Lê Thị Hƣơng Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
118(04): 13 - 20<br />
<br />
VAI TRÕ CỦA CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ THỂ HIỆN<br />
CHỦ THỂ PHÁT NGÔN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN TUÂN<br />
Lê Thị Hƣơng Giang*<br />
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Qua việc khảo sát và phân loại các đơn vị đồng nghĩa đối với sự thể hiện chủ thể phát ngôn trong<br />
truyện ngắn của Nguyễn Tuân, ngƣời viết đã chỉ ra những giá trị của việc sử dụng các đơn vị đồng<br />
nghĩa; sự thể hiện vốn từ phong phú và khả năng sáng tạo những đơn vị ngôn ngữ của tác giả<br />
Nguyễn Tuân – một trong số các nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam, một bậc thầy về sử dụng<br />
ngôn ngữ.<br />
Từ khóa: đồng nghĩa , truyện ngắn, chủ thể phát ngôn, Nguyễn Tuân<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Đồng nghĩa là một hiện tƣợng có tính phổ<br />
quát trong tất cả các ngôn ngữ. Đồng nghĩa<br />
cung cấp cho ngƣời sử dụng ngôn ngữ khả<br />
năng lựa chọn phƣơng tiện biểu đạt để diễn tả<br />
một cách trung thành nhất tƣ tƣởng, tình cảm<br />
của mình trong ngững cảnh huống giao tiếp<br />
cụ thể.<br />
Nguyễn Tuân là một trong số các nhà văn<br />
xuất sắc của văn học Việt Nam. Tài hoa của<br />
Nguyễn Tuân biểu hiện trên nhiều mặt: sự<br />
uyên bác, năng lực sáng tạo độc đáo…trong<br />
đó phải kể đến tài hoa về dùng từ. “Đi trên<br />
con đƣờng nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Tuân<br />
đã trở thành ngƣời phát hiện, ngƣời khám phá<br />
những khả năng chƣa từng biết đến của tiếng<br />
Việt ta”[1, S.33]<br />
Việc tìm hiểu các đơn vị đồng nghĩa đối với<br />
sự thể hiện chủ thể phát ngôn trong truyện<br />
ngắn của Nguyễn Tuân sẽ là một cách tiếp<br />
cận mới trên phƣơng diện ngôn ngữ. Qua đó,<br />
ngƣời đọc sẽ hiểu rõ hơn những tâm tƣ, trăn<br />
trở mà tác giả đã kín đáo truyền thông điệp tới<br />
ngƣời đọc.<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
1. Từ ngữ đồng nghĩa là những đơn vị từ hoặc<br />
cụm từ có chức năng biểu thị cùng một đối<br />
tƣợng. Trong ngôn ngữ học hiện nay có sự<br />
phân biệt giữa đồng nghĩa và đồng sở chỉ.<br />
Tuy nhiên, trong bài viết này chúng tôi gọi<br />
chung các từ hoặc ngữ có một nét nghĩa nào<br />
đó đồng nhất là những từ ngữ đồng nghĩa<br />
*<br />
<br />
Tel: 0989 090076, Email: lehuonggiang.dhsptn@gmail.com<br />
<br />
hoặc đơn vị đồng nghĩa, bao gồm cả đồng<br />
nghĩa từ vựng và đồng nghĩa trong văn cảnh.<br />
2. Phân tích nội dung một văn bản, ta có thể<br />
xem xét văn bản đó trong mối quan hệ với đối<br />
tƣợng đƣợc phản ánh, với chủ thể phát ngôn<br />
và với đối tƣợng thụ ngôn. Bài viết này tìm<br />
hiểu vai trò của các từ ngữ đồng nghĩa trong<br />
các truyện ngắn của Nguyễn Tuân trƣớc Cách<br />
