intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Trách nhiệm hình sự của đồng phạm trong các trường hợp phạm tội chưa đạt và vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm

Chia sẻ: Phithanh Chung | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:13

121
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt, có nhiều người cùng tham gia vào quá trình thực hiện tội phạm, do đó việc xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm và vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có nhiều điểm khác biệt so với trường hợp phạm tội riêng lẻ. Làm rõ những vấn đề này là căn cứ để phân hóa trách nhiệm hình sự đúng đắn, giải quyết trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm một cách công bằng, bình đẳng, đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự... Mời các bạn cùng tham khảo bài viết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Trách nhiệm hình sự của đồng phạm trong các trường hợp phạm tội chưa đạt và vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm

  1. Trách nhiệm hình sự của đồng phạm trong các trường hợp phạm tội chưa đạt và  vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm Phí Thành Chung Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội Tóm tắt: Đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt, có nhiều người cùng tham   gia vào quá trình thực hiện tội phạm, do đó việc xác định các giai đoạn thực hiện tội   phạm và vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có nhiều điểm khác biệt so với   trường hợp phạm tội riêng lẻ. Làm rõ những vấn đề  này là căn cứ  để  phân hóa trách   nhiệm hình sự  đúng đắn, giải quyết trách nhiệm hình sự  của những người đồng phạm   một cách công bằng, bình đẳng, đảm bảo nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự… Giống như  hành vi của con người, hành vi phạm tội phát triển từ  ý định,  mong muốn phạm tội, sang thực hiện hành vi chuẩn bị và thực hiện tội phạm cho   đến khi hoàn thành, kết thúc việc phạm tội. Trong các vụ án phạm tội riêng lẻ, thì  mức độ  thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm   (CTTP) và mức độ  thực hiện sự  cố  ý phạm tội của người phạm tội sẽ  xác định  các giai đoạn phạm tội tương ứng. Tuy nhiên, với trường hợp đồng phạm, hành vi  phạm tội là hành vi liên hiệp, mỗi người đồng phạm thực hiện một hoặc một vài  khâu khác nhau của quá trình phạm tội, hành vi của họ  có thể  chỉ  thỏa mãn một  phần của cấu thành tội phạm, do đó, việc xác định các giai đoạn phạm tội của   người đồng phạm có nhiều điểm khác biệt so với trường hợp phạm tội riêng lẻ.  Xác định đúng các giai đoạn phạm tội của người đồng phạm là căn cứ đầu tiên để  xem xét miễn trách nhiệm hình sự  (TNHS) trong trường hợp người đồng phạm   thỏa mãn các điều kiện khác của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. 1. Trách nhiệm hình sự trong các trường hợp phạm tội chưa đạt Về  mặt ý chí, người đồng phạm cũng luôn mong muốn thực hiện trọn vẹn  quá trình phạm tội để đạt mục đích của mình nhưng có thể  vì nguyên nhân mang   1
  2. tính khách quan, người đồng phạm đã không thực hiện được toàn bộ  quá trình đó   mà phải dừng lại  ở những thời điểm khác nhau. Căn cứ  vào thời điểm chấm dứt   các hành vi phạm tội (khách quan), mức độ thực hiện ý định phạm tội (chủ quan),  luật hình sự  phân chia quá trình thực hiện tội phạm cố  ý có đồng phạm thành ba  mức độ thực hiện khác nhau hoặc ba giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giai   đoạn phạm tội chưa đạt và giai đoạn tội phạm hoàn thành1. Trong một vụ  đồng  phạm, có thể có một hoặc nhiều loại hành vi tham gia, ngoài người thực hành, có   thể có người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức. Xác định các giai đoạn thực  hiện tội phạm trong đồng phạm đối với người tổ  