intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ấn tượng ban đầu trong giao tiếp

Chia sẻ: Vũ Đỗ Hồng Nhung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

723
lượt xem
124
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

1.Khái niệm giao tiếp. 1.1. Định nghĩa giao tiếp. Giao tiếp là một phương thức tồn tại cơ bản của con ngưới, do đó những nghiên cứu về giao tiếp rất đa dạng rất đa dạng và phong phú, bao trùm một phạm vi tương đối rộng, từ lý luận đến những nghiên cứu thực nghiệm, xuất phát từ nhiều quan điểm , quan niệm khác nhau. Dưới quan điểm của các nhà tâm lý học hoạt độngthì giao tiếp là một quá trình thiết lập và thực thi mối quan hệ giữa người và người và trong quá trình...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ấn tượng ban đầu trong giao tiếp

  1. Ấn tượng ban đầu trong giao tiếp 1.Khái niệm giao tiếp. 1.1. Định nghĩa giao tiếp. Giao tiếp là một phương thức tồn tại cơ bản của con ngưới, do đó những nghiên cứu về giao tiếp rất đa dạng rất đa dạng và phong phú, bao trùm một phạm vi tương đối rộng, từ lý luận đến những nghiên cứu thực nghiệm, xuất phát từ nhiều quan điểm , quan niệm khác nhau. Dưới quan điểm của các nhà tâm lý học hoạt độngthì giao tiếp là một quá trình thiết lập và thực thi mối quan hệ giữa người và người và trong quá trình đó thì con người sáng tạo lẫn nhau.[1] Như vậy, bất kỳ một hoạt động giao tiếp nào cũng là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể, trong giao tiếp mỗi người có động cơ của riêng mình, thông qua các công cụ phương tiện, con người nhận thứ được về nhau, về thế giới xung quanh, tác động qua lại lẫn nhau để sáng tạo ra nhau. Giao tiếp có bản chất xã hội, suy cho cùng, động cơ mục đích công cụ, phương tiện giao tiếp đều do xã hội quy định.
  2. Trong tâm lý học xã hội, giao tiếp là một dạng thức căn bản của hành vi con người, là “cơ chế để các liên hệ người tồn tại và phát triển.” (Cooley -1902) [146;3] , thông qua giao tiếp các cá nhân không chỉ chịu ảnh hưởng bởi các bối cảnh xã hội mà họ phản ứng lại, mà còn tác động lẫn nhau thường xuyên với những người khác được coi là người đối thoại. Trong các lý luận về giao tiếp xã hội, tồn tại một quan niệm khá phổ biến coi như giao tiếp như một quá trình thông tin, quá trình này bao gồm việc thực hiện và duy trì sự liên hệ giữa các cá nhân. Theo Osgood C.E, nhà tâm lý học xã hội người Mỹ thì giao tiếp bao gồm các hành động riêng lẻ nữa mà thực chất là chuyển giao thông tin và tiếp nhận thông tin. Ông cho rằng giao tiếp là một quá trình hai mặt: liên lạc và ảnh hưởng lẫn nhau (168, 3) Theo Sibutanhi (Mỹ) nghiên cứu liên lạc như một hoạt động mà nó chỉ định sự phối hợp lẫn nhau, và sự thích ứng hành vi của các cá thể tham gia vào quá trình giao tiếp: “Liên lạc trước hết là phương pháp hoạt động làm đơn giản hoá sự thích ứng hành vi lẫn nhau của con người. Những cử chỉ âm điệu khác nhau trở thành liên lạc, khi con người sử dụng vào các tình thế để tác động qua lại” [1463]