mạng, xét từ mối quan hệ giữa văn bản với<br />
chủ thể phát ngôn.<br />
Trong tác phẩm văn học, chủ thể phát ngôn<br />
gồm có nhân vật, ngƣời dẫn truyện và tác giả.<br />
Xét cho cùng, toàn bộ tác phẩm văn học là<br />
sản phẩm sáng tạo của nhà văn. Do đó, ngôn<br />
ngữ trong tác phẩm là ngôn ngữ nhà văn. Tuy<br />
nhiên, xét tƣơng quan nội tại của tác phẩm,<br />
ngƣời ta phân biệt ngôn ngữ ngƣời thuật<br />
truyện và ngôn ngữ nhân vật.<br />
3. Trong các truyện ngắn của Nguyễn Tuân,<br />
ta thấy có một số lƣợng lớn những đơn vị<br />
đồng nghĩa, thể hiện vốn từ phong phú và khả<br />
năng sáng tạo những đơn vị ngôn ngữ của tác<br />
giả. Thực tế cho thấy, mỗi khi sử dụng từ<br />
đồng nghĩa, nhà văn đã thực sự tạo đƣợc sự<br />
thay đổi giọng điệu của câu văn, đoạn văn và<br />
của toàn bộ tác phẩm. Đây cũng là con đƣờng<br />
để ngôn từ thực hiện chức năng thi học, chức<br />
năng siêu ngôn ngữ của mình.<br />
Hiện tƣợng từ ngữ đồng nghĩa trong văn<br />
Nguyễn Tuân xảy ra trong nội bộ ngôn ngữ<br />
ngƣời trần thuật, nội bộ ngôn ngữ của nhân vật.<br />
Với tƣ cách là một trong những phƣơng tiện<br />
bộc lộ tính cách nhân vật, các từ ngữ đồng<br />
nghĩa trong lời nhân vật và lời ngƣời trần<br />
13<br />
<br />
Lê Thị Hƣơng Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
thuật có vai trò tƣơng đối khác nhau. Vì vậy,<br />
ở đây chúng tôi tách ngôn ngữ ngƣời trần<br />
thuật và ngôn ngữ nhân vật ra làm hai đối<br />
tƣợng xem xét riêng.<br />
Từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ nhân vật<br />
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Tuân, ít<br />
những lời đối thoại trực tiếp, vì thế ngôn ngữ<br />
nhân vật ít xuất hiện. Tuy vậy, trong các tác<br />
phẩm, mỗi khi nhân vật phát ngôn đều thể hiện<br />
tính cách của mình. Và tính cách ấy một phần<br />
bộc lộ qua cách sử dụng từ ngữ đồng nghĩa.<br />
Các lƣợt lời của nhân vật trong truyện ngắn<br />
của Nguyễn Tuân thƣờng ngắn. Tuy nhiên,<br />
qua khảo sát, ta thấy trong các lời thoại của<br />
nhân vật xuất hiện nhiều từ ngữ đồng nghĩa.<br />
Các từ ngữ đồng nghĩa này đã giúp cho nhà<br />
văn thể hiện những dụng ý khác nhau.<br />
Nhân vật trong các phẩm của Nguyễn Tuân<br />
thƣờng là nhân vật tài hoa: chặt đầu giỏi,<br />
uống trà giỏi, thả thơ, đánh thơ giỏi. Tất cả<br />
đều đạt trình độ nghệ sĩ. Do đó, trong nói<br />
năng họ cũng là những ngƣời khéo léo, lịch<br />
sự văn hoa. Nét tính cách văn hoa lịch sự ấy<br />
biểu hiện qua cách xƣng hô theo những quan<br />
hệ khác nhau giữa các nhân vật. Viên quan<br />
phủ gọi lý trƣởng khi thì thầy, khi thì chú, khi<br />
thì anh. Mỗi cách xƣng hô đều có động cơ và<br />
ý đồ riêng.<br />
Trước hết các từ ngữ đồng nghĩa xuất hiện<br />
trong lời nói của nhân vật đã góp phần khắc<br />
họa đặc điểm của nhân vật.<br />
Ví dụ, Trong “Những chiếc ấm đất” cùng chỉ<br />
