TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
XÁC ĐỊNH NỒNG ĐỘ ỨC CHẾ TỐI THIỂU<br />
CỦA TIGECYCLINE VỚI MỘT SỐ CHỦNG VI KHUẨN PHÂN LẬP<br />
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI<br />
Phạm Hồng Nhung1,2, Nguyễn Thị Ánh1, Nguyễn Vân Thu3<br />
1<br />
<br />
Trường Đại học Y Hà Nội; 2Khoa Vi sinh, Bệnh viện Bạch Mai, 3Đại học Y Thái Nguyên<br />
<br />
Tigecycline là kháng sinh nhóm glycylcycline mới, có hoạt phổ rộng mới được chấp thuận cho điều trị.<br />
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định nồng độ ức chế tối thiểu của tigecycline với một số chủng vi<br />
khuẩn thuộc các loài S. aureus, Enterococcus spp., S. agalactiae, E. coli, K. pneumoniae, Enterobacter spp.<br />
và Serratia phân lập tại Bệnh viện Bạch Mai bằng phương pháp vi pha loãng. Thử nghiệm cho thấy<br />
S. agalactiae đều đề kháng với tigecycline (MIC90 = 4 µg/ml). S. aureus và Enterococcus đều nhạy cảm với<br />
tigecycline với MIC90 = 0,25 µg/ml. Các chủng Enterobacteriaceae có MIC phân bố từ 0,12 đến > 8 µg/ml,<br />
có một tỷ lệ nhỏ các chủng đã đề kháng với tigecycline. Hiệu quả in vitro của tigecycline thể hiện tốt trên các<br />
chủng MRSA (Methicillin-resistant Staphylococcus aureus) nhưng không có hiệu quả khác biệt so với amikacin hoặc meropenem trên các chủng Enterobacteriaceae. Tigecycline có thể là một lựa chọn mới cho điều<br />
trị nhiễm trùng ổ bụng và nhiễm trùng da và mô mềm.<br />
Từ khoá: tigecycline, MIC (Minimum inhibitory concentration)<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Xu hướng đề kháng kháng sinh ngày càng<br />
trở thành một vấn đề toàn cầu hoá do sự gia<br />
tăng ngày càng nhiều các chủng vi khuẩn đề<br />
kháng ở mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là<br />
ở các nước đang và chậm phát triển. Trong<br />
hơn một thập kỷ qua, rất ít thuốc kháng sinh<br />
mới có hiệu quả được ra đời, càng làm cho<br />
gánh nặng về bệnh tật cũng như gánh nặng<br />
kinh tế trở nên nan giải. Đã, đang và sẽ ngày<br />
càng xuất hiện nhiều các chủng vi khuẩn toàn<br />
kháng với các thuốc kháng sinh hiện có [1]. Tổ<br />
chức Y tế Thế giới đã đưa ra cảnh báo về tình<br />
trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn có thể đe<br />
doạ thế giới sẽ rơi vào kỷ nguyên như thời kỳ<br />
tiền kháng sinh [2].<br />
Tigecycline là kháng sinh thuộc nhóm<br />
<br />
glycylcycline đầu tiên, một dẫn xuất của minocycline, được Cục quản lý Thực phẩm và<br />
Dược phẩm Hoa Kỳ công nhận và đưa vào sử<br />
dụng rất lâu, sau gần 30 năm kể từ khi minocycline có mặt trên thị trường. Đây là một<br />
kháng sinh phổ rộng có tác dụng trên các<br />
chủng vi khuẩn hiếu khí gram dương, gram<br />
âm; vi khuẩn kỵ khí và tác nhân gây bệnh đa<br />
kháng thuốc như Staphylococcus aureus<br />
kháng methicillin (MRSA – Methicillin-resistant<br />
Staphylococcus aureus), Enterococcus kháng<br />
vancomycin, Streptococcus pneumoniae đa<br />
kháng,<br />
<br />
các<br />
<br />
Enterobacetriaceae<br />
<br />
sinh<br />
<br />
β-<br />