  3. Còn nhà xã hội học người Anh M.Argule mô tả quá trình ảnh hưởng mà né tránh được biểu hiện bằng những phương tiện giao tiếp (ngôn ngữ lời nói hay cử chỉ) từ nhiều người đến một người giống như một việc tiếp xúc thân thế của con người trong quá trình tác động qua lại về vật lý và dịch chuyển không gian”. Như vậy, có thể hiểu giao tiếp là một quá trình tiếp xúc và trao đổi thông tin, thông qua đó người ta tương tác lẫn nhau, làm tăng cường hay giảm bớt khả năng thích ứng hành vi lẫn nhau. 1.2. Đặc trưng của giao tiếp - Giao tiếp mang tính bản chất xã hội. Bản chất xã hội thể hiện ở chỗ bất cứ một giao tiếp nào cũng là một quan hệ xã hội, thông qua sự trao đổi, tiếp xúc giữa con người với con người. Qúa trình tiếp xúc này hình thành nên các chuẩn mực, các giá trị, các nhu cầu, lợi ích… của xã hội cũng như nhóm xã hội và cá nhân tham gia. Mặt khác mục đích, động cơ, phương tiện giao tiếp… của mỗi cá nhân cũng đều do xã hội quy định, chế ước. - Đặc trưng của giao tiếp xã hội là tính chủ thể trong giao tiếp. Quá trình giao tiếp được thực hiện bởi những cá nhân cụ thể. Họ là chủ thể của sự
  4. trao đổi hay tác động. Họ là các cặp chủ thể - đối tượng luôn đổi chỗ cho nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau, chính vì thế người ta nói giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, nó là một hoạt động mang cấu trúc kép. - Trong quá trình giao tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên cơ sở nhận thức người khác, theo cách này, họ có xu hướng tìm kiếm ở người khác để xem ý kiến của mình có đúng không, có được thừa nhận không. Trên cơ sở đó họ có sự điều khiển điều chỉnh hành vi của mình theo hướng tăng cường hoặc giảm bớt sự thích ứng lẫn nhau. - Thông qua giao tiếp xã hội, người ta trao đổi các kiến thức sự hiểu biết cho nhau, truyền đạt các kinh nghiệm riêng của cá nhân cũng như kinh nghiệm của loài người, như vậy thông qua giao tiếp con người nhận thức về nhau đồng thời nhận thức về xã hội, nâng cao hiểu biết, phát triển thêm nhân cách của mình. - Trong giao tiếp xã hội diễn ra các cơ chế của ảnh hưởng xã hội như bắt chước, lây lan, ám thị, thoả hiệp đồng nhất hoá, đặc biệt là sự lây lan, lan truyền cảm xúc tâm trạng. Thông qua các cơ chế đó các chủ thể giao tiếp tác động qua lại lẫn nhau chi phối ảnh hưởng lẫn nhau.
  5. 1.3. Chức năng của giao tiếp Giao tiếp có nhiều chức năng khác nhau, nhưng cơ bản nhất là các chức năng thông tin liên lạc, chức năng điều chỉnh điều khiển và chức năng kích động liên lạc. - Chức năng thông tin liên lạc: Chức năng này bao quát tất cả quá trình truyền nhận thông tin. Thông qua các phương tiên giao tiếp (ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ) mà thông tin được truyền từ nguồn này đến nguồn kia. ơ con người, bên cạnh giao tiếp phi ngôn ngữ, với sự tham gia của hệ thống tín hiệu thứ hai. Chức năng này được phát huy tối đa, có thể truyền đạt được mọi thông tin, phản ánh được sự vật hiện tượng hoặc cảm xúc tâm trạng… một cách rất phong phú đa dạng, vì mọi lĩnh vực, khía cạnh trongđời sống con người. - Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi: Chức năng này chỉ có ở con người với sự tham gia của qúa trình nhận thức, ý chí, tình cảm…Khi tiếp xúc trao đổi với nhau, các chủ thể giao tiếp đã hoặc đang ý thức được cả kết quả của quá trình giao tiếp. Để đạt được mục đích đề ra, chủ thể thường linh hoạt theo tình huống, thời cơ của mình để đạt hiệu quả một cách tối đa. Hơn thế nữa các cá nhân
