Ảnh hưởng của văn hóa đi với pháp luật
Văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa
chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa
trên nhng kinh nghiệm văn a, tức là pháp luật phải có khả năng biến
thành văn a để điều chỉnh cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở rất
nhiều nơi trên thế giới, hệ thống pháp luật tỏ ra không tương thích với cuộc
sống. Phải chăng yếu tố văn hóa, ở những nơi đó, đã b tách rời khỏi pháp luật
hay bản thân pháp luật được xây dựng trên một nền văn hóa méo mó, phi tự
nhiên?
Phải khẳng định ngay rằng, một nền văn hóa phi tự nhiên chắc chắn sẽ dẫn đến
một một hệ thống pháp luật phi tự nhiên. Vậy văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến
pháp luật? Trước khi đi vào lý giải vấn đề, chúng tôi xin bắt đầu từ một nền văn
hóa được hình thành và phát triển tự nhiên như chính cuộc sống của con người.
Nền văn hóa đó, trước hết, là sản phẩm của tự do.
I. Văn hóa – Sản phẩm của tự do
Văn hóa, nhìn chung, hình thành từ sự tích lũy kinh nghiệm sống của một cộng
đồng, một dân tộc, do đó, văn hóa chính là cuộc sống, nó có mặt trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống. Quá trình hình thành văn hóa là một quá trình tự nhiên và
khách quan. Từ xưa đến nay, con người luôn sống và hành động theo những lẽ
phải của tâm hồn mình, tức là nhận thức về "cái tất yếu", kết quả là tạo ra thành
tựu. Những thành tựu đó, cùng với thời gian, đã kết tinh lại và trở thành văn hóa.
Một nền văn hóa hình thành tự nhiên như vậy là một nền văn hóa lành mạnh. Tuy
nhiên, điều quan trọngn cần phải thấy là, chất xúc tác cho quá trình hình thành
của văn hóa không gì khác chính là tự do, vì nếu không có tự do thì đời sống tinh
thần của con người không phát triển. Đời sống tinh thần của con người không phát
triển thì khôngđời sống văn hóa lành mạnh. Vậy tiêu chuẩn để phân biệt giữa
một nền văn hóa lành mạnh và một nền văn hóa không lành mạnh là gì? Đó chính
tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống.
Chúng ta đều biết rằng, bản chất của cuộc sống chính là tính đa dạng tự nhiên
tự do là điều kiện quan trọng nhất để không chỉ đảm bảo mà còn phát huy tính đa
dạng ấy. Tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng
giữa các khuynh hướng của cuộc sống và sau khi trải qua quá trình sàng lọc một
cách tnhiên, những khuynh hướng còn lại là những khuynh hướng hợp lý. Nếu
con người áp đặt một khuynh hướng nào đó một cách tuyệt đối thì tức là đã tiêu
diệt sự cạnh tranh giữa các khuynh hướng, cũng tức là tiêu diệt tính đa dạng của
cuộc sống. Như vậy, một nền văn hóa lành mạnh là một nền văn hóa hình thành và
phát triển một cách tự nhiên từ bản chất đa dạng của cuộc sống. Ngược lại, một
nền văn hóa không lành mạnh là một nền văn hóa mà đấy người ta sử dụng công
cụ nhà nước để áp đặt các giá trị.
Mặt khác, văn hóa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau và chấp nhận sự bình đẳng giữa
các thành tố cấu tạo nên cuộc sống; nói cách khác, nếu không có sự chấp nhận lẫn
nhau và bình đẳng giữa các thành tcấu tạo ra cuộc sống thì không có văn hóa
lành mạnh. Trong quá trình đi đến sự chấp nhận đó chắc chắn không thể thiếu sự
đấu tranh bình đẳng của các thành tố và do đó, văn hóa phản ánh cả tính xung đột
và tính hòa hợp. Yếu tố đảm bảo sự hợp pháp của quá trình đấu tranh và hòa hp
giữa các yếu tố của cuộc sống không gì khác chính là t do. Tự do đem lại cho con
người sự phong phú về nhận thức và đến lượt mình, sự phong phú về nhận thức sẽ
tạo ra sự đa dạng về khuynh hướng. Khi đó, trong một môi trường có sự bình đẳng
giữa các khuynh hướng, con người được tự do nhận thức và đi đến thỏa thuận.
Hơn nữa, hết thảy những gì đẹp đẽ đều được sáng tạo khi con người tự do, hay khi
con người đạt đến trạng thái tự do và chính những đóng góp đẹp đẽ đó của con
người đã tạo ra nền văn hóa lành mạnh, với tư cách là sản phẩm của tự do.
Như vậy, rõ ràng đâu nền văn hóa có tính đa dạng, ở đâu mà sự tồn tại của các
khuynh hướng của cuộc sống được tôn trọng, thì đó có tự do và khi đó, văn hóa
là hquả của tự do. Văn hóa ấy hỗ trợ cuộc sống và chính là môi trường tinh thần
của tất cả những gì còn lại của cuộc sống.
II. Nền văn a phi tự nhiên và những khuyết tật của nó
Một nền văn hóa hình thành tự nhiên, đảm bảo tính đa dạng tự nhiên luôn luôn là
lý tưởng, nhưng trên thực tế không phải là không có những sự can thiệp, áp đặt
của con người đối với văn hóa. Sự can thiệp đó, trên bất kỳ khía cạnh nào, cũng là
phi tự nhiên vì khi đó, sự đa dạng tự nhiên của đời sống bị đơn giản hóa, thậm chí
tới mức phi lý. Khi con người bị áp đặt về nhận thức thì anh ta s phản ánh một
cách đơn giản về cuộc sống. Sự phản ánh cuộc sống một cách đơn giản của con
người bằng cả hành vi lẫn tư duy, đến lượt mình, tạo ra sự đơn giản của nền văn
hóa hay tạo ra một nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên.
Xin hãy lùi về lịch sử để thấy tính không chừng mực của con người khi ứng xử với
văn hóa. Có thời, người ta sử dụng văn hóa như một công cụ chính trị, tức là h
tước bỏ yếu tố tự do trong văn hóa và thao túng nó cho những mục đích chính trị.
Vì hơn ai hết, các nhà chính trđều hiểu rõ rằng, văn hóa là công cụ điều chỉnh
trên phạm vi rộng lớn nhất, tinh tế và mạnh mẽ nhất đối với nhận thức và ứng xử
của con người. Chính vì vậy, họ luôn có tham vọng thao túng về mặt văn hóa để
trên cơ sở đó, tạo ra tính ổn định trong hoạt động cầm quyền của mình. Tham
vọng đó, thực ra, cũng có thể hiểu được vì đảng chính trị nào cũng tuyên truyền,
phổ biến nhận thức chính trị của mình vào trong đời sống. Sự tuyên truyn trong
trường hợp như vậy không phải là không lành mạnh vì nó là đương nhiên. Tuy
nhiên, người ta chỉ có thể đi theo, cổ vũ hay ưu tiên một khuynh hướng chứ không
thể dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất bằng việc phủ nhận các khuynh
hướng khác. Việc dành cho một khuynh hướng địa vị duy nhất sẽ làm biến mất
tính đa khuynh hướng, hay tính đa dạng tự nhiên của văn hóa, mà xét về bản chất,
chính là tiêu diệt tính đa dạng của đời sống tinh thần của con người.
Thực ra, về bản chất, con người không thể tiêu diệt tính đa dạng của cuộc sống
hay nói đúng hơn là nếu tính đa dạng của cuộc sống bị tiêu diệt thì bản thân cuộc
sống cũng không tồn tại nữa, hay là cuộc sống đã chết về mặt tinh thần. Do đó,
nếu trong khi cuộc sống vẫn đa dạng, dẫu là sự đa dạng một cách bất hợp pháp, mà
nền văn hóa không phản ánh được điều đó thì bản thân nền văn hóa đó không có
giá trị. Giá trị của một nền văn hóa phi tự nhiên, nếu có chăng nữa, thì chính
bằng chứng của việc chính trị đã bóp méo văn hóa.
Nói vmột nền văn hóa méo mó, phi tự nhiên không thkhông nhắc đến những
khuyết tật của nó. Đó là, một nền văn hóa méo mó biến con người trở nên đơn
giản, đơn giản tới mức hết thảy mọi người đều giống nhau một cách phi lý vì phải
tuân theo một khuôn mẫu định sẵn. Cũng chính nền văn hóa đó biến con người trở
nên cực đoan, cực đoan tới mức trở thành nô l về mặt tinh thần cho mt người
hay một khuynh hướng nào đó. Nó tiêu diệt tính cá nhân trong con người bằng
việc buộc con người phải tôn sùng chủ nghĩa tập thể một cách tuyệt đối. Và còn
nhiều khuyết tật khác nữa mà phm vi bài viết này không thể đề cập hết được.
Tuy nhiên, chúng ta có thể kết luận rằng, khuyết tật căn bản nhất của một nền văn
hóa phi tự nhiên là tính đơn giản. Người ta đã lầm tưởng rằng, tính đơn giản đó có
thể tạo ra tính ổn định trong nhận thức của con người và do đó, tạo ra tính ổn định
cho hoạt động cầm quyền mà không nhận ra rằng, tính đơn giản đó đã làm chết cả
một nền văn hóa, "nhổ rễ" cả một dân tộc ra khỏi “mảnh đất tinh thần” của nó và
làm cho những dân tộc sở hữu những nền văn hóa phi tự nhiên đó trở thành những
kẻ vất vưởng vmặt tinh thần. Nhưng, với tư cách là sản phẩm của cuộc sống, văn
hóa mang trong mình một sức sống mãnh liệt, mãnh liệt đến mức không một tham
vọng chính trị nào có th tiêu diệt được. Chính vì vậy, khi tình hình thay đổi, các
yếu tố văn hóa bị đè bẹp sẽ trỗi dậy và quay trlại cuộc sống; hiện nay nó đang
quay tr lại một cách mạnh mvới tất cả sự quá tải của nó; đó cũng chính là bằng
chứng về sức sống tự nhiên, bền bỉ của văn hóa. Điều đó chứng tỏ, không thể và
không bao giờ có cái chết của một nền văn hóa, mà chỉ có cái chết của một dân
tộc về văn hóa hay về tinh thần nếu chính trị tiếp tục can thiệp vào quá trình hình
thành và phát triển tự nhiên của văn hóa.
III. Hệ thống pháp luật phi tự nhiên – Hệ quả của nền văn hóa phi tự nhiên
Văn hóa chính là cuộc sống; do đó, khi làm biến dạng văn hóa, những người cầm
quyền đã làm biến dạng cả cuộc sống. Hệ thống pháp luật, để có thể điều chỉnh
được cuộc sống, cũng bị biến dạng theo; nói cách khác, để tương thích với một
cuộc sống đã bị biến dạng thì bản thân pháp luật cũng phải méo mó và sméo mó
đáng sợ nhất của pháp luật chính là sự không thừa nhận quyền sở hữu của con
người.
Chúng ta đều biết rằng, sở hữu là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của
một xã hội văn minh, sở hữu cũng là quyền con người căn bản nhất. ở những nơi
mà văn hóa bị thao túng, người ta không thừa nhận sở hữu tư nhân với hy vọng sẽ
biến con người trở nên cao quý hơn vì không còn những tham vọng vật chất.
Nhưng, họ đã lầm; họ đã không nhận ra rằng, loại bỏ sở hữu tư nhân chính là một
trong những hành vi phá hoại mạnh nhất đời sống văn hóa của con người và rng,
khi tiêu diệt quyền sở hữu hay ý thức sở hữu của con người đối với những vật cụ
thể, thì người ta đã đồng thời tiêu diệt cả ý thức sở hữu của con người đối với
những tài sản tinh thần mà pháp luật là một trong số đó. Con người không cảm
thấy mình là chủ sở hữu của pháp luật; con người ứng xử một cách thiếu chừng
mực với pháp luật và dần dần, con người chà đạp lên cả những tài sản tinh thần
của mình. những nơi này, tham nhũng, dưới nhiều hình thức, tồn tại ngang nhiên
và có xu hướng ngày càng tinh vi hơn. Đó chính là kết quả tất yếu của việc không
thừa nhận sở hữu tư nhân. Từ trước đến nay, người ta vẫn cho rằng, tham nhũng là
sự suy đồi về đạo đức, nhưng theo chúng tôi, nếu coi tham nhũng như là biểu hiện