<br />
lactamase phổ rộng và trên cả các chủng<br />
Acinetobacter baumannii đa kháng [1; 3]. Hoạt<br />
tính kháng sinh tigecycline nói chung được<br />
xem như là kìm khuẩn như các kháng sinh<br />
thuộc nhóm tetracycline, nhưng tigecycline đã<br />
<br />
Địa chỉ liên hệ: Phạm Hồng Nhung, Bộ môn Vi sinh,<br />
Trường Đại học Y Hà Nội<br />
Email: hongnhung@hmu.edu.vn<br />
Ngày nhận: 28/5/2018<br />
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018<br />
<br />
10<br />
<br />
chứng tỏ hoạt tính diệt khuẩn đáng kể trên các<br />
chủng Haemophillus influenzae, Escherichia<br />
coli, Staphylococcus aureus [2]. Nhiều bác sĩ<br />
vi sinh cũng như bác sĩ lâm sàng cho rằng các<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
50<br />
<br />
chủng<br />
<br />
thuốc nhóm tetracycline không tốt bằng các<br />
<br />
Streptococcus<br />
<br />
thuốc nhóm β-lactam, aminoglycoside hay<br />
<br />
cherichia coli (ESBLs và non - ESBLs), 46<br />
<br />
nhóm quinolone. Tuy nhiên, tigecycline có<br />
<br />
chủng Enterobacter spp., 20 chủng Serratia<br />
<br />
hoạt tính tương tự như imipenem trong điều trị<br />
<br />
spp. và 50 chủng Klebsiella spp. (ESBLs và<br />
<br />
các nhiễm trùng ổ bụng và như vancomycin<br />
<br />
non - ESBLs) là các căn nguyên thường gặp<br />
<br />
phối hợp với aztreonam trong điều trị các<br />
<br />
gây nhiễm trùng ổ bụng, nhiễm trùng da và<br />
<br />
nhiễm trùng da và mô mềm [2]. Tigecycline<br />
<br />
mô mềm.<br />
<br />
đang là thuốc được khuyến cáo sử dụng điều<br />
trị các chủng vi khuẩn đa kháng, điều trị theo<br />
kinh nghiệm cho các trường hợp nhiễm trùng<br />
da, mô mềm và nhiễm trùng ổ bụng.<br />
Ở Việt Nam, cho tới nay, chưa có nghiên<br />
cứu nào đánh giá mức độ nhạy cảm với<br />
tigecycline. Từ năm 2015, tại Bệnh viện Bạch<br />
Mai, các bác sỹ lâm sàng đã bắt đầu sử dụng<br />
<br />
agalactiae,<br />
<br />
Es-<br />
<br />
2. Phương pháp<br />
Sử dụng phương pháp vi pha loãng<br />
(Microscan plate của Beckman Coulter) xác<br />
định MIC theo hướng dẫn của Viện chuẩn<br />
thức về lâm sàng và xét nghiệm Mỹ [4]. Kết<br />
quả được phiên giải theo tiêu chuẩn của EUCAST [5].<br />
<br />
tigecycline để điều trị những nhiễm trùng nặng<br />
<br />
3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu<br />
<br />
và nhiễm trùng do chủng vi khuẩn đa kháng.<br />
<br />
Nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Vi<br />
<br />
Để đánh giá xu hướng nhạy cảm, đề<br />
kháng của vi khuẩn thường gây nhiễm trùng<br />
bệnh viện và cộng đồng hiện nay, đối với<br />
kháng sinh đang được sử dụng và cập nhật<br />
tình trạng nhạy cảm của tigecycline ở Bệnh<br />
viện Bạch Mai, góp phần xây dựng hướng dẫn<br />
điều trị bệnh lý nhiễm khuẩn, đem lại hiệu quả<br />
điều trị tốt hơn, chúng tôi tiến hành nghiên<br />
<br />
sinh, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2016 đến<br />
tháng12/2016.<br />
4. Đạo đức nghiên cứu<br />
Nghiên cứu được tiến hành trên các chủng<br />
