TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU_4
lượt xem 3
download
Theo quan niệm Nho gia, thì trữ tình si tình là trường hợp của những bậc tài tử giai nhân, mà thâm tình đôn tình là của bậc quân tử. Còn dục tình là của phàm phu tục tử hay tiểu nhân.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU_4
- TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU Theo quan niệm Nho gia, thì trữ tình si tình là trường hợp của những bậc tài tử giai nhân, mà thâm tình đôn tình là của bậc quân tử. Còn dục tình là của phàm phu tục tử hay tiểu nhân. Kinh Lễ viết : "Người quân tử phản lại thường tình, để điều hoà chí lực... cho nên tình bên trong mà thâm hậu, thì phát lộ ra bên ngoài bằng những vẻ đẹp trong sáng" (Quân tử phản tình dĩ hoà kỳ chí... Thị cố tình thâm nhi văn minh)[30]. Theo phái Huyền Học đời Tấn, thì yếu tố tình cảm là căn bản nếp sống của người phong lưu tài tử. Vương Nhung (234-305) thường nói với các bạn văn nhân : "Thánh nhân thì quên tình, thứ dân thì chưa biết tới tình, còn như bọn ta mới có tình vàng đá" (Thánh nhân vong tình, tối hạ bất cập tình, tình chi sở chung chính tại ngã bối)[31].
- Đạm Tiên, Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hãi đều là những khách phong lưu trữ tình: Tình cảm của tài tử giai nhân gây cho họ nhiều xúc cảm mãnh liệt, mà thường nhân không có. Sách Thế thuyết tân ngữ kể rằng : "Vương Khâm khóc cảnh phong lưu của mình, mà than rằng : Vương Bá Dư (tức chính mình) ở đất Lang Da, rồi ắt phải chết vì tình" (Lang Da Vương Bá Dư chung đương vi tình tử)[32]. Những tài tử giai nhân của Nguyễn Du cũng như chính Nguyễn Du đều thuộc loại trữ tình và si tình như vậy. Thúy Kiều khóc vì quá xung động tình cảm, trước nấm mồ vô chủ, trong khi Thúy Vân, người bất cập tình, thì trách chị "khéo dư nước mắt khóc người đời xưa". Tới khi nàng gặp Kim Trọng và đôi bên cảm nhau, thì ôi thôi ! Tình cảm tràn đầy lênh láng, nào là "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" hay "rộn đường gần với nỗi xa bời bời", nào là '”ngổn ngang trăm mối bên lòng" hay "nỗi lòng canh cánh bên lòng biếng khuây", rồi hơn nữa "sầu đong càng lắc càng đầy" hay "mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng"... Cho tới lúc hai người tái ngộ, đi sâu vào tâm tình nhau, thì khúc tình ca càng chơi vơi tràn bờ :
- ”Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ. Sông Tương một giải nông sờ, Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia”. (ĐTTT câu 363-66) Mối tình tràn đầy tính cách âm dương này khiến nhân tính hầu như không thể cưỡng lại được nữa; cả hai đã mở đầu bài ca chung tình bằng những cung đàn bạc mệnh đầu tiên : "Khi tựa gối, khi cúi đầu, Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày. Rằng : hay thì thực là hay, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào". (ĐTTT câu 487-90) Từ đó bài ca chung tình lỡ dở, để cho mối tình tài tử giai nhân càng đi sâu vào bi thiết rối loạn. Tới khi Thuý Kiều gặp Thúc sinh và cùng chàng tiếp nối bài ca dang dở, thì tình sâu thẳm vẫn giữ nguyên màu thẳm sâu : "Một nhà xúm họp trúc mai,
- Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông". (ĐTTT câu 1381-82) Đường đời lại đưa nàng đến cuộc dang dở thứ hai: "Người lên ngựa, kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san". (ĐTTT câu 1519-20) Thế rồi cuộc tình dang dở sê còn dang dở mãi : "Gác kinh viện sách đôi nơi, Trong gang tấc lại cách mười quan san". (ĐTTT câu 1937-38) Cho đến khi Thúc Sinh nói lên một câu dứt tình, thì thật là hết : ”Liệu mà cao chạy xa bay, Ái ân ta có ngần này mà thôi". (ĐTTT câu 1971-72) Thế là hết những gặp gỡ trao tình. Nhưng tình càng đi sâu vào tâm tư, để chờ bộc phát trong những kỳ ngộ mai sau. Phải kể cuộc kỳ ngộ với