chức, người xúi giục, người  giúp sức hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau: a) Xuất phát từ  luận điểm hành vi của mỗi người đồng phạm tuy có mối  quan hệ  hữu cơ, gắn bó chặt chẽ  với nhau nhưng vẫn có tính độc lập tương đối,  phản ánh vai trò nhất định đối với quá trình thực hiện tội phạm, cho rằng, có các   giai đoạn thực hiện tội phạm cố ý nói chung thì cũng có thể có các giai đoạn thực  hiện tội phạm của người thực hành, người tổ  chức, người xúi giục, người giúp  sức nói riêng. Để xác định trách nhiệm hình sự đối với xúi giục chưa đạt, giúp sức  chưa đạt hay tổ  chức chưa đạt, cũng như  các giai đoạn thực hiện tội phạm khác  của từng người đồng phạm, cần phải nghiên cứu toàn bộ các giai đoạn thực hiện   tội phạm của người thực hành, người tổ  chức, người xúi giục, người giúp sức  một cách độc lập tương đối.2 Xúi giục,  giúp sức, tổ chức chưa đạt là trường hợp   người xúi giục, người giúp sức, người tổ chức bắt đầu thực hiện hành vi xúi giục   (kích động, thúc đẩy), giúp sức, tổ  chức (thành lập nhóm tội phạm hoặc  điều  khiển hoạt động của nhóm tội phạm) nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn của   người xúi giục, giúp sức, tổ  chức, chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm của   người bị xúi giục, người được giúp sức không sử dụng sự giúp sức vào việc thực   hiện tội phạm hay chưa đạt đến kết quả  như  cấu thành tội phạm của hành vi tổ  chức thực hiện tội phạm đòi hỏi.  Như vậy, việc xác định giai đoạn phạm tội của   người xúi giục, giúp sức, tổ  chức mang tính độc lập tương đối so với việc xác  2
  3. định giai đoạn thực hiện tội phạm của tội phạm chung. Do đó, có thể  xảy ra các  trường hợp  như sau: i) Hành vi xúi giục, giúp sức, tổ  chức hoàn thành nhưng tội   phạm chung chưa hoàn thành; ii) Hành vi xúi giục, giúp sức, tổ  chức chưa hoàn  thành và tội phạm chung chưa hoàn thành; iii) Hành vi xúi giục, giúp sức, tổ chức   chưa hoàn thành và tội phạm chung hoàn thành. Đây là quan điểm không phổ biến và chưa được thực tiễn chấp nhận. Chúng  tôi không đồng tình với quan điểm này bởi lẽ: Thứ  nhất, tội phạm được thực hiện bởi đồng phạm là kết quả  hành động   của tất cả những người đồng phạm, hành vi của mỗi người đồng phạm là một bộ  phận của hoạt động chung, hành vi của mỗi người có sự liên hệ, tác động và ảnh  hưởng lẫn nhau và đều nhằm đạt kết quả phạm tội chung, vì vậy không thể phân  chia tội phạm đã thực hiện ra những phần riêng, theo hành vi của từng người đồng   phạm để  xem xét giai đoạn thực hiện tội phạm của từng người đồng phạm một   cách độc lập tương đối. Thứ  hai,  CTTP của hành vi đồng phạm được hình thành bởi tổng hợp các  dấu hiệu được quy định tại điều luật phần chung quy định về đồng phạm và điều  luật phần quy định các tội phạm của BLHS. “Sự  tổng hợp những dấu hiệu của   một cấu thành tội phạm cơ  bản với những dấu hiệu của chế  định đồng phạm...   chính là những cấu thành tội phạm bổ sung cho cấu thành tội phạm cơ bản ­ cấu   thành tội phạm của hành vi đồng phạm...3” Vì vậy, không thể có trường hợp, hành  vi tổ  chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức đã hoàn thành trong khi người thực  hành vẫn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Thứ  ba,  trong trường hợp hành vi xúi giục, giúp sức, tổ  chức chưa hoàn  thành, tội phạm chung chưa hoàn thành thì khi giải quyết vấn đề  TNHS phải xác   định thông qua hai lần chưa hoàn thành (chưa hoàn thành của chưa hoàn thành), làm  cho việc quyết định hình phạt trong thực tiễn rất khó thực hiện, không khả  thi và  có phần mang tính lý thuyết thuần túy. 3
