intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng nền giáo dục thực học, thực nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

bài viết "Xây dựng nền giáo dục thực học, thực nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" đề cập đến tầm quan trọng của nền giáo dục thực học, thực nghiệp và đề xuất một số khuyến nghị để xây dựng nền giáo dục thực học, thực nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng nền giáo dục thực học, thực nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

  1. XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC HỌC, THỰC NGHIỆP Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ThS. Nguyễn Thị Hương* 1 Tóm tắt: Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã được thông qua với mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Bài viết đề cập đến tầm quan trọng của nền giáo dục thực học, thực nghiệp và đề xuất một số khuyến nghị để xây dựng nền giáo dục thực học, thực nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Giáo dục, thực học, thực nghiệm. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày 04 tháng 11 năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, BCH T.W khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Với định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Đảng ta khẳng định: “(1) Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; (2) Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”. Nghị quyết cũng xác định những điểm hết sức quan trọng: (3) Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. (4) Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học vàcông nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục * Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây.
  2. 334 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. (5) Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. (6) Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo. (7) Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước [3]. Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với mục tiêu tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Chủ trương này thể hiện sự nhận thức đúng đắn và nhất quán của Đảng ta trong quá trình đổi mới về vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo. Trong xu thế hội nhập, xuất phát từ nhu cầu của đời sống xã hội cũng như tuân theo quy luật khách quan, Đảng đã chỉ đạo và định hướng xây dựng một nền giáo dục hiện đại, thực học, thực nghiệp đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước. II. NỘI DUNG 2.1. Tầm quan trọng của nền giáo dục thực học, thực nghiệp Thực học, thực nghiệp là người dạy và người học hiểu đúng mục đích của việc dạy và học; Như vậy, thực học trước hết là học có mục đích, có tư duy, là học cho mình, học có chất lượng thật, học để có nghề thực sự và hành nghề tốt- để thực nghiệp; kết quả thi, kiểm tra phản ánh đúng, thực chất chất lượng giáo dục. Người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục, sau khi tốt nghiệp có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để sống và làm việc. Xét về phương diện nội dung, xây dựng nền giáo dục thực học là nền giáo dục dạy người ta tri thức, kỹ năng, phẩm chất, đạo đức, tạo ra năng lực thực, tức những gì mà
  3. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 335 người học có thể dùng nó cho công việc, cho mưu sinh, cho đời, cho đất nước.  Thực học là tránh việc học những cái ra đời không dùng vào việc gì, còn cái cần cho việc thì không được học. Thực học ở đây với nghĩa là nền giáo dục thiết thực, hữu dụng, có thực chất, giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn chặt với đời sống. Thực học được hiểu là nền giáo dục luôn đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, với mục tiêu hình thành và phát triển năng lực thực tiễn cho người học. Thực học gắn liền với thực nghiệp. Thực học, thực nghiệp là phải gắn đào tạo với thực tế. Kiến thức trên giảng đường chỉ là nền tảng khoa học, thường lạc hậu hơn so với công nghệ. Trong thời đại công nghệ 4.0, sinh viên cần chủ động tiếp cận môi trường làm việc trong tương lai, vận dụng những lí thuyết đã học vào quan sát và làm việc thực tế. Sinh viên được trải nghiệm thực tế, nắm vững kiến thức chuyên ngành, mở rộng quan hệ xã hội và tạo tiền đề cho nghề nghiệp tương lai. Hiện nay không ít nhà tuyển dụng khi tuyển người, ngay kể cả khi sinh viên vừa tốt nghiệp ĐH, CĐ đã đòi hỏi phải có kinh nghiệm làm việc, có kĩ năng tác nghiệp. Các tổ chức, doanh nghiệp thường chú trọng đến các ứng viên thực nghiệp như thế nào trong môi trường thực tế. Vì thế, hiện nay hầu hết sinh viên ngoài việc học chuyên ngành chính, có thể chọn thêm những môn học để trang bị kiến thức, kĩ năng khác như ngoại ngữ, kế toán, lái xe, giao tiếp… sẵn sàng cho môi trường công việc đầy cạnh tranh. Dường như ý tưởng này phù hợp với mô hình giáo dục khai phóng, năng lực làm việc của con người càng trở nên hiệu quả khi phát huy tính sáng tạo cao nhất và thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi công nghệ, cũng như sự biến đổi nhanh chóng trong xã hội. Để sinh viên sau khi ra trường đáp ứng được yêu cầu của các công ty giáo dục, doanh nghiệp, đặc biệt là tránh hiện tượng mất cân đối về cung - cầu nhân lực chất lượng cao, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương cũng như cơ chế khuyến khích các trường đại học, cơ sở đào tạo liên kết với doanh nghiệp ngay từ khâu đào tạo, nghiên cứu khoa học. Một bộ phận doanh nghiệp đã chủ động liên kết với các cơ sở đào tạo để tìm kiếm nhân lực, “đặt hàng” nhân lực chất lượng cao từ phía cơ sở đào tạo và có những động thái thiết thực để đồng hành cùng nhà trường trong quá trình đào tạo. Về phía các cơ sở đào tạo, đã gắn kết chặt chẽ công tác đào tạo với việc làm, tuyển sinh với tuyển dụng thông qua ký kết hợp tác đào tạo, hội chợ việc làm với các doanh nghiệp… nhằm mang đến cơ hội tự tạo việc làm, xây dựng bản lĩnh cho sinh viên của mình. Trong những năm gần đây, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây đã mời các chuyên gia ngôn ngữ từ tổ chức giáo dục Language Link Việt Nam tham gia giảng dạy một số học phần cho sinh viên chuyên ngữ của Khoa Ngoại ngữ. Ngoài ra, nhà trường còn liên kết công tác đào tạo với Công ty Victoria, Công ty Samsung Electronics Việt Nam, Công ty Cổ phần Phát triển giáo dục quốc tế Đăng Khoa, không chỉ dừng lại ở vấn đề tìm chỗ thực hành cho sinh viên, mà còn hướng tới việc giúp sinh viên có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp.
  4. 336 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Ban Giám hiệu Nhà trường, Lãnh đạo phòng Đào tạo và Quản lý khoa học, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngoại ngữ - Tin học cùng các thầy cô giáo, đại diện Công ty CP Phát triển Giáo dục quốc tế Đăng Khoa chụp ảnh lưu niệm (Ảnh tác giả bài viết cung cấp). 2.2. Những giải pháp xây dựng nền giáo dục thực học, thực nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Thực hiện Nghị quyết TW 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Tại Hội nghị TW8 khóa XI, nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã được thông qua với mục tiêu chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, trong đó nêu chín giải pháp đổi mới giáo dục toàn diện. Từ chín giải pháp mang tính định hướng, xin đề xuất một số khuyến nghị nhằm tạo sự chuyển đổi nền giáo dục theo hướng thực chất, xây dựng nền giáo dục thực học, thực nghiệp.
  5. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 337 Thứ nhất, xây dựng triết lý giáo dục cho nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay, đồng thời mỗi cơ sở giáo dục, mỗi trường đại học cũng cần có triết lý giáo dục riêng phù hợp với tôn chỉ, mục đích của nền giáo dục. Một số ý kiến cho rằng “Triết lý giáo dục vốn được xem là kim chỉ nam trong toàn bộ hoạt động giáo dục được xây dựng trên 4 trụ cột chính là đối tượng, mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục”. [1]. Một trong những khái niệm được nhiều người biết: “Triết lý là hệ thống tư tưởng của con người nghiên cứu đời sống của con người và vũ trụ mà con người đang sống”  và “Triết lý giáo dục là ấn định lập trường, phương pháp, mục đích của một nền giáo dục cụ thể như dạy cái gì, phương pháp dạy như thế nào dạy để làm gì, đào tạo ra con người nhân bản hay đào tạo ra người thợ làm việc như cái máy. Như vậy triết lý giáo dục là ấn định nội dung phương pháp mục đích để định hướng một nền giáo dục.” [2] Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình, mục tiêu và phương pháp dạy học các cấp, xem xét điều chỉnh rà soát lại nội dung dạy và học, dạy cái thiết thực, cái thực nghiệp, giảm và tiến tới bỏ hẳn cái hình thức, phù phiếm, vô bổ. Về phương pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên cứu. Sử dụng phương pháp để sao cho người học tiếp thu tốt nhất, thích học, biết học để làm gì, học ngành nghề phù hợp với năng lực sở trường của mình, học để biết, học để làm việc, học để phát triển phẩm chất năng lực bản thân chứ không phải vì điểm số, không phải học chỉ để thi, học để có bằng cấp chứng chỉ. + Đối với giáo dục phổ thông: Chú trọng dạy người, biết tu dưỡng, sống có chí hướng, có đạo đức, dạy kiến thức cơ bản, khả năng tự thích ứng và phát triển bản thân. + Đối với giáo dục đại học: Nội dung chương trình và giáo trình cần được tổ chức xây dựng và triển khai theo hướng mở (cho phép cập nhật thường xuyên về kiến thức trong và ngoài nước, sử dụng giáo trình, học liệu trong nước hoặc ngoài nước một cách linh hoạt để giảng dạy cho người học); Từ khâu xây dựng chương trình, tới thiết kế chuẩn đầu ra, tới đặt từng môn học phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học đang theo đuổi. Các trường không chỉ dạy những gì mình có mà phải bám sát nhu cầu của thị trường lao động, mặt khác bắt buộc phải tạo được nền tảng nghiên cứu xứng đáng mang danh ĐH. Học đi đôi với hành, thực tập thực tế cho đầy đủ, thực chất, lấy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo làm nền tảng để tạo ra chất lượng. Từ khi Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo ra đời cho tới nay, ngành Giáo dục đã rất tích cực triển khai đổi mới ở nhiều mặt và giáo dục Việt Nam qua 5 lần cải cách, đổi mới dường như mới chỉ tập trung vào giáo dục phổ
  6. 338 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP thông. Còn khâu cuối cùng quyết định chất lượng nguồn nhân lực lao động cho xã hội đó là đại học, cao đẳng và dạy nghề thì chưa được quan tâm đúng mức. Theo GS. Nguyễn Minh Thuyết, cần cho các trường đại học công lập tự chủ hơn và kiểm định chất lượng đầu ra của giáo dục đại học. Bộ hiện nay vẫn quá tập trung vào kiểm định chất lượng đầu vào, trong khi đó chính kiểm soát chất lượng đầu ra mới đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục đại học cũng phải có sự sàng lọc. Tuy nhiên, đã có chuẩn đầu ra thì phải có kiểm định chất lượng. Thứ ba, xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp được coi là nhiệm vụ trọng tâm. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội, phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất – kỹ thuật, phòng thí nghiệm, phương tiện dạy và học đầy đủ, hiện đại để có thể tạo ra chất lượng giáo dục tốt nhất cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thứ tư, cần đổi mới quy trình máy móc và cứng nhắc trong tuyển dụng đã và đang diễn ra trong thời gian dài. Trong khâu tuyển dụng, lựa chọn cán bộ, không nên chỉ chú trọng bằng cấp mà hãy đánh giá trên tất cả các năng lực cụ thể cần có cho công việc, chức danh dự kiến. Một thực tế xã hội rất quan trọng đang trực tiếp triệt tiêu động lực của việc thực học chính là việc nhiều đơn vị và tổ chức tuyển người, dùng người, đánh giá người còn dựa trên bằng cấp mà chưa chú ý đến trình độ thực chất. Nói cách khác, việc làm cho người học phải học thực, thi thực, thì một phần quan trọng lại nằm ở phía sử dụng sản phẩm đầu ra của giáo dục, đó là việc dùng người, tuyển người, đánh giá người. Nếu tuyển người chỉ dựa trên giấy tờ, theo quan hệ và bị chi phối bởi các yếu tố không thực chất, thì người học sẽ có xu hướng chỉ lo sao cho đẹp hồ sơ, chuẩn các điều kiện, mà không lo phần thực chất. Nếu việc tuyển người, dùng người, đánh giá người theo năng lực thật, ai có tài năng thực được trọng dụng, được đánh giá đúng... thì khi đó học sinh trong nhà trường sẽ đua nhau mà học thật, thi thật. Dùng người chỉ căn cứ theo năng lực, theo phẩm chất thật, thì việc dạy và học sẽ chuyển động theo một cách nhanh chóng. Học thật thi thật trước hết và luôn luôn là việc của ngành giáo dục, nhưng cũng là của toàn xã hội. 3. KẾT LUẬN Để xây dựng được nền giáo dục thực chất, thực học, thực nghiệp, tự ngành Giáo dục phải hành động quyết liệt, có sự thay đổi, chuyển mình rất lớn từ trong tư duy, từ trong thói quen đã hình thành nhiều năm nay được định hình bởi quan điểm xã hội. Dẫu còn nhiều khó khăn, thử thách trước mắt nhưng với những định hướng đúng đắn về đổi mới giáo dục của Đảng, Nhà nước; sự quyết tâm của đội ngũ cán bộ, giáo viên trong ngành Giáo dục, để có được sự chuyển đổi lớn theo hướng thực chất trong
  7. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 339 giáo dục, có rất rất nhiều việc phải làm. Một số khuyến nghị được kì vọng nhằm tạo sự chuyển đổi nền giáo dục theo hướng thực học, thực nghiệp: xây dựng triết lý giáo dục cho nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay; đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình, mục tiêu và phương pháp dạy học các cấp; xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; đổi mới quy trình tuyển dụng. Mặc dù tác giả đã rất cố gắng nhưng bài viết chắc chắn còn có những hạn chế, thiếu sót, rất mong bạn đọc và các đồng nghiệp đóng góp ý kiến. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ thơm, “Xã hội đã chờ đợi đủ lâu cho một triết lý giáo dục đúng tầm”, http://giaoduc.net.vn. 2. https://vn.answers.yahoo.com. 3. Văn phòng Trung ương Đảng (2013) Văn kiện hội nghị lần thứ 8 của BCHTW khóa XI (Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2