  6. không chỉ điều chỉnh hành vi của mình mà còn có thể điều chỉnh được hành vi của người khác. Chức năng này thể hiện khía cạnh thích ứng hành vi lẫn nhau của các cá nhân trong quá trình giao tiếp. - Chức năng kích động liên lạc Chức năng này liên quan đến lĩnh vực cảm xúc của con người. Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ truyền tin cho nhau hay điều chỉnh tác động lẫn nhau, mà còn có yếu tố quan trọng là xác định trạng thái cảm xúc của con người. Các loại cảm xúc đặc trưng của con người, mức độ cũng thẳng của cảm xúc được xác định bởi các điều kiện giao tiếp mà trong các điều kiện đó sự làm chủ cảm xúc được thực hiện. Chính trong sự liên hệ với sự cần thiết thay đổi trạng thái cảm xúc của mình làm xuất hiện nhu cầu giao tiếp, kích động con người liên lạc với nhau. 1.4. Một số yếu tố tâm lý cần chú ý trong quá trình giao tiếp 1.4.1. Nhận thức trong giao tiếp - Trong giao tiếp các bên tham gia phải nhận thức về nhau. Trong giao tiếp mỗi chúng ta vừa là chủ thể, nhưng cũng vừa là khách thể của qúa
  7. trình nhận thức. - Trước hết là các chủ thể giao tiếp vừa quan sát tướng mạo, vẻ mặt… những đặc điểm bề ngoài, nội dung tư duy, tưởng tượng để suy xét, đánh giá, nhận định về đối tượng, từ đó phán đoán tình hình để lựa chọn phương án giao tiếp. 1.4.2. Tình cảm xúc cảm trong giao tiếp - Trên cơ sở của nhận thức cảm xúc và tình cảm được nảy sinh và biểu lộ trong giao tiếp giữa hai người. Những cảm xúc có thể là tích cực hoặc là tiêu cực, chúng có thể ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của các chủ thể trong quá trình giao tiếp. - Những xúc cảm dương tính (yêu thương, quý trọng) sẽ là cơ sở cho hai người nảy sinh nhu cầu gặp nhau giao tiếp với nhau lần nữa. Ngược lại những xúc cảm âm tính sẽ tạo ra sự khó chịu, ngại giao tiếp với nhau. 1.4.3. Trạng thái bản ngã trong quá trình giao tiếp Trong khi giao tiếp con người có thể thể hiện một trong ba trạng thái - Trạng thái bản ngã phụ mẫu: Đó là đặc trưng cá tính nhận biết đựơc quyền hạn và thế mạnh của mình và thể hiện sự lấn lướt trong khi giao tiếp. Nếu đối tượng là các cấp dưới có thể tăng thêm sự uy nghiêm
  8. nhưng nếu đối tượng giao tiếp là đồng nghiệp sẽ gây phản ứng bất mãn. - Trạng thái bản ngã thành niên: Đó là đặc trưng cá tính biết bình tĩnh và khách quan phân tích sự việc một cách có lý trí trong qúa trình giao tiếp. - Trạng thái bản ngã nhi đồng: Đó là đặc trưng cá tính hay xúc động và hành động theo sự xui khiến của tình cảm trong qúa trình giao tiếp. Những trạng thái bản ngã sẽ chi phối hiệu quả của quá trình giao tiếp. Trạng thái bản ngã thành niên là tốt nhất cho giao tiếp. 1.4.4. Kỹ xảo giao tiếp Là sự thành thục, điêu luyện những vấn đề kỹ thuật, hành vi, giao tiếp, kỹ xảo giao tiếp được coi là thành phần cơ bản nhất trong nghệ thuật giao tiếp, bao gồm sự thành thục trong việc sử dụng các phương tiện giao tiếp, sự hiểu biết sâu sắc những vấn đề tâm lý trong giao tiếp. Kỹ xảo giúp tuyên truyền đạt được hết những ý nghĩ thái độ của chủ thể, gây nên những ấn tượng tốt đẹp với đối tượng giao tiếp, nhưng nếu lạm dụng sẽ tạo cho đối phương cảm giác giả tạo, phản cảm. 1.4.5. Ấn tượng ban đầu trong giao tiếp Bên cạnh các yếu tố trên thì ấn tượng ban đầu trong giao tiếp có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giao tiếp về sau, nó có thể làm biến đổi
  9. cả thái độ, cả hành vi kỹ xảo của các chủ thể giao tiếp. Ấn tượng ban đầu tốt đẹp chính là chìa khoá thành công trong giai đoạn tiếp theo. 2. Khái niệm ấn tượng ban đầu 2.1. Định nghĩa ấn tượng ban đầu Trong qúa trình con người hoạt động và liên hệ với nhau thì nhận thức về nhau là một yếu tố vô cùng quan trọng. Con người nhận thức về nhau nhờ quá trình tri giác xã hội: họ quan sát, phân tích vẻ mặt, dáng điệu, lời ăn tiếng nói, hành động… của nhau, để từ đó mà nhận thức được người khác. Từ nhận thức đó mà chủ thể giao tiếp xác định những phương thức ứng xử của mình: cách xưng hô, thái độ, cử chỉ hành vi cho phù hợp với đối tượng. Kết quả của quá trình tri giác bị chi phối bởi nhiều yếu tố như ấn tượng ban đầu, sự quy gán hành vi, các định kiến định khuôn khác nhau trong mỗi cộng đồng, mỗi nền văn hoá. Nói chung, tri giác của chúng ta về người khác thường dựa vào sự tìm kiếm những ấn tượng phản ánh những đặc tính chủ yếu của nhân cách. Một khi những đặc tính này đã rõ ràng cho phép chúng ta giải thích khác nhau về đối tượng khiến nó phù hợp với những ấn tượng này [11;8]. Trong qúa trình tri giác đó thì những ấn tượng đầu tiên là rất quan trọng,
  10. nó thường hay kéo dài và chi phối thái độ hành vi của chúng ta trong suốt quá trình giao tiếp tiếp theo. Cũng có khá nhiều cách hiểu khác nhau về ấn tượng ban đầu. Bùi Tiến Quý cho rằng: ấn tượng ban đầu là cái mà “khi gặp nhau đồng thời người ta vừa nhận xét vừa đánh giá vừa có ác cảm hay thiện cảm ngay từ phút đầu tiên không chờ phải nghiên cứu, khảo sát hay thí nghiệm lại những đánh giá ấy”.[4 ] Hoặc một định nghĩa khác: “ấn tượng ban đấu thường là một đánh giá một hình ảnh, một nhận xét một thái độ về đối tượng được hình thành ngay từ phút đầu gặp gỡ hay lần đầu tiên gặp gỡ” [5] Hai định nghĩa này gần như tương tự nhau, đều chỉ ra nội dung cơ bản của ấn tượng ban đầu là sự “nhận xét”, “đánh giá” và “thái độ” của chủ thể đối với đối tượng, và điểm xuất phát của nó là “phút đầu gặp gỡ” hay “lần đầu tiên gặp gỡ” Cần phải xác định rõ ở đây ấn tượng ban đầu là ở “phút đầu gặp gỡ” hay “lần đầu tiên gặp gỡ”. Nếu hiểu ấn tượng ban đầu là ở “phút đầu gặp gỡ “thì có thể nói ở cuộc gặp gỡ nào cũng có, dù cho hai bên đã quen biết nhau từ lâu, gặp gỡ nhiều lần vẫn có những “ấn tượng của phút đầu gặp
  11. gỡ”, chẳng hạn khi bàn đến một lĩnh vực mới mà cả hai bên chưa từng bàn, hai bên sẽ có những ấn tượng mới mẻ về nhau, về sự am hiểu của nhau về lĩnh vực đó. Ở đây cần khẳng định ấn tượng ban đầu là cái đọng lại trong chủ thể về đối tượng sau lần đầu tiên gặp gỡ tiếp xúc với nhau. Với cách hiểu về ấn tượng ban đầu như thế thì định nghĩa của Nguyễn Thanh Hương có thể nói là hợp lý nhất: “ấn tượng về một người nào đó là hình ảnh tổng thể trên cơ sở ta nhìn nhận họ một cách toàn diện, quaviệc cảm nhận các biểu hiện như: diện mạo, lời nói, tác phong, ánh mắt, nụ cười, thái độ… . Sau lần tiếp xúc ban đầu, ta sẽ có một ấn tượng nhất định về đối tượng của mình” [257;3] 2.2. Đặc điểm của ấn tượng ban đầu - Đặc điểm nổi bật của ấn tượng ban đầu là nò có được sau lần tiếp xúc đầu tiên. Nghĩa là trong hoàn cảnh hai bên chưa hề quen nhau, chưa hề gặp gỡ nhau một lần nào cả, có thể đã có một số thông tin về nhau hoặc thậm chí chưa hề có một thông tin gì về nhau. Những thông tin này có được có thể thông qua bạn bè, từ những người xung quanh, đôi khi có những trường hợp hai bên đã biết khá rõ về nhau qua nghiên cứu hồ sơ. Trên cơ sở những thông tin ấy, họ sẽ dùng làm cơ sở để đánh giá phân
  12. tích tổng hợp về đối tượng. Vì là buổi tiếp xúc đầu tiên, thời gian chỉ giới hạn trong một buổi tiếp xúc mà chủ thể có những ấn tượng rõ nét hay mơ hồ về đối tượng. - Ấn tượng ban đầu là những là những ấn tượng chung, tổng thể về đối tượng, là những nét khái quát nhất về đối tượng chứ không phải là những nét riêng lẻ về đối tượng, chẳng hạn như không phải là một nụ cười rạng rỡ hay một bộ dạng lôi thôi, mà là những nét khái quát nhất trên cơ sở ta nhìn nhận toàn diện về họ , chẳng hạn như đó là một ngươi cởi mở hay lạnh lùng, điềm đạm hay nóng nảy, thông minh hay ngốc nghếch…Như vậy có thể nói ấn tượng ban đầu mang tính khái quát cao, là những hình ảnh chung nhất về đối tượng sau lần tiếp xúc đầu tiên. - Ấn tượng ban đầu mang tính chủ quan cảm tính. Đây cũng là một nhược điểm khó tránh khỏi của ần tượng ban đầu. Do điều kiện thiếu thông tin, thời gian tiếp xúc lại qúa ngắn, cả hai bên sẽ không thể bộc lộ hết mọi tính cách của mìh, sẽ khó khăn hơn khi nhận diện đối tượng . Chỉ dựa vào sự quan sát bề ngoài như tác phong, cử chỉ, lời nói…. Rồi dựa vào kinh nghiệm đẻ phán đoán đối tượng sẽ không trách khỏi sự chủ quan phiến diện. Trong khi đó đối tượng ở đây lại là con người, hết sức
  13. phưc tạp, hành động với những động cơ khác nhau, lời nói và suy nghĩ đôi khi không khớp nhau, hòng đánh lừa sự cảm nhận của người khác, nhằm nhưng mục đích này hay mục đích khác. Do đó việc đưa ra những đánh giá về người khác tốt hay không tốt, hay người này là thông minh người kia là ngây thơ… ngay từ buổi tiếp xúc đầu tiênmột cách chinh xac quả thật là rất khó. Cái khó không chỉ nằm trong điều kiện chủ quan của người tri giác: kém nhạy cảm, ít kinh nghiệm , bị chi phối bởi nững động cơ khác nhau…nó còn nằm ở hoàn cảnh thiế hụt thông tin về đối tượng, gò bó về thời gian để quan sát đối tượng, và con khó hơn ỏ chỗ các đối tượng thường cố tình nguỵ trang những khuyết điểm của mình. thông thường những người nhạy cẳm, những người có nhiều kinh nghiệm trong giao tiếp thường có những ấn tượng ban đầu khá chính xác , hơn là nhứng người ít va vấp từng trải trong giao tiếp. - Ấn tượng ban đầu thể hiện sự đánh giá, thái độ của chủ thể về đối tượng. Thường thường ấn tượng ban đầu mang đậm màu sắc chủ quan, vì chủ thể không có điều kiện soi xét đối tượng từ nhiều phía. ấn tượng ban đầu chứa đựng sự nhận thức về đối tượng, kèm theo đó là những xúc cảm, tình cảm: quý mến hay gét, thích hay không thích, hài lòng hay
  14. không hài lòng. Thừ thái độ đó sẽ chi phối cách ứng xử của những quá trình giao tiếp về sau. Nếu có ấn tượng ban đầu là tốt thì họ sẽ hào hứng tiếp tục quan hệ còn nếu không thi quan hệ tiến triển sẽ rất khó khăn, hoặc không quan hệ nữa, vì người ta thường tìm kiếm những thông tin phù hợp với thái độ sẵn có về đối tượng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0