  4. b) Quan điểm phổ  biển hiện nay cho rằng: “Nếu những người đồng phạm   không thực hiện tội phạm được đến cùng do nguyên nhân khách quan, thì người   thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào, họ  phải chịu trách nhiệm hình   sự đến đó. 4” Chúng tôi đồng tình với quan điểm này bởi lẽ: Trong đồng phạm, người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi  khách quan được mô tả trong CTTP hoặc thực hiện hành vi khách quan bằng cách  tác động đến người khác để người này thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP  và bản thân những người bị tác động không phải chịu TNHS với người đã tác động  vì họ  không có lỗi hoặc họ  chỉ  có lỗi vô ý do sai lầm. Những người đồng phạm  khác tham gia trực tiếp vào việc thực hiện tội phạm thực hiện thông qua hành vi   của người thực hành, không trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả  trong CTTP   của một tội phạm cụ thể. Việc cùng thực hiện hành vi phạm tội của những người  đồng phạm đòi hỏi phải tồn tại mối quan hệ  nhân quả  giữa hành vi của từng   người đồng phạm với việc thực hiện tội phạm do người th ực hành (những người   thực hành) thực hiện. Trong đó, chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội của người thực  hành (những người thực hành) có mối liên hệ trực tiếp và ở trong mối liên hệ trực  tiếp với việc gây ra hậu quả  ở các cấu thành vật chất hoặc các hành vi phạm tội   đó tự mình trực tiếp chứa đựng cấu thành tội phạm ở các cấu thành tội phạm hình   thức. Hành vi của những người đồng phạm khác không có mối liên quan trực tiếp   mà thông qua hành vi phạm tội của người thực hành (những người thực hành).  Những người đồng phạm khác đưa phần đóng góp của mình vào cơ chế chung của  việc thực hiện tội phạm, tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng tác động  đặc thù đến người thực hành, ủng hộ, ảnh hưởng người thực hành để người thực   hành thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP. Trong   khoa học luật hình sự, các giai đoạn thực hiện tội phạm được thể  hiện bằng việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan trong CTTP của một  tội phạm cụ  thể, vì vậy, có cơ  sở  để  khẳng định rằng, nếu những người đồng  phạm không thực hiện được tội phạm đến cùng vì do những nguyên nhân ngoài ý  4
  5. muốn của họ  thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào, những  người đồng phạm phải chịu TNHS đến giai đoạn đó. Trong đó, những người đồng  phạm có lỗi (người tổ  chức, người xúi giục, người giúp sức) chịu trách nhiệm  không phải về sự tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm mà là  về sự tham gia trực tiếp trong hành vi thực hiện tội phạm  ở giai đoạn hoàn thành  hoặc chưa hoàn thành. Cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm hình sự của người đồng  phạm trong trường hợp chưa hoàn thành là điều luật quy định về đồng phạm, điều   luật quy định về tội phạm chưa hoàn thành và điều luật quy định trách nhiệm hình   sự đối với tội phạm mà người thực hành cần phải thực hiện. Trong thực tiễn, có những trường hợp một người đã thực hiện hành vi tổ  chức thực hiện tội phạm, xúi giục hoặc giúp sức người khác thực hiện tội phạm   nhưng người bị  tổ  chức, xúi giục, giúp sức không sử  dụng sự  hỗ  trợ  đó, cụ  thể  như: Thứ  nhất,  người tổ  chức thành lập nhóm tội phạm hoặc điều khiển hoạt  động của nhóm với mong muốn nhóm thực hiện tội phạm theo ý định của mình   nhưng vì lý do nào đó, nhóm hoàn toàn không được thành lập hoặc không thực   hiện theo sự tổ chức ấy. Thứ hai, người xúi giục kích động người nào đó với mong muốn họ sẽ thực   hiện tội phạm theo sự  xúi giục của mình nhưng sau đó người xúi giục hoàn toàn  không thực hiện theo sự xúi giục. Thứ  ba,  người giúp sức cung cấp cho người thực hành công cụ, phương  tienẹ phạm tội hoặc đưa ra lời góp ý, chỉ dẫn... nhưng người thực hành hoàn tòan  không sử dụng sự giúp đỡ ấy mặc dù đã thực hiện tội phạm hoặc hoàn toàn không  thực hiện tội phạm. Trong những trường hợp này, hoặc không có tội phạm được thực hiện hoặc   là giữa hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức với tội phạm được thực hiện không có  mối quan hệ  nhân quả, không có hành động chung. Những trường hợp này không  phải là đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức mang tính chất   5
  6. nguy hiểm cho xã hội vì đã đe dọa một quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.   Hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức không đạt là những dạng đặc biệt của trường   hợp chuẩn bị  phạm tội (bắt đầu phạm tội nhưng chưa thực hiện hành vi khách   quan mô tả trong CTTP cụ thể). Trách nhiệm hình sự của người tổ chức, xúi giục,  giúp sức không đạt thực hiện theo quy định về chuẩn bị phạm tội. 2. Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm trong đồng phạm Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc pham tội là một trong những biểu   hiện quan trọng của nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự, thể  hiện chính sách   hình sự của Nhà nước là: “Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo,   tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa   hoặc bồi thường thiệt  hại gây ra”, khuyến khích những người đang chuẩn bị  phạm tội hoặc đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm dừng hành vi phạm tội càng  sớm càng tốt, từ đó loại bỏ hoặc hạn chế những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong vụ án đồng phạm có nhiều người tham gia và giữ các vị trí khác nhau  nên việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm cũng có những   đặc điểm riêng: a)  Tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một người  đồng phạm  hoặc một số người đồng phạm thì việc miễn TNHS chỉ được áp dụng đối với bản  thân người đã tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và không loại trừ  TNHS   của những người đồng phạm khác.  b) Đối với người thực hành, vấn đề  tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm   tội được xác định như  trường hợp phạm tội riêng lẻ. Đối với người đồng phạm  khác thì việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải được thực hiện trước   khi hành vi phạm tội của người thực hành ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn   thành hoặc  ở  giai đoạn đã hoàn thành và người tổ  chức, người xúi giục, người   giúp sức phải có những hành động tích cực làm mất tác dụng, vô hiệu hóa những   hành vi trước đó của mình, để ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm. 6
  7. Bởi lẽ, nếu hành vi của người thực hành ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã  hoàn thành hoặc  ở  giai đoạn đã hoàn thành thì hành vi của những người đồng   phạm khác cũng ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành hoặc phạm tội hoàn thành nên  không thể có việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được. Đồng thời, nếu  người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì tội phạm không hoàn  thành, hậu quả  không xảy ra nhưng nếu người tổ  chức, người xúi giục, người   giúp sức từ bỏ hẳn ý định phạm tội mà không có hành động tích cực để ngăn chặn   người thực hành thực hiện tội phạm thì tội phạm vẫn có thể  xảy ra, người thực   hành vẫn có đầy đủ  khả  năng sử  dụng việc hỗ trợ của những người đồng phạm   khác vào việc thực hiện tội phạm. Do đó, để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt  việc phạm tội thì những người đồng phạm khác phải có những hành động tích cực   nhằm ngăn chặn việc thực hiện tội phạm. Trong trường hợp có một người thực hành thì tương tự  như  trường hợp   phạm tội riêng lẻ, người thực hành được coi là tự  ý nửa chừng chấm dứt việc  phạm tội khi có những điều kiện: Một là, điều kiện thuộc về mặt chủ quan người   phạm tội, tức người phạm tội phải tự  nguyện chấm d ứt hành vi phạm tội một   cách dứt khoát. Hai là, việc chấm dứt hành vi đó phải ở  giai đoạn chuẩn bị phạm   tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Trong trường hợp có nhiều người thực hành thì có thể  có trường hợp một  hoặc một số người thực hành tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng có  người thực hành vẫn tiếp tục thực hiện tội phạm. Việc tự ý nửa chừng chấm dứt   việc phạm tội của những người thực hành đó được biểu hiện  ở  việc không thực  hiện bất cứ  hành vi phạm tội nào hoặc chấm dứt hành vi phạm tội một cách tự  nguyện, dứt khoát, vĩnh viễn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa   đạt chưa hoàn thành. Tuy nhiên, khác trường hợp phạm tội riêng lẻ  hoặc trường   hợp đồng phạm chỉ  có một người thực hành thì khi người thực hành chấm dứt  hành vi phạm tội của mình thì tội phạm sẽ kết thúc ngay, hành vi của người thực   hành đã thực hiện trước đó sẽ  không giúp gì cho những người đồng phạm khác  7
  8. trong việc tiếp tục thực hiện tội phạm, còn trong trường hợp đồng phạm có nhiều  người thực hành thì mặc dù một hoặc một số  người thực hành tự  nguyện chấm   dứt việc phạm tội thì chưa chắc tội phạm chung đã kết thúc mà vẫn có trường  hợp kết quả hành vi của những người tự nguyện chấm dứt việc phạm tội đó được   những người đồng phạm khác sử dụng để chỉ huy, điều khiển nhóm tội phạm, xúi  giục người khác tham gia thực hiện tội phạm hoặc tạo điều kiện vật chất, tinh  thần cho những người đồng thực hành còn lại tiếp tục thực hiện tội phạm chung.   Vì vậy, trong trường hợp có nhiều người thực hành thì người thực hành tự  ý nửa   chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ  được miễn TNHS, nếu họ  đã không làm gì  hoặc những việc mà họ đã làm trước khi từ bỏ ý định phạm tội không giúp gì cho   những người đồng phạm khác trong việc tiếp tục thực hiện tội phạm. Còn nếu  những việc mà họ  đã làm được những người đồng phạm khác sử  dụng để  thực  hiện tội phạm, thì họ  cũng phải có những hành động tích cực để  ngăn chặn việc  thực hiện tội phạm đó, không cho hậu quả  tội phạm xảy ra. Nếu họ không ngăn  chặn được những người đồng phạm khác thực hiện tội phạm và hậu quả của tội  phạm vẫn xảy ra thì họ vẫn phải chịu TNHS. Khác với người thực hành, người xúi giục được coi là tự ý nửa chừng chấm  dứt việc phạm tội thì ngoài việc thỏa mãn điều kiện về  chủ  quan (từ  bỏ  việc   phạm tội một cách tự nguyện, dứt khoát), điều kiện về thời điểm chấm dứt ­ nửa   chừng chấm dứt (ở giai đoạn chuẩn bị hoặc giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành),  người xúi giục đỏi hỏi phải có những hành động tích cực làm mất tác dụng của  hành vi trước đó của mình. Bởi vì nếu người xúi giục tuy tự ý nửa chừng từ bỏ ý  định phạm tội của mình nhưng không áp dụng các biện pháp cần thiết để  ngăn   chặn việc tham gia, thực hiện tội phạm thì tội phạm chung vẫn có thể được thực  hiện, hậu quả tội phạm vẫn xảy ra, hành vi xúi giục đã thực hiện vẫn có tác dụng  đóng góp vào việc thực hiện tội phạm chung. Do đó, ý nghĩa của việc tự  ý nửa  chừng chấm dứt việc phạm tội không đạt được trên thực tế. 8
  9. Theo đó, tùy thuộc vào mức độ  thực hiện tội phạm chung thì việc tự ý nửa  chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục cần đáp ứng các đòi hỏi khác   nhau do yêu cầu về  hành động tích cực làm mất tác dụng của hành vi xúi giục là   khác nhau. Trong trường hợp hành vi xúi giục ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giữa  người xúi giục và người bị xúi giục chưa hình thành quan hệ đồng phạm, thì việc  tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục chỉ  cần đáp ứng yêu  cầu về mặt chủ quan và thời điểm chấm dứt việc phạm tội nêu trên mà không đòi  hỏi phải có bất kỳ hành động tích cực nào để làm mất tác dụng của hành vi chuẩn   bị xúi giục. Trường hợp hành vi xúi giục ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn  thành thì việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục đòi hỏi  người xúi giục phải có hành động tích cực ngăn chặn không để  tội phạm chung   hoàn thành. Bởi vì người xúi giục đã kích động, thúc đẩy người khác tham gia thực   hiện tội phạm, do đó để làm mất tác dụng của hành vi xúi giục đòi hỏi người xúi  giục phải thuyết phục, khuyên bảo, đe dọa hoặc bắt buộc người bị xúi giục kích   động, thúc đẩy không thực hiện tội phạm hoặc phải tự ý chấm dứt việc thực hiện   tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.   Cũng được coi là người xúi giục đã làm mất tác dụng của hành vi xúi giục nếu   hành vi của người bị xúi giục không diễn ra nữa hoặc hành vi được thực hiện mà  không phụ thuộc vào xử  sự  trước đó của người xúi giục và người xúi giục đã cố  gắng ngăn chặn hành vi một cách tự nguyện và thực sự. Trong trường hợp người  xúi giục không thuyết phục, bắt buộc được người bị  xúi giục thì để  được công  nhận là tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người xúi giục phải có hành  động tích cực báo cho cơ  quan Nhà nước hoặc nạn nhân biết để  kịp thời có biện  pháp ngăn chặn tội phạm. Trong trường hợp này, thì cũng chỉ  được coi người xúi  giục là tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nếu cơ  quan Nhà nước và nạn   nhân sau khi biết tin báo của người xúi giục đã ngăn chặn thành công để tội phạm   không xảy ra hoặc tội phạm không hoàn thành. Nếu hành vi của người xúi giục  không thuyết phục được người bị  xúi giục hoặc ngăn chặn không thành công tác  9
  10. dụng của hành vi trước đó của mình thì người xúi giục vẫn phải chịu TNHS trong   vụ  đồng phạm với vai trò người xúi giục. Hành vi kiềm chế, ngăn chặn người   khác phạm tội của người xúi giục được xem xét, cân nhắc để giảm nhẹ TNHS khi  cá thể hóa hình phạt. Người giúp sức là người tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho việc thực   hiện tội phạm, vì vậy, cũng giống như người xúi giục, người giúp sức được coi là  tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải có những hành động tích cực nhằm   ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, làm mất tác dụng hành vi trước đó của mình.  Theo đó, trường hợp hành vi giúp sức ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội nghĩa là chưa   hình thành quan hệ  đồng phạm giữa người giúp sức với người được giúp sức thì  được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người giúp sức chỉ  cần đáp   ứng điều kiện về chủ quan (từ bỏ việc phạm tội một cách tự nguyện, dứt khoát),   điều kiện về  thời điểm chấm dứt ­ nửa chừng chấm dứt (ở  giai đoạn chuẩn bị  hoặc giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành) mà không cần thêm điều kiện khác. Khi   hành vi giúp sức đã ở  giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành nghĩa là hành  vi giúp sức đã được sử dụng vào việc thực hiện tội phạm chung thì để được công  nhận là tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người giúp sức phải có những  hành vi làm mất tác dụng của hành vi trước đó của mình, ngăn chặn tội phạm  (hành vi tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thực hiện tội phạm). Nội dung, tính  chất của hành vi ngăn chặn thì lại tùy thuộc vào đặc điểm của hành vi giúp sức  (giúp sức vật chất hay giúp sức tinh thần). Đối với hành vi giúp sức về vật chất thì  người giúp sức phải có các hành vi như: lấy lại công cụ, phương tiện phạm tội,   không khắc phục trở  ngại cho việc tham gia thực hiện tội phạm chung... Trong   trường hợp người giúp sức có hành vi giúp sức về tinh thần (góp ý, chỉ  dẫn, cung  cấp thông tin liên quan đến việc thực hiện tội phạm, hứa hẹn che giấu tội phạm,   cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội…) thì việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc  phạm tội của người giúp sức phải thỏa mãn các điều kiện như người xúi giục, tức   là người giúp sức phải thuyết phục, khuyên bảo, đe dọa hoặc bắt buộc người  10
  11. được giúp sức không thực hiện tội phạm hoặc phải tự ý chấm dứt việc thực hiện   tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.   Trong trường hợp người được giúp sức không thuyết phục, bắt buộc được người   được giúp sức thì phải có hành động tích cực báo cho cơ quan Nhà nước hoặc nạn   nhân biết để  kịp thời có biện pháp ngăn chặn tội phạm và thực tế  đã ngăn chặn  được tội phạm không hoàn thành hoặc chưa đạt đã hoàn thành. Cũng được coi là  người giúp sức đã làm mất tác dụng của hành vi giúp sức nếu hành vi của người   được giúp sức không diễn ra nữa hoặc hành vi được thực hiện mà không phụ  thuộc vào xử sự trước đó của người giúp sức và người giúp sức đã cố  gắng ngăn  chặn hành vi một cách tự nguyện và thực sự. Nếu như người giúp sức không thành  công thì người giúp sức vẫn phải chịu TNHS cùng với những người đồng phạm   khác với vai trò giúp sức và việc có những hành vi nhằm vô hiệu hóa sự giúp sức  của người giúp sức được coi là tình tiết để  giảm nhẹ  TNHS khi cá thể  hóa hình   phạt. Người tổ  chức là người thành lập hoặc điều khiển nhóm tội phạm thực  hiện tội phạm cụ  thể. Cũng giống như  người xúi giục và người giúp sức, trong  trường hợp hành vi tổ chức chưa đạt chưa hoàn thành thì để được công nhận là tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người tổ chức ngoài việc phải đáp ứng các  điều kiện chung về  sự  tự  ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội như  các trường   hợp phạm tội riêng lẻ, người tổ chức còn phải có các hành vi làm mất tác dụng, vô  hiệu hóa hành vi tổ chức của mình. Trong trường hợp nhóm tội phạm do người tổ  chức thành lập hoặc điều khiển đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, người tổ  chức phải có các hành vi tích cực, sử  dụng  ảnh hưởng của mình không để  tội  phạm do nhóm tội phạm được thực hiện đến cùng như thuyết phục, khuyên bảo,  đe dọa những người đồng phạm khác không thực hiện tội phạm đến cùng hoặc  phải báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết để có biện pháp ngăn chặn kịp  thời… Trong trường hợp người tổ chức đã áp dụng các biện pháp tích cực nhưng  11
  12. tội phạm vẫn tiếp tục được thực hiện đến cùng thì hành vi ngăn chặn của người   tổ chức cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt. 12
  13. 1 Các giai đoạn phạm tội chỉ đặt ra đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,   bởi vì chỉ tội phạm có lỗi cố ý trực tiếp thì người phạm tội mới có ý định, mục đích phạm tội và   có mong muốn, quyết tâm thực hiện tội phạm. Đối với những tội phạm có cấu thành hình thức   thực hiện bằng không hành động, mặc dù được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, cũng không có   hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. 2 Lê Thị Sơn (1995), "Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm",  Luật học, (6), tr. 29­ 34; Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.  249­255. 3 Nguyễn Ngọc Hòa (2006), Tội phạm và Cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,  tr. 38­39. 4  Lê Cảm (chủ  biên) (2003),  Giáo trình Luật hình sự  Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học  Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 273;Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2007),  Giáo trình Luật hình sự   Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 183­184; Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2009), Giáo  trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 304.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2