khái niệm “ăn” nhƣng nhà sƣ nói là “thụ”:<br />
“Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi,<br />
sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ<br />
một ít lộc phật”. Còn cô gái (không phải là<br />
sƣ) đã đáp lại nhà sƣ theo cách nói của ngƣời<br />
ngoại đạo:<br />
-Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà còn lửng dạ<br />
ạ”.[9,tr.41]<br />
Thụ và ăn là cặp đồng nghĩa nhƣng xuất hiện<br />
trong lời nhân vật chẳng những góp phần<br />
khắc họa đặc điểm nhân vật một là nhà sƣ và<br />
một là con trai cụ Sáu - ngƣời phàm trần mà<br />
còn có giá trị giải thích nghĩa cho nhau, bổ<br />
sung nghĩa cho nhau.<br />
14<br />
<br />
118(04): 13 - 20<br />
<br />
- Hiện tƣợng một nhân vật đƣợc các nhân vật<br />
khác xƣng hô bằng những từ khác nhau: ông/<br />
anh; tiên sinh/ công tử… chứng tỏ các nhân<br />
vật là những ngƣời lịch thiệp.<br />
Ví dụ: “Thầy làm việc quan nhƣ thế hỏng to.<br />
Đừng nói chi đến chuyện nay mai thầy mong<br />
đƣợc nhà nƣớc cho tƣởng lục hay là mong<br />
điền vào chân chánh phó tổng khuyết. Nếu<br />
anh không thay đổi cách làm việc thì cái triện<br />
lí trƣởng của anh cũng khó mà giắt cho đƣợc<br />
lâu đâu. Việc dân trong làng uống rƣợu mà<br />
thầy lại mù tịt nhƣ vậy, thì chết thật. Thầy làm<br />
việc không đƣợc quá mẫn tiệp quá rõ rồi. Nếu<br />
ta không thƣơng anh, đem một việc này mà<br />
bẩm tỉnh thì liệu anh còn giữ đƣợc đồng triện<br />
không? ”[9, tr.9].<br />
Trong “Những chiếc ấm đất”, Nguyễn Tuân<br />
viết: “Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích<br />
quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, kêu to lên:<br />
- Giá cái lão ăn mày ấy sinh vào thời này, thì<br />
tôi mời anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối<br />
có nhau mà thƣởng thức trà ngon. Nhà, phần<br />
nhiều lại toàn ấm song ấm quý”.[9, tr.46].<br />
Qua các dẫn chứng trên ta thấy Nguyễn Tuân<br />
đã đặt vào lời nhân vật những cách xƣng hô<br />
bằng những từ ngữ khác nhau, ngay trong<br />
cùng một lƣợt lời ngay cả khi tự xƣng (tức<br />
quy chiếu vào ngôi thứ nhất) khi hô (tức quy<br />
chiếu vào ngôi thứ hai) và khi nói tới ngƣời<br />
thứ ba (quy chiếu vào ngƣời đƣợc nói tới<br />
trong cuộc thoại). Nhƣ vậy chứng tỏ Nguyễn<br />
Tuân đã rất có ý thức sử dụng từ ngữ đồng<br />
nghĩa - đây chính là phƣơng tiện để tác giả<br />
bày tỏ thái độ, lập trƣờng của mình đối với<br />
con ngƣời và cảnh vật, giúp ngƣời đọc nhận<br />
ra các thông điệp hàm ẩn của tác phẩm.<br />
Bát Lê trong “Bữa rượu máu” đã tự xƣng<br />
bằng những từ ngữ khác nhau khi trả lời quan<br />
Đổng lý quân vụ:<br />
“Dạ bẩm ông lớn đã thƣơng đến phận tôi tớ,<br />
chúng con xin hết sức ra công chó ngựa.<br />
Nhƣng bây giờ con đã già yếu lắm, không<br />
biết có còn làm đƣợc việc nhƣ hồi xƣa nữa<br />
