội. Từ sự đúc kết những yếu kém không đáng có đó, Sở VHTT&DL tỉnh nhà cần tập trung hơn nữa, nổ lực hơn nữa để hạn chế những tồn tại hạn chế không đáng có, giúp cho công tác QLNN về hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh ngày càng phát huy, ngày càng chất lượng, góp phần xây dựng văn hóa về lễ hội nói riêng và xây dựng nền văn hóa tỉnh nhà nói chung trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh nhà, hòa nhập với xu thế phát triển chung của cả nước. Chương 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG 3.1. Quan điểm của Đảng đối với hoạt động lễ hội Vấn đề văn hóa và con người luôn là vấn đề trọng tâm phản ánh sự phát triển của xã hội cũng như sự vững mạnh của quốc gia. Mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta hiện nay là vì sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đó là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng thời là một quá trình cải biến xã hội sâu sắc, đòi hỏi phát huy khả năng trí tuệ ở mỗi con người Việt Nam. Những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để chúng ta tiếp thu những tinh hoa văn hóa cũng như thành quả trí tuệ của các quốc gia khác trên thế giới, đồng thời lại đặt ra những thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Lễ hội được xem như là một phần biểu tượng văn hóa của quốc gia, là một loại hình đặc biệt của di sản văn hóa phi vật thể đã ðýợc Ðảng và Nhà nýớc ta quan tâm, ðịnh hýớng, chỉ ðạo trên các phýõng diện nhý: nghiên cứu, bảo tồn, tôn tạo, phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực tế những năm gần đây, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, chúng ta đã có phần buông lỏng chỉ đạo, quản lý trên một số lĩnh vực văn hóa - xã hội, xem nhẹ việc giáo dục nếp sống và lối sống, thiếu sự hướng dẫn, thiếu những quy định cụ thể của Nhà nước đối với việc cưới, việc tang, lễ hội nên đã để phát sinh nhiều hiện tượng không lành mạnh trong xã hội. Những hiện tượng trên trở thành những vấn đề xã hội nhức nhối, làm xói mòn các giá trị đạo đức truyền thống, lối sống cần kiệm, giản dị của dân tộc, 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 791 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 509 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 461 | 66
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 546 | 61
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 345 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 533 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 346 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 309 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 333 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 352 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 250 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 290 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 233 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 222 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 269 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 236 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 203 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn