intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

 Vai trò của thức ăn tự nhiên trong nuôi thủy sản

Chia sẻ: Oceanus75 Oceanus75 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

177
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vai trò của thức ăn tự nhiên trong nuôi thủy sản by C.ty UVVN | Vai tro cua thuc an tu nhien trong nuoi thuy san Thức ăn tự nhiên rất cần thiết và quan trọng đối với cá con từ giai đoạn phát triển cá bột lên cá giống do kích thước và giá trị dinh dưỡng thích hợp của chúng. Tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên làm thức ăn cho cá con bằng cách bón phân gây màu nước trước khi thả giống sẽ giúp gia tăng chất lượng cá giống và năng suất cá nuôi....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text:  Vai trò của thức ăn tự nhiên trong nuôi thủy sản

  1. 1  2  3  4  Vai trò của thức ăn tự 5  nhiên trong nuôi thủy 6  sản 7 
  2. 1  Vai trò của thức ăn tự nhiên trong nuôi thủy sản by C.ty UVVN | Vai tro cua 2  thuc an tu nhien trong nuoi thuy san 3  Thức ăn tự nhiên rất cần thiết và quan trọng đối với cá con từ giai đoạn phát 4  triển cá bột lên cá giống do kích thước và giá trị dinh dưỡng thích hợp của 5  chúng. Tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên làm thức ăn cho cá con bằng cách 6  bón phân gây màu nước trước khi thả giống sẽ giúp gia tăng chất lượng cá 7  giống và năng suất cá nuôi. 8  I. Vai trò của thức ăn tự nhiên trong nuôi thủy sản 9  - Thức ăn tự nhiên, bao gồm thực vật phù du và động vật phù du, chúng đóng 10  vai trò rất quan trọng trong lưới thức ăn của thủy vực tự nhiên và góp phần 11  đáng kể vào việc cân bằng sinh thái của thủy vực. Ngoài ra, các nhóm sinh vật 12  này còn được sử dụng làm sinh vật chỉ thị cho môi trường nước. 13  - Trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt ở giai đoạn phát triển từ ấu trùng/cá bột 14  lên cá giống, thức ăn tự nhiên là thành phần không thể thiếu được của rất 15  nhiều loài cá, giáp xác và thân mềm nước ngọt và lợ, mặn. Ở giai đoạn này, 16  ấu trùng/cá bột rất nhỏ (kích thước miệng nhỏ), chưa phát triển hoàn chỉnh 17  các cơ quan cảm giác (như mắt, xúc giác, cơ quan đường bên) và hệ tiêu hóa 18  chưa hoàn chỉnh là những yếu tố hạn chế việc chọn lựa và sử dụng thức ăn 19  thích hợp trong suốt thời kỳ bắt đầu ăn thức ăn ngoài. 20  - Kích cỡ miệng của cá bột lúc bắt đầu ăn thức ăn ngoài giới hạn kích thước 21  hạt thức ăn vừa với miệng (có thể ăn vào được). Nhìn chung, kích cỡ miệng 22  có liên quan với kích thước cơ thể và phụ thuộc vào đường kính trứng, thời 23  gian dinh dưỡng bằng noãn hoàng. 24  - Tình tạng phát triển của ống tiêu hóa ở cá bột bắt đầu dinh dưỡng ngoài 25  cũng thể hiện khả năng có thể hay không thể tiêu hóa những thức ăn của cá. Ở 26  một số loài cá ống tiêu hóa đã phát triển với hệ thống enzym chức năng cho
  3. 1  phép tiêu hóa các mảnh vụn thức ăn khi mới bắt đầu ăn. Ngược lại, ở một số 2  loài, cá bột không có dạ dày chức năng nhưng chỉ có ống tiêu hóa ngắn với 3  một ít hệ enzym chức năng vào lúc mới bắt đầu ăn ngoài. Do vậy, các loài cá 4  bột này sẽ phải phụ thuộc vào nguồn thức ăn: (1) dễ tiêu hóa (thức ăn phải 5  chứa lượng lớn acid amin tự do và oligopeptide thay vì các phân tử protein 6  phức khó tiêu hóa), (2) chứa hệ enzym chức năng cho phép sự thủy phân (tự 7  phân hủy hạt thức ăn), và (3) cung cấp đầy đủ tất cả các chất dinh dưỡng cần 8  thiết đòi hỏi bởi cá bột. 9  - Thức ăn nhân tạo thường không đáp ứng được các nhu cầu này và thường 10  dẫn đến tăng trưởng chậm và tỉ lệ sống thấp ở một số loài cá. Trong khi đó, 11  thức ăn tự nhiên hầu như đáp ứng tất cả các tiêu chí cần thiết của cá ở gian 12  đoạn này. Tuy nhiên, để cá có thể bắt được thức ăn, trước hết nó phải được 13  phát hiện và vì thế mức độ phát triển của các cơ quan cảm giác như cơ quan 14  tiếp nhận ánh sáng (mắt), tiếp nhận hóa học (cơ quan khứu giác, nụ vị giác) 15  và tiếp nhận cơ học (đường bên) là yếu tố quyết định. Ví dụ như mắt của cá 16  bột thường chỉ có tế bào hình nón trong võng mạc làm cho khả năng nhìn 17  kém, trong khi đó mắt của cá giống có tế bào hình que với nhiều sắc tố thị 18  giác trong võng mạc. Hơn nữa, sinh vật thức ăn tự nhiên thường có mức 19  tương phản tốt hơn thức ăn nhân tạo và nói chung có tác động kích thích do 20  sự chuyển động liên tục giúp tăng khả năng nhận biết bởi cá bột. Tương tự, 21  hoạt động bơi lội của sinh vật thức ăn tự nhiên thường đảm bảo sự phân bố 22  thức ăn đều trong tầng nước, tăng cơ hội bắt gặp thức ăn của cá bột đang 23  trong giai đoạn phát triển với khả năng di chuyển chậm chạp. 24  - Trong các ao nuôi thủy sản, khẩu phần ăn tự nhiên của hầu hết các loài cá, 25  giáp xác và thân mềm rất đa dạng bao gồm nhiều loài tảo khác nhau (tảo 26  khuê, tảo lục, tảo có roi…) và các nhóm động vật phù du (luân trùng, giáp xác 27  râu ngành, giáp xác chân chèo, ấu trùng mười chân….). Đối với các thủy vực
  4. 1  nước ngọt, luân trùng (nhất là giống Brachionus) và trứng nước (giống 2  Moina) là các nhóm thức ăn tự nhiên chiếm mật độ cao và là nguồn thức ăn 3  quan trọng của cá ở giai đoạn sau khi nở. 4  II. Một số loài thức ăn phổ biến 5  1. Tảo 6  Tảo là mắt xích đầu tiên trong chuỗi thức ăn của thủy vực và là nguồn thức ăn 7  rất quan trọng đối với các giai đoạn đầu của nhiều loài cá, giáp xác và hai 8  mảnh vỏ. Hiện nay có trên 40 loài tảo khác nhau đã được phân lập và gây 9  nuôi trên thế giới, trong đó một số giống loài được sử dụng rất phổ biến trong 10  sản xuất giống các đối tượng hải sản bao gồm tảo khuê Skeletonema 11  costatum, Thalassiosira pseudonana, Chaetoceros gracilis, C. calcitrans, tảo 12  có roi Isochrysis galbana, Tetraselmis suecica, Monochrysis lutheri và tảo lục 13  Chlorella spp. 14  15  2. Luân trùng (Rotifera) 16  Với các đặc điểm như kích thước nhỏ (100-500µm), bơi lội chậm, chịu đựng 17  tốt các yếu tố môi trường, tốc độ sinh sản nhanh, luân trùng trở thành một 18  trong những loại thức ăn tự nhiên ban đầu quan trọng của nhiều loài tôm, cá
  5. 1  khác nhau. Luân trùng nước lợ Brachionus plicatilis được sử dụng ở giai đoạn 2  đầu của trên 70 loài cá biển và 18 loài giáp xác. Rất nhiều tác giả đã chứng 3  minh rằng giới hạn trong sản xuất và ương giống của nhiều loài tôm, cá phần 4  lớn liên quan đến việc hạn chế nguồn luân trùng. Luân trùng nước ngọt 5  Brachionus angularis là thành phần thức ăn quan trọng cho các loài cá bột 6  nước ngọt như cá bống tượng, thát lát… Kết quả nghiên cứu trên cá bột bống 7  tượng từ 1-10 ngày tuổi cho thấy nếu cá được cho ăn luân trùng (B. angularis) 8  thì tỉ lệ sống cao hơn đáng kể (35%) so với cho ăn bột đậu nành và lòng đỏ 9  trứng (19%) (Trương Ngô Bích Ngọc, 2010). 10  11  3. Trứng nước (Moina sp.) 12  Trứng nước thuộc nhóm giáp xác râu ngành (Cladocera) là thành phần động 13  vật phù du chủ yếu trong các ao nuôi thủy sản nước ngọt. Trứng nước được 14  sử dụng phổ biến trong ương nuôi rất nhiều loài cá khác nhau ở giai đoạn từ 15  cá hương lên cá giống như cá trê, cá tra, cá lóc, cá rô… Trong ao mật độ 16  trứng nước thường cao hơn ngoài thủy vực nước chảy, nhất là ở các ao được 17  bón phân trước đó. 18  4. Giáp xác chân chèo (Copepoda) 19  Giáp xác chân chèo trong môi trường nước mặn phần lớn là các giống loài 20  thuộc bộ Calanoida là thành phần thức ăn chủ yếu (>70%) trong ống tiêu hóa 21  của hầu hết các loài cá biển. Trong môi trường nước ngọt, các giống loài
  6. 1  thường gặp thuộc bộ Cyclopoida như Cyclops, Eucyclops… cũng là thành 2  phần thức ăn quan trọng cho cá con. 3  4  Bài viết đã được mua tác quyền, bất cứ hình thức sao chép nào đều phải có 5  trích dẫn nguồn: PGs.Ts. Vũ Ngọc Út – Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ. 6 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2