- người hùng Việt Đông : Từ Hải. Người ta trách Thúy Kiều là kẻ ngoại tình, không phải một lần, mà là hết kẻ nọ đến người kia. Nhưng Nguyễn Du đã trả Thuý Kiều về với nguyên lý âm dương thuần túy và nguyên lý "tương ứng tương cầu”, khi gặp Từ Hải : "Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cỡi rồng". (ĐTTT câu 2211-12) Đây hẳn là cực đỉnh của danh vọng và cũng là cực đỉnh của mối tình vớt vát trong đời nàng. Nhưng chính ở điểm cực đỉnh ấy, nàng đã gảy khúc đàn bạc mệnh đến âm điệu chót : "Thân sao thân đến thế này, Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi. Đã không biết sống là vui, Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương. Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc, tan vàng thì thôi". (ĐTTT câu 2611-16) Kim Trọng cũng thế. Tình yêu là hơi thở là nhịp sống trọn đời của chàng, chứ không phải chỉ là những rung động, những nồng bốc trong
- giây lát. Đúng theo nghĩa âm dương vàng đá, thanh khí của chàng một khi đã tương ứng tương cầu với Thúy Kiều, thì đôi bên thanh khí như đã giao hoà cấu kết, không ly tán được. Thể xác họ xa nhau, nhưng đôi tâm hồn mãi mãi như ràng buộc lấy nhau. Vì thế sau những ngày phân kỳ, chàng trở về quyết tìm cho được hình ảnh bản ngã thứ hai (le double moi) của mình qua Thúy Kiều. Tìm đến nhà họ Vương, biết Thúy Kiều đã lưu lạc vô tăm tích, tình cảm chan chứa dồn ép từ bao năm, bỗng giàn giụa trên đôi mắt đôi môi chàng : "Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai. Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi, Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê". (ĐTTT câu 2795-98) Cho đến khi, vì thể hiện ý của Thúy Kiều mà kết hợp với Thúy Vân, mối tình tinh túy âm dương nguyên thủy vẫn không nguôi được : ”Nỗi nàng nhớ đến bao giờ, Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng". (ĐTTT câu 2847-48) Có thể người ta nghĩ rằng : Kim Trọng là mẫu người lãng mạn ướt át.
- Nhưng đó là kiểu nói thông thường của văn chương bình dân, nó không hợp với tâm hổn nhân bản của chàng, và không đúng với lẽ tương ứng tương cầu. Tình lãng mạn ướt át là một thứ tình trôi nổi, không mục đích, chỉ lắt lay theo đà lòng bột khởi trong lúc nào đó, và thường thường thiếu thực tế. Ở đây tình của Kim Trọng là tình cốt tủy vàng đá, do bản tính tạo thành; nó mãnh liệt, mà trung kiên bền vững; tuy nhiên nó không mấy khi thoát nổi đoạn trường. Nó không thể lãng mạn lắt lay được, mà chính cuộc đoạn trường da diết lâu dài mới là men nồng cho tình yêu thêm cường độ. Chung quy, ta chỉ muốn nhấn mạnh rằng : những đau khổ hay những nổi đoạn trường chỉ là những hiện tượng tự nhiên của kiếp sống chung đụng. Nói theo nhân bản thuyết, đó không phải là một điều ác, mà chỉ là một khía cạnh của đời sống xã hội loài người, một xã hội hiện sinh. Trong đó con người với con người, con người với mọi công việc, con người với muôn nghìn hoàn cảnh diễn biến, đã làm thành cái ta gọi là nhân sinh, nhằm phát triển toàn diện con người vật thể, tức là con người hình nhi hạ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài 9: Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 595 | 26
-
Giáo án Ngữ văn 7 bài Luyện tập tạo lập văn bản - GV: Nguyễn Kim Loan
10 p | 431 | 15
-
Giáo án Ngữ văn 7 bài Đại từ - GV: Nguyễn Kim Loan
10 p | 312 | 12
-
Bài 8: Bạn đến chơi nhà - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 307 | 11
-
TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU-phần1
18 p | 90 | 8
-
Cảm nghĩ về tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh
11 p | 86 | 7
-
Bài 8: Chữa lỗi về quan hệ từ - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 292 | 7
-
Phân tích Chiếu cầu hiền để thấy tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung
3 p | 37 | 7
-
TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU_3
6 p | 52 | 5
-
TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU_1
6 p | 83 | 5
-
TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU-phần2
16 p | 41 | 5
-
Bài 8: Viết bài tập làm văn số 2 - Văn biểu cảm - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 188 | 4
-
Ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng tiếng đàn trong bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca"
3 p | 41 | 4
-
TƯ TƯỞNG “CON NGƯỜI BẠC MỆNH” TRONG THƠ CA NGUYỄN DU_2
7 p | 41 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn