
Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp và cách tiếp cận liên chuyên khoa
lượt xem 1
download

Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp (PTC) là một thể bệnh lâm sàng cực kỳ hiếm gặp. Biểu hiện lâm sàng, tiêu chuẩn chẩn đoán, phương pháp điều trị còn nhiều điều chưa rõ ràng do sự thiếu hụt về cơ sở dữ liệu. Bài viết trình bày một ca lâm sàng về thể bệnh này và cho thấy sự hiệu quả của việc phối hợp các chuyên khoa khác nhau nhằm đạt được sự tối ưu trong việc quản lý và điều trị cho bệnh nhân.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp và cách tiếp cận liên chuyên khoa
- Báo cáo Ca lâm sàng Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 28(4):157-163 ISSN: 1859-1779 https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20 Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp và cách tiếp cận liên chuyên khoa Trần Nhật Huy1,* 1 Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Tóm tắt Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp (PTC) là một thể bệnh lâm sàng cực kỳ hiếm gặp. Biểu hiện lâm sàng, tiêu chuẩn chẩn đoán, phương pháp điều trị còn nhiều điều chưa rõ ràng do sự thiếu hụt về cơ sở dữ liệu. Chúng tôi trình bày một ca lâm sàng về thể bệnh này và cho thấy sự hiệu quả của việc phối hợp các chuyên khoa khác nhau nhằm đạt được sự tối ưu trong việc quản lý và điều trị cho bệnh nhân. Ca lâm sàng: Bệnh nhân nữ 37 tuổi, nhập viện với khối u buồng trứng hai bên và được phẫu thuật nội soi bóc u với chẩn đoán trước mổ là u quái trưởng thành của buồng trứng hai bên, kích thước lớn gây cảm giác trằn nặng vùng chậu. Mô học sau phẫu thuật được xác định là ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp. Với kết quả mô học như vậy, chúng tôi tiến hành các khảo sát liên quan tiếp theo và phát hiện một nang giáp phân loại TRADS 2 và một tổn thương ở lách nghi ngờ là tổn thương di căn. Sự phối giữa các nhà lâm sàng về ung thư, phụ khoa, nội tiết và hình ảnh can thiệp đã giúp đánh giá và đưa ra hướng điều trị thích hợp cho bệnh nhân. Sau khi được phẫu thuật lần hai nội soi cắt hai phần phụ, mạc nối lớn và phân giai đoạn, bệnh nhân được theo dõi định kỳ và kết cục ngắn hạn cho thấy một kỳ vọng rất khả quan. Kết luận: Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp là một thể bệnh rất hiếm trên lâm sàng, do đó gây ra không ít bối rối cho các nhà lâm sàng khi gặp phải. Việc quản lý, nhất là các phương pháp phẫu thuật còn nhiều tranh luận. Bên cạnh việc dựa vào các thông tin y văn sẵn có thì đánh giá bệnh nhân một cách cẩn thận, cá thể hoá cũng như phối hợp giữa các chuyên khoa khác nhau cho thấy hiệu quả đáng mong đợi trong điều trị trước mắt và lâu dài cho bệnh nhân. Từ khoá: ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp; u quái giáp; tiếp cận liên chuyên khoa Abstract PAPILLARY THYROID CARCINOMA ARISING IN STRUMA OVARII AND A INTERDISCIPLINARY APPROACH Tran Nhat Huy Ngày nhận bài: 28-02-2025 / Ngày chấp nhận đăng bài: 18-04-2025 / Ngày đăng bài: 21-04-2025 *Tác giả liên hệ: Trần Nhật Huy. Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. E-mail: tranhuy@ump.edu.vn © 2025 Bản quyền thuộc về Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh. https://www.tapchiyhoctphcm.vn 157
- Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025 Objective: Papillary thyroid carcinoma (PTC) arising in struma ovarii is an extremely rare clinical disease. Clinical manifestations, diagnostic criteria, and treatment methods remain unclear due to a lack of data. We presented a clinical case of this disease and demonstrated the necessity of an interdisciplinary approach to achieve optimal management and treatment for the patient. Case presentation: A 37-year-old patient was admitted to the hospital with bilateral ovarian teratomas and underwent laparoscopic cystectomy with a preoperative diagnosis of large mature teratoma of both ovaries, causing a feeling of heaviness in the pelvic area. Postoperative histopathology was identified as papillary thyroid carcinoma arising in struma ovarii; examination afterward revealed a TI-RADS 2 thyroid nodule and a lesion in the spleen suspected to be a metastatic lesion. The collaboration between oncologists, gynaecologists, endocrinologists, and interventional radiologists helped assessing and indicating appropriate treatment for the patient. After undergoing a second laparoscopic surgery to remove both adnexa, omentum, and staging, the patient was monitored regularly, and the short- term outcome showed very promising expectations. Conclusion: Papillary thyroid carcinoma arising in struma ovarii is a very rare clinical disease, thus causing considerable confusion for clinicians. Management, especially surgical methods, is still controversial. Based on available medical literature, careful evaluation of the patient, individualization, and coordination between different medical specialties show promising outcomes for the patient. Keywords: papillary thyroid carcinoma arising in struma ovarii (PTC); struma ovarii; interdisciplinary approach 1. ĐẶT VẤN ĐỀ kết quả tốt đẹp cho bệnh nhân mắc thể bệnh lâm sàng hiếm gặp này. U quái giáp là một thể bệnh lâm sàng hiếm gặp, chiếm tỉ lệ dưới 1% các loại u buồng trứng và dưới 2,7% các loại u quái 2. BÁO CÁO CA của buồng trứng [1]. Loại u buồng trứng này được đặc trưng Bệnh nhân nữ, 37 tuổi, para 2012, với hai lần sinh thường bởi thành phần mô tuyến giáp chiếm ưu thế vượt trội so với và một lần phá thai nội khoa trước đó, không kèm theo vấn các thành phần còn lại, tiêu chuẩn chẩn đoán mô học được đề gì bất thường. Các tiền căn về bệnh lý nội, ngoại khoa xác định khi thành phần mô tuyến giáp chiếm hơn 50% [2], trước đó cũng bình thường. Bệnh nhân ngừa thai với dụng cụ nhuộm hoá mô miễn dịch cho thấy biểu hiện dương tính với tử cung chứa đồng, Tcu, được 8 năm nay, kinh nguyệt đều, Thyroid Transcription factor – 1 (TTF-1), Pair-Box Gene 8 hành kinh bình thường. Bệnh nhân đi khám sức khoẻ vì thỉnh (PAX8) và thyroglobulin [3]. Hầu hết các loại u quái giáp của thoảng thấy căng trằn vùng bụng dưới và phát hiện u buồng buồng trứng là lành tính, tuy nhiên vẫn tồn tại các thể ác tính trứng hai bên nghĩ là u quái trưởng thành dựa vào các đặc với tỉ lệ rất hiếm, khoảng 0,05% các loại u buồng trứng, gây điểm điển hình trên siêu âm. Khám lâm sàng ghi nhận buồng ra nhiều bối rối cho các nhà lâm sàng trong việc chẩn đoán, trứng hai bên có khối u kích thước lần lượt bên phải 10x6 cm, quản lý và tư vấn cho bệnh nhân [4]. Trong các thể ác tính của và bên trái 4x5 cm, di động, trơn láng, giới hạn rõ, không đau. u quái giáp thì ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú là thể Các chất đánh dấu sinh học bướu ghi nhận kết quả bình bệnh thường gặp hơn cả. Biểu hiện về lâm sàng, hình ảnh thường với Alpha Fetoprotein 1 IU/mL, CA125 14,4 IU/mL, cũng như các chất đánh dấu sinh học bướu của thể bệnh này Beta-hCG < 0,2 mIU/mL, HE4 34,5pmol/L. Với các khảo sát hầu như không có sự khác biệt rõ ràng nào với các loại u quái thường quy trước mổ trong giới hạn bình thường, bệnh nhân khác của buồng trứng, điều này dẫn tới rất nhiều khó khăn được phẫu thuật nội soi bóc khối u buồng trứng hai bên, quá cho các nhà lâm sàng. Chẩn đoán chỉ được xác lập sau phẫu trình bóc khối u nguyên vẹn, người bệnh được xuất viện trong thuật khi khảo sát mô học của khối u. Chúng tôi trình bày một cùng ngày phẫu thuật. ca bệnh lâm sàng ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp kèm theo các tổn thương ở tuyến giáp Sau phẫu thuật, chẩn đoán được xác định dựa vào kết quả chính vị và nhu mô lách, đồng thời cho thấy sự phối hợp liên mô học là ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ chuyên khoa trong việc quản lý toàn diện và đem lại những u quái giáp bên phải và u quái trưởng thành ở buồng trứng 158 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20
- Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025 bên trái. Các khảo sát để đánh giá, quản lý một bệnh nhân ung thư buồng trứng được tiến hành ngay sau đó. Siêu âm 2D tuyến giáp ghi nhận một nhân giáp ở thuỳ trái kích thước 7x4 mm, phản âm hỗn hợp, giới hạn rõ, bờ đều, trục ngang, được phân loại TI-RADS 2. CT Scan ngực không ghi nhận hình ảnh bất thường, tuy nhiên CT Scan bụng lại nghi nhận các tổn thương bắt thuốc kém rải rác ở lách với kích thước 12 mm, nghi ngờ là tổn thương di căn. Chức năng tuyến giáp cũng được khảo sát với kết quả bình thường TSH 1,9 mIU/L, FT4 10,5Pmol/L. Các bác sĩ ung bướu được tham vấn để đánh giá tổn thương ở tuyến giáp, bác sĩ chuyên về hình ảnh can thiệp được mời để đánh giá và can thiệp tổn thương ở lách. Sau khi thống nhất giữa các chuyên khoa, chúng tôi quyết định nhân Hình 2. Siêu âm thang xám khối u buồng trứng phải, phản âm giáp TI-RADS 2 sẽ được tiếp tục theo dõi định kỳ qua lâm hỗn hợp với các thành phần phản âm dày xen kẽ các dải phản sàng và siêu âm, tổn thương lách sẽ được sinh thiết dưới âm sáng hướng dẫn của siêu âm, người bệnh cũng được tư vấn về các biện pháp can thiệp sau đó. Kết quả mô học sau sinh thiết tổn thương ở lách là u lành mạch máu. Người bệnh được phẫu thuật nội soi cắt phần phụ hai bên, cắt mạc nối lớn, sinh thiết phúc mạc, phân giai đoạn ung thư và sử dụng nội tiết thay thế sau phẫu thuật. Bệnh nhân sau phẫu thuật được theo dõi định kỳ và không thêm can thiệp nào khác. Ở các thời điểm 3 tháng, 6 tháng sau phẫu thuật ghi nhận sức khoẻ của bệnh nhân ổn định, không phát hiện bất kỳ tổn thương nào khác trên lâm sàng cũng như hình ảnh. Toàn bộ quá trình thăm khám, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm, chẩn đoán mô học và phẫu thuật bệnh nhân đều được thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (Hình 1-6). Hình 3. Khối u buồng trứng phải qua phẫu thuật nội soi Hình 1. Siêu âm thang xám khối u buồng trứng trái, phản âm hỗn hợp với các thành phần phản âm dày xen kẽ các dải phản âm Hình 4. Mạc nối lớn trơn láng qua phẫu thuật nội soi sáng https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 159
- Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025 Hình 5. Mô học ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp, thượng mô tuyến giáp tăng sản tạo nhú có trục liên kết mạch máu, nhân lớn, sáng, trong nhân chứa thể vùi. Nhuộm Hematoxylin & Eosin, độ phóng đại 100x và 400x Hình 6. Tổn thương khu trú ở thuỳ trái tuyến giáp với phản âm hỗn hợp kích thước 7x4 mm 3. BÀN LUẬN ảnh siêu âm ghi nhận khối u buồng trứng hai bên với kích thước 10x6 cm bên phải và 4x3 cm bên trái, các tính chất trên hình ảnh gợi ý cho u quái trưởng thành của buồng trứng, các Về chẩn đoán trước mổ; ung thư biểu mô tuyến giáp dạng chất đánh dấu sinh học bướu cũng không phát hiện gì bất nhú xuất phát từ u quái giáp (PTC) hầu như không được chẩn thường. Phẫu thuật được tiến hành sau đó khi có sự tham vấn đoán trước mổ vì biểu hiện lâm sàng, các xét nghiệm về hình và cùng quyết định giữa bác sĩ lâm sàng phụ khoa và người ảnh, hay các chất đánh dấu sinh học bướu đều không đặc hiệu bệnh, với chẩn đoán trước mổ là u quái trưởng thành ở buồng [5,6]. Phần lớn bệnh nhân sẽ được chỉ định mổ như một trứng hai bên to, gây trằn nặng vùng chậu, phẫu thuật nội soi trường hợp u quái thông thường của buồng trứng, có thể kèm bóc u buồng trứng hai bên. theo các triệu chứng khó chịu như trằn nặng bụng, hay một khối u ở vùng chậu. Vẫn có những trường hợp khối u ở buồng Chẩn đoán được xác định sau đó là ung thư biểu mô tuyến trứng kèm theo các dấu hiệu gợi ý cho u quái giáp như bệnh giáp dạng nhú xuất phát từ u quái giáp bên phải, u quái trưởng nhân có biểu hiện cường giáp, dịch ổ bụng hay huyết khối thành ở buồng trứng bên trái, dựa vào các tính chất trên mô tĩnh mạch sâu, tuy nhiên những trường hợp này là rất hiếm học. Về đại thể, khối u bên phải chia thành nhiều thuỳ, có gặp [6]. Trong ca lâm sàng được trình bày, bệnh nhân phát vách mỏng, mặt cắt màu vàng, chứa chất dạng keo, có vùng hiện bệnh do cảm giác trằn nặng vùng bụng dưới, ngoài ra, đặc kích thước 1,5 cm x 1 cm. Khối u bên trái dạng nang, không có biểu hiện bất thường gì khác trên lâm sàng. Hình vách mỏng, bên trong chứa mô bã, lông, tóc. Vi thể mô u bên 160 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20
- Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025 phải có thượng mô tuyến giáp tăng sản tạo nhú có trục liên Trong khi đó, với 17 ca u quái giáp ác tính thì 29% ghi nhận kết mạch máu, nhân lớn, sáng, trong nhân chứa thể vùi, bên đột biến BRAF, đặc biệt với các thể điển hình của ung thư trái hiện diện biểu mô da gồm các lớp tế bào gai, phần phụ biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái buồng trứng da, tuyến giáp, mô mỡ lành tính. Ung thư biểu mô tuyến giáp thì đột biến BRAF ghi nhận ở tất cả các trường hợp [11]. Đối dạng nhú xuất phát từ u quái giáp buồng trứng là một thể bệnh với đột biến RAS thì Sobrinho-Simões M cũng ghi nhận 43% rất hiếm, chẩn đoán mô học của nó được dựa vào những tiêu các trường hợp được chẩn đoán ung thư biểu mô tuyến giáp chẩn đoán của ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú của tuyến dạng nhú điển hình [12].Trong các thể di căn xa của u quái giáp chính vị, và việc áp dụng những tiêu chuẩn này có thể giáp ác tính thì có khoảng 35% trường hợp cho thấy tái phát vẫn còn tranh luận [2], dù mô học của ung thư biểu mô tuyến sau đó, nhưng các tiêu chuẩn, đặc tính để tiên lượng bệnh thì giáp dạng nhú từ tuyến giáp chính vị là rõ ràng và thống nhất. chưa rõ ràng, do đó bên cạnh việc giúp ích về mặt chẩn đoán, Hơn nữa, Devaney K cũng báo cáo 13 ca chẩn đoán là PTC các đột biến BRAF, RAS gần đây cũng được ghi nhận và kỳ xuất phát từ buồng trứng sử dụng tiêu chuẩn của PTC từ tuyến vọng có thể giúp ích cho mặt tiên lượng, tuy nhiên cần phải giáp chính vị và chỉ thật sự 1 trong số những ca đó cho thấy có thêm nhiều khảo sát, nghiên cứu thêm về vấn đề này. có đặc tính sinh học ác tính là phát triển xâm lấn ra khỏi buồng Cần chú ý, bên cạnh ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú trứng [7]. Tuy nhiên, vì các trường hợp PTC từ buồng trứng xuất phát từ u quái giáp thì một dạng ác tính khác ít gặp hơn còn quá ít, nên hiện thời các báo cáo ca hay loạt ca đều sử nữa của u quái giáp là ung thư biểu mô dạng nang biệt hoá dụng tiêu chuẩn chẩn đoán của PTC từ tuyến giáp chính vị. cao cũng được ghi nhận. Chẩn đoán thể này thường khó khăn Theo đó, hình ảnh nhân tế bào lớn, sáng, chồng lấn lên nhau, hơn với những đặc điểm tổn thương xâm nhập vào các mô chứa thể vùi, màng nhân không đều là tương đối điển hình để xung quanh ngoài buồng trứng, xâm nhập mạch máu, hoặc di xác lập chẩn đoán [2]. Trong một số trường hợp khi chẩn đoán căn đồng thời thiếu vắng các hình ảnh mô học điển hình của không rõ ràng hoặc cần thêm thông tin hỗ trợ thì việc nhuộm ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú [6]. hoá mô miễn dịch với TTF-1, Thyroglobulin cũng cho thấy sự hữu ích đáng kể [8,9]. Ung thư biểu mô tuyến giáp dạng Việc quản lý bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái buồng trứng là một thể bệnh cực kỳ nhú xuất phát từ u quái giáp là một thách thức thật sự. Hiện hiếm trên lâm sàng. Về mặt chẩn đoán, các dấu hiệu, triệu nay vì số ca bệnh còn ít, hoàn toàn thiếu các nghiên cứu lâm chứng của thể bệnh này, ngay cả với hình ảnh học, chất đánh sàng có giá trị cao và các hướng dẫn điều trị nên việc quản lý dấu sinh học bướu đều không đặc hiệu. Thậm chí, phần lớn tuỳ thuộc vào từng bệnh nhân và bệnh cảnh cụ thể. Phẫu thuật các bệnh nhân này sẽ có những biểu hiện gần như giống hoàn vẫn là biện pháp điều trị chính cho nhóm bệnh này, đi từ phẫu toàn với một bệnh nhân có u quái buồng trứng trưởng thành. thuật bảo tồn như bóc khối u ở buồng trứng đối với các tổn Do đó, vai trò của bác sĩ giải phẫu bệnh trong việc chẩn đoán thương tại chổ, không có bằng chứng xâm lấn vỏ bao hay di mô học với phương pháp nhuộm Hematoxylin & Eosin, căn xa cho đến phẫu thuật cắt phần phụ một bên, hai bên, cắt nhuộm hoá mô miễn dịch với TTF-1 là cực kỳ quan trọng. Có tử cung, cắt mạc nối lớn, và có thể kèm theo cắt trọn tuyến thể nói đây là những phương tiện gần như là duy nhất giúp giáp và điều trị tiếp theo với iode phóng xạ [13,14]. Xạ trị các lâm sĩ lâm sàng có thể chẩn đoán và quản lý những bệnh ngoài hay hoá trị cũng có thể được sử dụng cho các trường nhân với thể bệnh cực kỳ hiếm này. Về mặt sinh học phân tử, hợp di căn sau đó. Đối với bệnh nhân của chúng tôi, nữ, 37 các đột biến gen BRAF, HRAS và NRAS gần đây cũng được tuổi, hai con, sau khi xác định chẩn đoán, cũng như thực hiện nhắc tới nhiều hơn trong y văn [10]. Ở một số trường hợp, các khảo sát cần thiết nhằm đánh giá giai đoạn bệnh, tìm các việc phân biệt giữa u quái giáp lành tính và ác tính gặp rất tổn thương thứ phát bên ngoài buồng trứng, bao gồm các nhiều khó khăn về mô học, do vỏ bao ở các thể lành tính đánh giá ở tuyến giáp, ổ bụng, ngực, chúng tôi xác định bệnh không phải lúc nào cũng rõ ràng gây khó khăn trong việc phân còn khu trú ở buồng trứng. Quyết định được đưa ra là phẫu biệt chúng với các thể xâm lấn ác tính. Hơn nữa, nhân tế bào thuật nội soi cắt phần phụ hai bên, cắt mạc nối lớn kèm sinh đôi khi có những biến đổi được gọi là “giống ung thư biểu mô thiết phúc mạc rãnh đại tràng hai bên và sử dụng nội tiết thay tuyến dạng nhú” càng gây thêm khó khăn về mặt chẩn đoán. thế cho bệnh nhân sau mổ. Theo dõi ngắn hạn sau mổ cho Trong một báo cáo 14 ca được xác định là u quái giáp lành thấy sức khoẻ của bệnh nhân ổn định và không cần thêm điều tính, không có ca bệnh nào ghi nhận đột biến BRAF hay RAS. trị bổ trợ gì khác. Việc chỉ cắt phần phụ bên phải hay cắt cả https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 161
- Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025 hai phần phụ ở một phụ nữ trong độ tuổi sinh sản được chúng dõi và quản lý bệnh nhân. tôi thảo luận và tư vấn cho bệnh nhân một cách chi tiết. Các Về tiên lượng của ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú tổn thương thứ phát được ghi nhận từ 5-25% trường hợp, ở xuất phát từ u quái giáp, mặc dù còn thiếu nhiều dữ liệu do số các cấu trúc trong vùng chậu, buồng trứng bên đối diện, di lượng bệnh ít, nhưng nhìn chung là tốt, với tỉ lệ di căn tương căn xa có thể gặp ở phổi, gan, xương, hệ thần kinh [15]. Rất đối ít, tỉ lệ sống sau 10 năm cao, 89% theo Robboy SJ [16]. khó để xác định chính xác tỉ lệ xuất hiện thêm tổn thương ở Tỉ lệ di căn của ung thư biểu mô tuyến giáp dạng nhú xuất buồng trứng đối điện là bao nhiêu vì cơ sở dữ liệu còn ít, hơn phát từ u quái giáp chỉ rơi vào khoảng 4%, phần lớn trong số thế nữa gần 60% các bệnh nhân được báo cáo trên y văn đã này nằm ở vùng chậu như buồng trứng bên đối diện, tử cung thực hiện cắt cả hai phần phụ ngay sau khi chẩn đoán được hoặc các cơ quan trong ổ bụng như mạc nối, gan, hạch dọc thiết lập [15]. Bệnh nhân của chúng tôi không có nhu cầu sinh động mạch chậu, hạch chủ. Các vị trí ngoài ổ bụng như phổi, thêm con, mong muốn cắt cả hai bên phần phụ và đồng thuận xương, hệ thần kinh vẫn được ghi nhận dù số liệu là rất ít [17]. cho việc sử dụng nội tiết thay thế sau đó. Về phương tiện theo dõi và quản lý người bệnh sau điều trị 4. KẾT LUẬN thì hiện thời chưa có một hướng dẫn cụ thể nào từ y văn vì số ca bệnh còn quá ít, các thông tin đều đến từ các báo cáo ca U quái giáp là một thể bệnh hiếm gặp với các đặc tính trên lâm sàng. Bệnh nhân của chúng tôi được đánh giá trước mổ lâm sàng tương đồng với các loại u quái trưởng thành khác đầy đủ và chi tiết cũng như phẫu thuật nội soi được tiến hành của buồng trứng. Thể bệnh ác tính của loại u này như ung thư sau đó giúp khảo sát đầy đủ các tổn thương nếu có ở các cơ biểu mô tuyến giáp dạng nhú còn ít gặp hơn nữa và gần như quan trong ổ bụng. Sau khi xác định chẩn đoán bằng mô học, chỉ được chẩn đoán sau phẫu thuật với các đặc tính mô học dựa vào các khảo sát trước mổ và trong mổ, chúng tôi xác gợi ý. Mặc dù tiên lượng của loại u này là tốt, với tỉ lệ sống định bệnh nhân được phân giai đoạn IA. Ung thư biểu mô còn cao, nhưng các trường hợp di căn đã được ghi nhận ảnh tuyến giáp dạng nhú xuất phát từ u quái buồng trứng lại là hưởng đến sức khoẻ và cả sinh mạng của bệnh nhân, do đó một thể bệnh có tiên lượng tốt, với khả năng tái phát và di căn việc hiểu biết về bệnh học, diễn tiến cũng như có một kế ít [16], do đó chúng tôi quyết định chỉ theo dõi và không can hoạch điều trị, theo dõi bệnh nhân đúng đắn sẽ giúp ích rất thiệp thêm điều trị gì sau mổ. Bệnh nhân sẽ được theo dõi mỗi nhiều. Hiện nay các dữ liệu về loại u ác tính này chủ yếu đến 3 tháng bằng thăm khám lâm sàng và siêu âm 2D để khảo sát từ các báo cáo ca và loạt ca, và trong tương lai gần sắp tới khả vùng chậu và ổ bụng. Ở thời điểm 3 tháng này, bệnh nhân năng cao cũng không có gì thay đổi về phương diện nghiên không có than phiền gì về sức khoẻ, hình ảnh siêu âm vùng cứu do tỉ lệ bệnh quá ít. Do đó, việc chẩn đoán và điều trị trên chậu và ổ bụng cũng không tìm thấy bất thường gì. Ở thời lâm sàng vẫn dựa vào các thông tin đã có từ y văn cùng với điểm 6 tháng chúng tôi cho bệnh nhân chụp phim CT Scan để việc cá thể hoá tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể trên lâm khảo sát chi tiết hơn vùng chậu và ổ bụng để tìm kiếm các tổn sàng, phối hợp các chuyên khoa khác nhau một cách hiệu thương di căn, tái phát nếu có. Phim CT Scan được chọn vì quản để mang lại kết cục tốt đẹp nhất cho bệnh nhân. có lợi thế trong việc khảo sát các tổn thương di căn xa, hơn nữa về mặt chi phí cũng có nhiều ưu thế so với chụp cộng hưởng từ (MRI). Chi phí để khảo sát hết vùng bụng và chậu Nguồn tài trợ của bệnh nhân khi dùng MRI thông thường sẽ gấp 3 lần sới Nghiên cứu này không nhận tài trợ. với CT scan cho cùng mục đích. Trong đợt khảo sát và thăm khám này, bệnh nhân cũng không có bất thường nào được Xung đột lợi ích phát hiện, do đó chúng tôi tạm thời yên tâm về diễn tiến của Không có xung đột lợi ích tiềm ẩn nào liên quan đến bài viết bệnh và dự kiến sẽ theo dõi bệnh nhân mỗi 6 tháng sau đó. này được báo cáo. Trong các lần tái khám tiếp theo, tuỳ thuộc và các than phiền của người bệnh, các dấu hiệu thăm khám được trên lâm sàng, chúng tôi sẽ chọn những khảo sát cận lâm sàng thích hợp. Các ORCID chất đánh dấu sinh học bướu như beta HCG, Alpha FP, chức Trần Nhật Huy năng tuyến giáp cũng sẽ được xem xét trong quá trình theo https://orcid.org/0009-0004-2852-8947 162 | https://www.tapchiyhoctphcm.vn https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20
- Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 28 * Số 4 * 2025 Đóng góp của các tác giả Carcinoma in Struma Ovarii. Cureus. 2020;12(4):e7582. Ý tưởng nghiên cứu: Trần Nhật Huy 9. Szczepanek-Parulska E, Pioch A, Cyranska-Chyrek E, Đề cương và phương pháp nghiên cứu: Trần Nhật Huy, Wolinski K, Jarmołowska-Jurczyszyn D, Janicka- Jedynska M, et al. The role of immunohistochemical Thu thập dữ liệu: Trần Nhật Huy examination in diagnosis of papillary thyroid cancer in Nhập dữ liệu: Trần Nhật Huy struma ovarii. Folia Histochem Cytobiol. 2019;57(1):35- Quản lý dữ liệu: Trần Nhật Huy 42. Phân tích dữ liệu: Trần Nhật Huy 10. Celestino R, Magalhães J, Castro P, Triller M, Vinagre J, Viết bản thảo đầu tiên: Trần Nhật Huy Soares P, et al. A follicular variant of papillary thyroid carcinoma in struma ovarii. Case report with unique Cung cấp dữ liệu và thông tin nghiên cứu molecular alterations. Histopathology. 2009;55(4):482-7. Tác giả liên hệ sẽ cung cấp dữ liệu nếu có yêu cầu từ Ban 11. Schmidt J, Derr V, Heinrich MC, Crum CP, Fletcher JA, biên tập. Corless CL, et al. BRAF in papillary thyroid carcinoma of ovary (struma ovarii). Am J Surg Pathol. TÀI LIỆU THAM KHẢO 2007;31(9):1337-43. 12. Sobrinho-Simões M, Máximo V, Rocha AS, Trovisco V, 1. Yoo SC, Chang KH, Lyu MO, Chang SJ, Ryu HS, Kim Castro P, Preto A, et al. Intragenic mutations in thyroid HS. Clinical characteristics of struma ovarii. J Gynecol cancer. Endocrinol Metab Clin North Am. Oncol. 2008;19(2):135-8. 2008;37(2):333-62, viii. 2. Wei S, Baloch ZW, LiVolsi VA. Pathology of Struma 13. DeSimone CP, Lele SM, Modesitt SC. Malignant struma Ovarii: A Report of 96 Cases. Endocr Pathol. ovarii: a case report and analysis of cases reported in the 2015;26(4):342-8. literature with focus on survival and I131 therapy. 3. Tondi Resta I, Sande CM, LiVolsi VA. Neoplasms in Gynecol Oncol. 2003;89(3):543-8. Struma Ovarii: A Review. Endocr Pathol. 14. Zekri JM, Manifold IH, Wadsley JC. Metastatic struma 2023;34(4):455-60. ovarii: late presentation, unusual features and multiple 4. Zhu Y, Wang C, Zhang GN, Shi Y, Xu SQ, Jia SJ, et al. radioactive iodine treatments. Clin Oncol (R Coll Radiol). Papillary thyroid cancer located in malignant struma 2006;18(10):768-72. ovarii with omentum metastasis: a case report and review 15. Cui Y, Yao J, Wang S, Zhao J, Dong J, Liao L. The of the literature. World J Surg Oncol. 2016;14(1):17. Clinical and Pathological Characteristics of Malignant 5. Siegel MR, Wolsky RJ, Alvarez EA, Mengesha BM. Struma Ovarii: An Analysis of 144 Published Patients. Struma ovarii with atypical features and synchronous Front Oncol. 2021;11:645156. primary thyroid cancer: a case report and review of the 16. Robboy SJ, Shaco-Levy R, Peng RY, Snyder MJ, literature. Arch Gynecol Obstet. 2019;300(6):1693-707. Donahue J, Bentley RC, et al. Malignant struma ovarii: an 6. Zhang X, Axiotis C. Thyroid-type carcinoma of struma analysis of 88 cases, including 27 with extraovarian ovarii. Arch Pathol Lab Med. 2010;134(5):786-91. spread. Int J Gynecol Pathol. 2009;28(5):405-22. 7. Devaney K, Snyder R, Norris HJ, Tavassoli FA. 17. Roth LM, Miller AW, 3rd, Talerman A. Typical thyroid- Proliferative and histologically malignant struma ovarii: a type carcinoma arising in struma ovarii: a report of 4 cases clinicopathologic study of 54 cases. Int J Gynecol Pathol. and review of the literature. Int J Gynecol Pathol. 1993;12(4):333-43. 2008;27(4):496-506. 8. Devi P, Aghighi M, Mikhail N. Papillary Thyroid https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2025.04.20 https://www.tapchiyhoctphcm.vn | 163

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tài liệu y học: BƯỚU GIÁP ĐƠN THUẦN
15 p |
120 |
5
-
Bài giảng Phân loại u tuyến giáp theo TCYTTG 2004
43 p |
10 |
3
-
Biểu hiện protein TRK và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng trong ung thư tuyến giáp
7 p |
4 |
1
-
Một số đặc điểm giải phẫu bệnh của ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy
8 p |
5 |
1
-
Nghiên cứu áp dụng hệ thống xếp độ mô học quốc tế cho ung thư biểu mô tuyến giáp thể tủy
7 p |
2 |
1
-
Khảo sát giá trị phương pháp tế bào học, sinh thiết tức thì trong chẩn đoán ung thư tuyến giáp dạng nhú
9 p |
8 |
1
-
Nghiên cứu giá trị của siêu âm trong chẩn đoán hạch cổ di căn ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp
8 p |
23 |
1
-
Phẫu thuật tuyến giáp nạo hạch cổ trong điều trị ung thư tuyến giáp tại Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất tỉnh Đồng Nai
8 p |
3 |
1
-
Khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú và thể nang sau phẫu thuật cắt tuyến giáp tại Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2023
7 p |
1 |
1
-
Điều trị ung thư giáp trạng thể biệt hóa sau phẫu thuật bằng I131
4 p |
4 |
1
-
Phẫu thuật toàn bộ tuyến giáp trong điều trị ung thư
4 p |
3 |
1
-
Ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú chuyển dạng bất thục sản tại hạch di căn: Báo cáo một trường hợp và hồi cứu y văn
6 p |
2 |
1
-
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp thể biệt hóa kháng 131I tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
9 p |
2 |
0


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