vi khuẩn, không can thiệp đến bệnh nhân. Kết<br />
quả nghiên cứu mang lại dữ liệu về phân bố<br />
các giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC -<br />
<br />
cứu này với hai mục tiêu:<br />
<br />
Minimum inhibitory concentration) của các<br />
<br />
1. Xác định nồng độ ức chế tối thiểu của<br />
tigecycline với một số chủng vi khuẩn phân<br />
<br />
hiệu quả của kháng sinh mới tigecycline.<br />
<br />
lập được ở Bệnh viện Bạch Mai, năm 2015 2016.<br />
2. So sánh hiệu quả in vitro của tigecycline<br />
<br />
chủng vi khuẩn gây bệnh là cơ sở để đánh giá<br />
<br />
III. KẾT QUẢ<br />
1. Phân bố các chủng vi khuẩn Gram<br />
<br />
với các kháng sinh khác trên các chủng vi<br />
khuẩn thử nghiệm.<br />
<br />
dương theo giá trị MIC của tigecycline<br />
<br />
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
<br />
cus thử nghiệm đều nhạy cảm với tigecycline<br />
<br />
Tất cả các chủng S. aureus và Enterococvới MIC90 đều bằng 0,25 µg/ml. Ngược lại, tất<br />
<br />
1. Đối tượng<br />
<br />
cả các chủng S. agalactiae đều đề kháng với<br />
<br />
263 chủng gồm 29 chủng Enterococcus,<br />
<br />
tigecycline với MIC90-- khá cao (4 µg/ml) (biểu<br />
<br />
50 chủng Staphylococcus aureus, 17 chủng<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
đồ 1).<br />
<br />
11<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
C<br />
<br />
Biểu đồ 1. Phân bố các chủng S. aureus (A), Enterococcus spp. (B) và S. agalactiae (C)<br />
theo giá trị MIC của tigecycline<br />
2. Phân bố các chủng Enterobacteriaceae theo giá trị MIC của tigecycline<br />
<br />
Biểu đồ 2. Phân bố các chủng Enterobacteriaceae theo giá trị MIC của tigecycline<br />
12<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
Cả 4 loài vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae đều đã xuất hiện các chủng đề kháng với<br />
tigecycline. Trong đó, K. pneumoniae có số lượng chủng giảm nhạy cảm cao nhất với MIC90 bằng<br />
2 µg/ml, đúng bằng với điểm gãy đề kháng. Nồng độ ức chế tối thiểu của các chủng E. coli còn<br />
khá thấp, chủ yếu là các chủng có MIC90 ≤ 0,12 µg/ml.<br />
3. Hiệu quả in vitro của tigecycline so sánh với một số kháng sinh với các loài vi khuẩn<br />
Bảng 1. Hiệu quả in vitro của tigecycline so sánh với một số kháng sinh với S. aureus<br />
Oxacillin<br />
<br />
Tigecycline<br />
<br />
Vancomycin<br />
<br />
Linezolid<br />
<br />
S<br />
<br />
R<br />
<br />
S<br />
<br />
R<br />
<br />
S<br />
<br />
R<br />
<br />
S<br />
<br />
25<br />
<br />
25<br />
<br />
50<br />
<br />
0<br />
<br />
50<br />
<br />
0<br />
<br />
R<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
Không có chủng S. aureus đề kháng với tigecycline, kể cả các chủng MRSA.<br />
Bảng 2. Hiệu quả in vitro của tigecycline so sánh với một số kháng sinh<br />
với K. pneumoniae<br />
<br />
Tigecycline<br />
<br />
Meropenem<br />
<br />
Amikacin<br />
<br />
Levofloxaxin<br />
<br />
S<br />
<br />
R<br />
<br />
S<br />
<br />
R<br />
<br />
S<br />
<br />
R<br />
<br />
S<br />
<br />
31<br />
<br />
4<br />
<br />
32<br />
<br />
3<br />
<br />
25<br />
<br />
10<br />
<br />
R<br />
<br />
11<br />
<br />
4<br />
<br />
12<br />
<br />
3<br />
<br />
1<br />
<br />
14<br />
<br />
p<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
< 0,05<br />
<br />
Hiệu quả thử nghiệm in vitro giữa tigecycline so với meropenem và amikacin trên các chủng<br />
K. pneumoniae không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa<br />
thống kê khi so sánh với levofloxacin.<br />
<br />
IV. BÀN LUẬN<br />
Tigecycline là một lựa chọn mới cho điều<br />
<br />
Enterococcus nghiên cứu có kết quả nhạy<br />
<br />
trị nhiễm trùng da, mô mềm và nhiễm trùng ổ<br />
<br />
cảm với tigecycline) [6]. Trong số các chủng<br />
<br />
bụng, đặc biệt là cho các trường hợp các<br />
<br />
Enterococcus được thử nghiệm, có cả các<br />
<br />
chủng vi khuẩn đa kháng thuốc như MRSA,<br />
<br />
chủng đã đề kháng với vancomycin và<br />
<br />
VRE, E. coli, K. pneumoniae sinh ESBL. Các<br />
<br />
linezolid nhưng kết quả vẫn nhạy cảm với<br />
<br />
chủng Enterococcus đều còn rất nhạy cảm với<br />
<br />
tigecycline. Điều này cho thấy kết quả điều trị<br />
<br />
tigecycline, chưa thấy có chủng đề kháng tige-<br />
<br />
Enterococcus bằng tigecycline là khá khả<br />
<br />
cycline. Kết quả này tương đương với nghiên<br />
<br />
quan. Tất cả các chủng S. aureus bao gồm cả<br />
<br />
cứu của Tsai HY tại Đài Loan trong khoảng<br />
<br />
các chủng MRSA đều nhạy cảm tốt với<br />
<br />
thời gian 2006 - 2010 (98,6% số chủng<br />
<br />
tigecycline ở các giá trị MIC còn thấp (MIC50<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />
13<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
và MIC90 lần lượt là 0,12 và 0,25 µg/ml). Thực<br />
<br />
= 1 µg/ml). Rất có thể khi đưa tigecycline vào<br />
<br />
tế hiện nay, hầu hết các chủng S. aureus gây<br />
<br />
sử dụng rộng rãi trên lâm sàng, sẽ nhanh<br />
<br />
nhiễm trùng bệnh viện đều không chỉ đề<br />
<br />
chóng xuất hiện các chủng đề kháng thuốc.<br />
<br />
kháng với oxacillin mà còn đa kháng với nhiều<br />
<br />
Do vậy, vấn đề sử dụng tigecycline cho điều<br />
<br />
loại kháng sinh khác. Vancomycin là một trong<br />
<br />
trị các nhiễm trùng do Serratia nên được cân<br />
<br />
những kháng sinh cuối cùng còn hiệu quả<br />
<br />
nhắc cẩn thận. K. pneumoniae có mức độ<br />
<br />
được chỉ định điều trị cho các trường hợp<br />
<br />
nhạy cảm với tigecycline kém nhất trong số<br />
<br />
MRSA. Tuy nhiên, việc sử dụng rộng rãi<br />
<br />
các chủng Enterobacteriaceae được thử<br />
<br />
kháng sinh này có thể dẫn đến nguy cơ xuất<br />
<br />
nghiệm. MIC90 của các chủng K. pneumoniae<br />
<br />
hiện<br />
<br />
kháng<br />
<br />
là 4 µg/ml, là giá trị nằm trong phân bố MIC đề<br />
<br />
vancomycin. Những báo cáo về các ca bệnh<br />
<br />
kháng. Nếu so sánh hiệu quả in vitro của tige-<br />
<br />
nhiễm trùng do MRSA kháng linezolid và<br />
<br />
cycline với meropenem hoặc với amikacin trên<br />
<br />
vancomycin đã cho thấy rõ tầm quan trọng<br />
<br />
các chủng K. pneumoniae thì không thấy sự<br />
<br />
của việc tìm thêm các kháng sinh mới, ví dụ<br />
<br />
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)<br />
<br />
như tigecycline để có thể điều trị được cho<br />
<br />
nhưng có tác dụng vượt trội có ý nghĩa thống<br />
<br />
các chủng đề kháng cao [7; 8]. Các chủng<br />
<br />
kê hơn levefloxacin (p < 0,05). Điều trị các<br />
<br />
Enterococcus hay S. aureus đều có giá trị MIC<br />
<br />
nhiễm trùng do các chủng Enterobacteriaceae<br />
<br />
thấp và phân bố khá xa so với điểm gãy nhạy<br />
<br />
đa kháng vẫn là một thách thức cho các bác sĩ<br />
<br />
cảm, trong khi các chủng S. agalactiae đều đề<br />
<br />
lâm sàng. Tỷ lệ các chủng Enterobacteri-<br />
<br />
kháng với tigecycline và các giá trị MIC đều<br />
<br />
aceae, đặc biệt là K. pneumoniae đa kháng<br />
<br />
các<br />
<br />
chủng<br />
<br />
S.<br />
<br />
aureus<br />
<br />
đề<br />
<br />
khá cao (chủ yếu là 4 µg/ml). Cho đến nay,<br />
chưa có chủng S. agalactiae được phát hiện<br />
đề kháng với penicillin nên penicillin vẫn là lựa<br />
chọn hàng đầu cho điều trị các nhiễm trùng<br />
hay điều trị dự phòng nhiễm S. agalactiae.<br />
Tuy nhiên, khi bệnh nhân có tiền sử dị ứng với<br />
penicillin, các kháng sinh khác sẽ được thay<br />
thế lựa chọn, nhưng với kết quả nghiên cứu<br />
này thì tigecycline không phải là thuốc có thể<br />
sử dụng điều trị thay thế cho penicillin cho các<br />
trường hợp nhiễm S. agalactiae.<br />
<br />
đang gia tăng nhanh làm giới hạn đáng kể các<br />
lựa chọn cho điều trị [9; 10]. Hiện nay, tigecycline mới chỉ được FDA thông qua cho chỉ<br />
định điều trị các nhiễm trùng ổ bụng, nhiễm<br />
trùng da và mô mềm và viêm phổi mắc phải<br />
tại cộng đồng [11].<br />
Các nhiễm trùng do Enterobacteriaceae<br />
hay gặp là các nhiễm khuẩn huyết và nhiễm<br />
khuẩn tiết niệu khi được sử dụng tigecycline<br />
để điều trị đều là các chỉ định điều chưa được<br />
chấp thuận. So sánh với các kháng sinh phổ<br />
<br />
Các chủng E. coli và Enterobacter mặc dù<br />
<br />
rộng hiện có trên thị trường như meropenem,<br />
amikacin hay levofloxacin thì hoạt tính của<br />
<br />
có một tỷ lệ nhỏ đề kháng với tigecycline<br />
<br />
tigecycline không vượt trội hơn mà phổ chỉ<br />
<br />
nhưng đa số đều nhạy cảm với tigecylcine ở<br />
<br />
định điều trị lại hẹp hơn, nên có thể thấy tigecycline mặc dù là một kháng sinh mới nhưng<br />
<br />
giá trị MIC thấp (MIC90 lần lượt = 0,5 và 1 µg/<br />
ml). Các chủng Serratia chỉ có một chủng đề<br />
kháng trung gian với tigecycline, nhưng hầu<br />
hết các chủng đều có giá trị MIC bằng với<br />
điểm gãy phiên giải nhạy cảm (MIC90 = MIC50<br />
<br />
14<br />
<br />
không hẳn đã là một lựa chọn tốt hơn các<br />
kháng sinh hiện có. Mà nó như là thêm một<br />
lựa chọn cho các nhiễm trùng do các trực<br />
khuẩn Gram âm đa kháng.<br />
<br />
TCNCYH 113 (4) - 2018<br />
<br />