không ”…[9,tr.36]<br />
Ngoài các từ xƣng hô linh hoạt bằng các từ<br />
đồng nghĩa, trong lời thoại của nhân vật, ta<br />
thấy các nhân vật trong truyện ngắn còn dùng<br />
nhiều các từ ngữ đồng nghĩa biểu thị nhiều sự<br />
vật hiện tƣợng.<br />
<br />
Lê Thị Hƣơng Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Đây là lời ông huyện Thạch Thành nói với<br />
vợ: “Không chiều bề trên thì họ bảo mình<br />
ngạo, không làm vừa lòng bạn thì họ bảo ăn ở<br />
không có tình”.<br />
Chiều và làm vừa lòng là hai đơn vị cùng<br />
nghĩa: nói và làm theo ý của ngƣời khác. Sử<br />
dụng cặp đồng nghĩa này, tài sử dụng ngôn<br />
ngữ của nhân vật đã bộc lộ.<br />
Hay lời quan phủ nói với thầy lý: “Thầy nên<br />
coi chừng đến công việc của thầy và sự hành<br />
động phi pháp của dân làng. Trách nhiệm của<br />
thầy nặng lắm đó! Thầy giữ việc làng thay<br />
thầy lý trƣớc (bị chết một cách rất thê thảm và<br />
chẳng vinh dự gì) trong khi thừa hành công<br />
vụ, chắc thầy rõ phận sự của thầy lúc này,<br />
hơn ai hết thảy”.<br />
Đôi khi hiện tượng xưng hô bằng những từ<br />
đồng nghĩa còn thể hiện sự diễn biến trong<br />
tâm trạng của nhân vật.<br />
Ví dụ: Trong “Mười năm trời mới gặp nhau,<br />
nhân vật Cầu dùng hai từ xƣng hô đồng nghĩa<br />
để nói với Đạm:<br />
“Và chỉ trong giây lát đủ thời giờ để cái nắm<br />
tay lên trán và bỏ tay xuống, ông đã vồn vã<br />
trả lời:<br />
- Ông Đạm? Anh Đạm?”<br />
Từ ông chuyển sang anh, các từ xƣng hô đã<br />
thể hiện sự chuyển biến tâm lý diễn ra trong<br />
con ngƣời Cầu: Từ chỗ nhìn Đạm nhƣ một<br />
ngƣời xa lạ, xƣng hô theo lối lịch sự xã giao<br />
vì chƣa nhận ra là ngƣời thân quen, chuyển<br />
sang lối xƣng hô thân mật khi nhận ra trƣớc<br />
mặt mình là bạn thân từ thuở trƣớc.<br />
Có khi dùng cách xưng hô đồng nghĩa,<br />
nhân vật đã thực hiện ý đồ chiến thuật giao<br />
tiếp nhằm đạt mục đích của mình.<br />
Ví dụ: “Thầy làm việc quan nhƣ thế hỏng,<br />
hỏng to. Đừng nói chi đến chuyện nay mai<br />
thầy mong đƣợc nhà nƣớc cho tƣởng lục hay<br />
là mong đƣợc điền vào chân chánh phó tổng<br />
khuyết. Nếu anh không thay đổi cách làm<br />
việc thì cái triện lý trƣởng của anh cũng khó<br />
mà giắt cho đƣợc lâu đâu. Việc dân trong làng<br />
uống rƣợu mà thầy mù tịt nhƣ vậy, thì chết<br />
thật. Thầy làm việc không đƣợc mẫn tiệp quá<br />
rõ rồi. Nếu ta không thƣơng anh, đem một<br />
việc này mà bẩm tỉnh thì liệu anh có còn giữ<br />
đƣợc đồng triện không”[9, tr.9].<br />
<br />
118(04): 13 - 20<br />
<br />
Trong lƣợt lời này, quan phủ đã gọi lí trƣởng<br />
bằng thầy và anh. Đây không phải chỉ là sự<br />
thay đổi từ ngữ cho lời văn linh hoạt, sinh<br />
động; mà là sự thay đổi cách xƣng hô nhằm<br />
thể hiện chiến thuật “vừa đánh vừa xoa” của<br />
quan phủ. Quan phủ đã một mặt đặt lí trƣởng<br />
vào địa vị xã hội để quy trách nhiệm nhằm đe<br />
dọa, mặt khác quan phủ lại dùng tình thân ái<br />
cá nhân để thƣơng tình, để kéo lí trƣởng về<br />
phía mình mà cùng nhau trấn áp kẻ nấu rƣợu<br />
lậu. Đặt các từ ngữ đồng nghĩa (đồng quy<br />
chiếu) vào trong lời nhân vật, Nguyễn Tuân<br />
đã để cho nhân vật tự bộc lộ động cơ phát<br />
ngôn của nó. Nhờ vậy tác giả không cần một<br />
lời bình nào vẫn bày tỏ thái độ phê phán đối<br />
với thủ đoạn của quan phủ.<br />
Trong Chữ người tử tù, Huấn Cao lúc đầu đã<br />
nói với viên quan ngục bằng từ xƣng hô tỏ<br />
thái độ trịch thƣợng, coi thƣờng:<br />
“- Ngươi hỏi ta muốn gì? ta chỉ muốn một điều.<br />
Là nhà ngươi đừng có đặt chân đến đây”.<br />
Nhƣng về sau khi đã “cảm cái tấm lòng biệt<br />
nhỡn liên tài “ của viên quản ngục, Huấn Cao<br />
lại gọi viên quản ngục bằng thầy quản và coi<br />
quản ngục là “ một tấm lòng trong thiên hạ”.<br />
Bằng cách đặt vào lời các nhân vật những từ<br />
ngữ xƣng hô khác nhau, tác giả kín đáo thể<br />
hiện sự thay đổi về nhận thức và thái độ của<br />
Huấn Cao với viên quản ngục. Sự thay đổi ấy<br />
nói lên rằng trong con ngƣời Huấn Cao trƣớc<br />
sau vẫn “lành vững” một chủ nghĩa tôn thờ<br />
cái đẹp, trân trọng từng “chút ánh sáng của<br />
con tâm còn thơm sạch”; mà biết tôn trọng cái<br />
đẹp là một con ngƣời đẹp.<br />
Tóm lại, qua những lời thoại của các nhân vật<br />
ta thấy các nhân vật trong truyện ngắn của<br />
Nguyễn Tuân vừa lịch sự, văn hoa, vừa khôn<br />
khéo trong thể hiện ý đồ giao tiếp. Đồng thời,<br />
từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ nhân vật<br />
đã đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng tiện thể<br />
hiện nội tâm và tính cách nhân vật. Có thể nói<br />
rằng, những từ ngữ đồng nghĩa đã giúp cho tƣ<br />
duy của độc giả từ lĩnh hội nội dung bề mặt<br />
của diễn ngôn mà suy ra chiều sâu hàm ẩn của<br />
văn bản nghệ thuật. Các từ ngữ đồng nghĩa<br />
đƣợc tác giả sử dụng đã tạo nên các thông tin bổ<br />
sung khiến cho tƣ duy ngƣời đọc vƣợt ra khỏi<br />
văn bản, tri nhận những “ý tại ngôn ngoại”.<br />
15<br />
<br />
Lê Thị Hƣơng Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Từ ngữ đồng nghĩa trong lời người trần thuật<br />
Lời người trần thuật (còn gọi là ngôn ngữ<br />
ngƣời trần thuật) là phần lời trong tác phẩm<br />
dùng để miêu tả và thể hiện thái độ đối với<br />
mảng cuộc sống đƣợc dựng lên trong tác<br />
phẩm. Thật ra trong lý luận văn học, tác giả<br />
và ngƣời trần thuật trong tác phẩm không<br />
phải là đồng nhất. Tuy vậy, trong bài này<br />
chúng tôi thấy không cần thiết phân biệt, nên<br />
tạm thời coi ngôn ngữ của ngƣời trần thuật và<br />
ngôn ngữ tác giả là một.<br />
Lời ngƣời trần thuật là phƣơng tiện chủ yếu<br />
của tự sự và thể hiện tập trung phong cách<br />
ngôn ngữ của nhà văn.<br />
Trong sáng tác, nhà văn phải xử lí một loạt<br />
các nhân tố liên quan đến quá trình sáng tác<br />
sao cho tạo đƣợc hình thức ngôn ngữ phù hợp<br />
với nội dung và có hiệu lực cao với ngƣời<br />
đọc. Và điều đó góp phần tạo nên dấu ấn<br />
phong cách nhà văn. Khrapchenko nói: Đặc<br />
thù của việc miêu tả nhân vật, sự kiện, những<br />
hoàn cảnh thuộc về những đặc điểm có tính<br />
chất quyết định của phong cách cá nhân”.<br />
Theo đó, ta có thể nói: việc sử dung các từ<br />
ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ ngƣời trần<br />
thuật là một trong những yếu tố của phong<br />
cách ngôn ngữ tác giả.<br />
Phương tiện ngôn ngữ đồng nghĩa trong lời<br />
người trần thuật<br />
Trong các truyện ngắn của mình, với tƣ cách<br />
là ngƣời trần thuật, Nguyễn Tuân đã sử dụng<br />
vốn từ ngữ phong phú và linh hoạt. Cùng một<br />
con ngƣời, một sự việc, hành động... ông gọi<br />
tên bằng những từ ngữ khác nhau, qua đó,<br />
khắc họa những đặc điểm khác nhau của đối<br />
tƣợng đƣợc nói đến và biểu lộ những quan<br />
niệm và thái độ khác nhau trƣớc thực tế đƣợc<br />
phản ánh. Hầu nhƣ mỗi con ngƣời, mỗi sự vật<br />
đều đƣợc Nguyễn Tuân gọi bằng những từ<br />
ngữ đồng nghĩa khác nhau. Bao trùm lên tất<br />
cả , thông qua việc sử dụng các từ ngữ đồng<br />
nghĩa ta nhận ra một sự tìm tòi sáng tạo và sự<br />
uyên bác của nhà văn.<br />
Ví dụ, trong “Vƣờn xuân lan tạ”, có những<br />
dãy đồng nghĩa nhƣ sau:<br />
- Các từ ngữ chỉ ngƣời (không tính sự lặp lại):<br />
+ công tử, tiểu sinh, cậu ấm.<br />
16<br />
<br />
118(04): 13 - 20<br />
<br />
+ con gái, tiện nữ, cô chiêu, ngƣời ngọc,<br />
ngƣời giai nhân<br />
+ bạn già, ngƣời cố hữu.<br />
+ chủ nhân, quan án Trần, ông chủ...<br />
+ đám mục đồng, tụi trẻ<br />
- Các từ ngữ đồng nghĩa chỉ sự vật:<br />
+ hoa, huê, lan, cỏ quý, cái hƣơng trời...<br />
+ hoa viên, lan viên, lan trang<br />
+ hỏa, lửa<br />
Việc sử dụng nhiều từ ngữ đồng nghĩa trong<br />
ngôn ngữ của ngƣời trần thuật đã tạo nên<br />
những hiệu quả khác nhau.<br />
Trƣớc hết, các từ ngữ đồng nghĩa trong<br />
ngôn ngữ người trần thuật thể hiện tình<br />
cảm thái độ của tác giả đối với đối tượng<br />
được trần thuật. Ví dụ: Trong “Chữ người tử<br />
tù”, việc công khai bênh vực một tên tử tù là<br />
một điều khó, xét về mặt chính trị. Tránh bộc<br />
lộ công khai, lộ liễu lập trƣờng của mình (kỵ<br />
lộ) là yêu cầu nghệ thuật, nhƣng cuối cùng<br />
khuynh hƣớng tƣ tƣởng của tác phẩm lại cần<br />
phải rõ ràng. Đó là những mâu thuẫn, những<br />
khó khăn của nhà văn. Việc sử dụng các từ<br />
đồng nghĩa mang màu sắc tu từ là một thủ<br />
pháp giúp nhà văn thoát khỏi những mâu<br />
thuẫn đó... “Những đƣờng nhăn nheo của bộ<br />
mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ<br />
chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín<br />
đáo và nhẹ êm”[9, tr86].<br />
Cặp đồng nghĩa: mặt tư lự - mặt nước ao<br />
xuân đã giúp cho tác giả kín đáo tỏ thái độ<br />
của mình đối với viên quan ngục. Nó cũng là<br />
dấu hiệu gợi mở cho độc giả phát hiện phẩm<br />
chất một con ngƣời “còn lập lòe chút ánh<br />
sáng của con tâm còn thơm sạch”. Đoạn văn<br />
sau đây sử dụng những từ ngữ đồng nghĩa<br />
một cách đắc địa cho sự bộc lộ tƣ tƣởng của<br />
mình: “Trong hoàn cảnh đề lao, ngƣời ta sống<br />
với nhau bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính<br />
cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết<br />
trọng người ngay của viên quản ngục là một<br />
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản<br />
đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Ông<br />
trời nhiều khi hay chơi ác đem đầy ải những<br />
cái thuần khiết vào một đống cặn bã. Và<br />
những ngƣời có tâm điền tốt và thẳng thắn lại<br />
phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt” [9.tr86].<br />
<br />
Lê Thị Hƣơng Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Dãy đồng nghĩa: tàn nhẫn- lừa lọc- hỗn độn<br />
xô bồ- lũ quay quắt- đống cặn bà tƣơng phản<br />
với dãy đồng nghĩa: lòng biết giá người - biết<br />
trong người ngay - âm thanh trong trẻo - tâm<br />
điền tốt- thắng thắn.<br />
Ở đây ta thấy tác giả đã sử dụng một dãy<br />
đồng nghĩa này tƣơng phản với một dãy đồng<br />
nghĩa khác, nhƣ vẽ lên hai mảng sáng tối,<br />
trắng đen của một bức tranh, làm toát lên lập<br />
trƣờng của tác giả: ngợi ca, trân trọng cái tốt<br />
đẹp và phê phán, lên án cái xấu xa, tàn ác.<br />
Vậy là hình ảnh một con ngƣời tài hoa với<br />
tâm hồn đẹp đẽ của quá khứ hiện về trong<br />
một hiện tại đen tối, hỗn loạn.<br />
Từ ngữ đồng nghĩa trong ngôn ngữ người<br />
trần thuật thể hiện cách nhìn khác nhau về<br />
đối tượng được nói tới. Điều này thể hiện<br />
trƣớc hết định danh các nhân vật. Cùng một<br />
nhân vật ngƣời trần thuật gọi tên bằng những<br />
từ ngữ khác nhau. Xin nêu một trƣờng hợp<br />
làm ví dụ:<br />
Bát Lê trong “Bữa rƣợu máu” là ngƣời có<br />
“nghệ thuật” “chém treo ngành”, trong lời trần<br />
thuật của tác giả đƣợc gọi bằng các tên gọi: lão<br />
Lê, tên đầy tớ, Bát Lê, ông Bát phẩm Lê.<br />
Lão Lê là cụm từ gọi tên nhân vật, khi tác giả<br />
giới thiệu nhân vật thông qua cái nhìn của<br />
Đổng Lý quân vụ, khi ông này đến nhà tìm<br />
ông ta. Nguyễn Tuân gọi nhân vật này bằng<br />
lão vì có ý nói rằng đó là một ngƣời già, đã về<br />
nghỉ. Cách gọi Lão Lê chỉ đƣợc dùng một lần<br />
trong tác phẩm, vì có chức năng giới thiệu<br />
đặc điểm tuổi già của nhân vật, sau khi gi;í<br />
thiệu xong tác giả không dùng lại.<br />
Tên đầy tớ là cụm từ dùng để chỉ Bát Lê,<br />
cũng chỉ xuất hiện trong ngôn ngữ ngƣời trần<br />
thuật trong tác phẩm một lần. Đó là tác giả<br />
trần thuật việc quan đổng lý hất hàm hỏi Bát<br />
Lê, Bát Lê đƣợc đặt vào trong mối quan hệ<br />
với Quan Đổng lý. Hình thức định danh này<br />
có tác dụng xác lập quan hệ giữa hai nhân vật:<br />
“Quan đổng lý quân vụ ngả mình trên chiếc<br />
ghế bành son, hất hàm hỏi tên đầy tớ già bát<br />
phẩm đang thu bé mãi ngƣời trên chiếc<br />
cột”.[9,tr35]<br />
Ông Bát Phẩm Lê đƣợc dùng một lần khi kể<br />
về việc Bát Lê chọn chỗ tập lại những động<br />
<br />
118(04): 13 - 20<br />
<br />
tác chém treo ngành. Tác giả gọi nhân vật<br />
bằng ông kèm theo cả cái chức danh, phẩm<br />
hàm và cả tên thật , tác giả đã nhìn nhận nhân<br />
vật từ góc độ “thâm niên nghề nghiệp” và ca<br />
ngợi cái tính cẩn thận của nhân vật.<br />
Bát Lê là cách gọi nhân vật đƣợc sử dụng 21<br />
lần. Đây là cách xƣng hô đƣơng thời: ngƣời ta<br />
gọi nhau bằng cách gắn tên với chức danh<br />
hoặc phẩm hàm chức nghiệp. Trong những<br />
đoạn trần thuật về Bát Lê luyện tập đƣờng<br />
kiếm chuẩn bị cho “cuộc thí nghiệm sau cùng<br />
của một đƣờng dao bị bỏ quên lâu ngày”, tác<br />
giả đã cố ý làm cho việc miêu tả khách quan<br />
hóa. Ngƣời trần thuật đã đứng ở ngôi thứ ba<br />
gọi tên nhân vật theo cách xƣng hô thông<br />
thƣờng của thời đại, làm cho sự trần thuật trở<br />
nên khách quan.<br />
Trong ngôn ngữ của ngƣời trần thuật, có<br />
những đoạn tả sự vật, hiện tƣợng khách quan<br />
thông qua con mắt và tâm trạng của nhân vật.<br />
Những từ ngữ đồng nghĩa xuất hiện trong<br />
những đoạn văn miêu tả cái khách quan này<br />
lại gián tiếp khắc họa đặc điểm, tính cách<br />
nhân vật. Ví dụ: trong “Chén trà sương” có<br />
đoạn: “Cụ ấm phẩy quạt nan phành phạch<br />
theo một nhịp nhanh chóng trƣớc cửa hỏa lò.<br />
Hòn than tàu lép bép nổ, nghe vui tai. Và làm<br />
vui cho cả mắt mữa, những tàn lửa không có<br />
trật tự, không bó buộc kia còn vẽ lên một<br />
khoảng không những nét lửa ngoằn ngoèo.<br />
(...) Những hòn than tàu cháy đều, màu đỏ<br />
ửng, có những tia lửa xanh lè vờn quanh.<br />
Không khí mỗi lúc dao động càng dâng cao<br />
thêm những ngọn lửa xanh nhấp nhô. Hòn lửa<br />
rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tƣơi và<br />
trong suốt nhƣ thỏi vàng thổi chảy.[9,tr.101].<br />
Những từ ngữ đồng nghĩa trong đoạn này,<br />
một mặt đã tả một cách cụ thể, sinh động<br />
những hòn than cháy trong lò. Mặt khác cách<br />
tả bằng những từ ngữ đồng nghĩa sắc thái hóa<br />
ấy thể hiện nhân vật Cụ ấm là ngƣời có óc<br />
quan sát tinh tế, chứng tỏ đó là ngƣời đã lâu<br />
năm gắn bó với thú vui tao nhã uống trà mạn.<br />
Nói một cách khác, xét về phƣơng diện chủ<br />
thể phát ngôn, các từ ngữ đồng nghĩa đƣợc sử<br />
dụng trong đoạn trích dẫn trên thể hiện đƣợc<br />
nhiệt tình ca ngợi (hoặc thái độ phê phán)<br />
nhân vật đƣợc miêu tả.<br />
17<br />
<br />