TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
THẢO LUẬN MÔN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM ĐẾN VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI THỜI KỲ 2001 -2007
Nhóm 3 - Lớp CH16G Danh sách các thành viên của Nhóm:
1/ Phạm Thị Bảo Oanh - Trưởng nhóm 2/ Nguyễn Ngọc Bích
3/ Nguyễn Ngọc Mạnh 4/ Phạm Thanh Nga 5/ Lê Thị Minh Ngọc 6/ Nguyễn Thị Hồng Nhung 7/ Nguyễn Thu Phương (Mã SV: 160244) 8/ Vũ Ngọc Quang
Hà Nội, 02/2009
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững hiện đang là vấn đề được tất cả các quốc gia hướng tới và coi đó là phương châm cho mọi hành động của mình trong việc quản lý kinh tế, xã hội, chính trị của quốc gia.
Trong xu thế hiện nay, Việt Nam coi việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định trong mối quan hệ với thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội, gia tăng chất lượng, số lượng trong công tác xoá đói giảm nghèo là một nhiệm vụ cấp thiết và nó phải được tiến hành đồng thời với nhau để đảm bảo sự công bằng cho tất cả các thành viên trong xã hội.
Tuy nhiên, để có thể nhận thức một cách đúng và đầy đủ mức độ ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới việc xoá đói, giảm nghèo và công bằng xã hội để từ đó giúp cho các cơ quan quản lý đưa ra được những quyết định tốt, có hiệu quả là một
việc không đơn giản và cần phải nghiên cứu kỹ.
Vì những lý do trên mà nhóm thực hiện đã lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến vấn đề xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội thời kỳ 2001 - 2007” để nghiên cứu.
2. Mục đích của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001 – 2007, nhóm thực hiện hướng tới hai mục tiêu chính như sau :
Tìm ra mối liên hệ giữa sự tăng trưởng kinh tế với vấn đề xoá đói, giảm nghèo và công bằng xã hội của Việt Nam, và ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói, giảm nghèo và tạo công bằng xã hội của các vùng, miền của Việt Nam trong thời gian qua.
Đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song đồng thời phải kết hợp chặt chẽ và góp phần tích cực trong công tác xoá đói, giảm nghèo và tăng cường công bằng xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm thực hiện hướng tới hai vấn đề cần nghiên cứu sau:
2
Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế của Việt Nam góp phần thúc đẩy xoá đói giảm nghèo và tạo công bằng xã hội: thông qua việc nghiên cứu, phân tích các số liệu thống kê từ các nguồn đáng tin cậy như: số liệu của Tổng cục thống kê,
Báo cáo phát triển Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam,… Kết hợp với việc tính toán, phân tích các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế và các thước đo về sự phát triển con người, thước đo nghèo khổ và bất bình đẳng xã hội..
Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền trong cả nước trong giai đoạn qua và xu hướng của nó trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Chúng tôi tập trung nghiên cứu tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 2001 – 2007. Đồng thời, nhóm cũng xem xét mối liên hệ và ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế tới công tác xoá đói, giảm nghèo và công bằng xã hội của Việt Nam, cũng như ảnh hưởng của nó tới việc làm gia tăng phân hoá giàu nghèo giữa các vùng miền trong cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong đề tài nghiên cứu sử dụng tổng hợp các Phương pháp, song chủ yếu là
hai phương pháp :
Phương pháp phân tích và tổng hợp: là phương pháp phân tích các yếu tố cấu thành nội dung đối tượng theo mục tiêu nghiên cứu và tổng hợp để cấu trúc hoá kết quả phân tích theo tính mục tiêu.
Phương pháp thống kê: là phương pháp thu thập các số liệu trong các kỳ kinh
doanh, từ đó tiến hành phân tích, so sánh và đưa ra nhận xét, kết luận.
6. Kết cấu của đề tài.
Tên đề tài: “Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế Việt Nam đến vấn đề xoá đói
giảm nghèo và công bằng xã hội thời kỳ 2001 - 2007.”
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của báo
cáo gồm ba phần chính:
Chương 1: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với vấn đề xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội.
Chương 2: Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói, giảm nghèo và công bằng xã hội thời kỳ 2001 – 2007.
3
Chương 3: Giải pháp góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo chất lượng xoá đói giảm nghèo, công bằng xã hội tại Việt Nam
CHƯƠNG I
MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về
quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Đó là kết quả của tất
cả các hoạt động sản xuất dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng
trưởng kinh tế người ta sử dụng mức tăng thêm của tổng sản lượng của nền kinh tế
(tính toàn bộ hay tính bình quân đầu người) của thời kì sau so với thời kì trước. Như
vậy tăng trưởng kinh tế được xem xét trên hai mặt biểu hiện: đó là tăng tuyệt đối hay
mức tăng phần trăm (%) hàng năm, hoặc bình quân trong một giai đoạn.
Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn
nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thêm sản lượng
nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.
1.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế
- Tổng giá trị sản xuất : GO
- Tổng sản phẩm quốc nội : GDP
- Tổng thu nhập quốc dân : GNI
- Thu nhập quốc dân : NI
- Thu nhập được quyền chi : GDI
1.2. Nghèo, đói và công bằng xã hội
1.2.1. Bản chất của nghèo, đói
Nghèo được hiểu là bị bần cùng hóa về phúc lợi. Theo quan niệm truyền
thống, nghèo được hiểu trước hết là sự thiếu thốn về vật chất, sống với mức thu nhập
và tiêu dùng thấp, điển hình là tình trạng dinh dưỡng kém và điều kiện sống thiếu
4
thốn.
Định nghĩa rộng hơn coi nghèo như một hiện tượng đa chiều đưa đến sự hiểu
biết rõ ràng hơn về nguyên nhân của nghèo và một chính sách toàn diện hơn hướng
tới xóa đói giảm nghèo
Đói là biểu hiện cùng cực nhất của nghèo khó và người ta có thể cho rằng đó
là điều không thể chấp nhận được trên phương diện đạo đức. Trên thực tế, nghèo vừa
là nguyên nhân, vừa là hậu quả của nạn đói.
1.2.2. Thước đo nghèo
Thước đo nghèo về thu nhập khác nhau ở các nước khác nhau là không giống
nhau. Nói chung, quốc gia càng giàu thì chuẩn nghèo quốc gia đó càng cao. Để có
được sự so sánh quốc tế, Ngân hàng Thế giới đã thiết lập một chuẩn nghèo quốc tế
Thu nhập thấp
Năng suất thấp
Tiết kiệm thấp
Tiêu dùng thấp
Đầu tư thấp
theo thu nhập và theo sức mua tương đương
Hình 1: Vòng luẩn quẩn của đói nghèo
1.2.3. Công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một khái niệm có tính lịch sử cụ thể, có nội hàm khác
nhau trong những hoàn cảnh, điểu kiện khác nhau. Hiểu một cách khái quát, “công
bằng xã hội nói tới một xã hội có thể cho phép mọi cá nhân và nhóm xã hội được đối
xử công bằng và hưởng thụ công bằng những lợi ích của xã hội” (từ điển Wikipedia)
Hai khái niệm về công bằng, gồm:
- Công bằng theo chiều ngang, tức là đối xử như nhau với người có đóng góp như
5
nhau; và:
- Công bằng theo chiều dọc, tức là đối xử khác nhau với người có khác biệt bẩm sinh
hoặc có điều kiện xã hội khác nhau, sự khác nhau về nghề nghiệp, về giáo dục đào
tạo, thừa kế và chiếm hữu tài sản khác nhau, gánh chịu rủi ro khác nhau
1.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội
1.3.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế cao và bền vững sẽ dẫn đến giảm nghèo. Trên
thực tế, chiều tác động của của tăng trưởng kinh tế lên giảm nghèo khá khác nhau:
một số nước như Ấn Độ (Những năm 1970), Philippin (những năm 1980 và 1990) đã
giảm được nghèo một cách đáng kể mặc dù chỉ đạt mức độ tăng trưởng khiêm tốn
hoặc thậm chí còn có giảm sút trong thu nhập bình quân đầu người. Ngược lại một số
nước như Thái Lan (những năm 1980) Malaixia (những năm 1990) và Sri-Lanka
(những năm 1990) đã thất bại trong giảm nghèo mặc dù đạt được mức tăng trưởng
khá cao trong thu nhập bình quân đầu người. Kinh nghiệm của Việt Nam cũng cho
thấy suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX và đầu những năm 2000. Tăng trưởng kinh tế
cao đi đôi với giảm nghèo nhanh chóng.
Tuy nhiên, tác động giảm nghèo của tăng trưởng kinh tế đã suy giảm trong
những năm gần đây: 1% tăng trưởng GDP đưa đến giảm 0.77% số người nghèo trong
những năm 1993- 1998 nhưng chỉ còn 0.66% giai đọan 1998-2002. Điều này cho
thấy tác động rất khác nhau của những chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cụ thể
cho từng giai đoạn.
Nghèo đói có thể ngăn cản tăng trưởng kinh tế vì người nghèo có năng suất lao
động thấp do sức khỏe kém và kỹ năng lao động bất cập sẽ làm sói mòn năng lực sản
xuất của nền kinh tế. Nghèo đói cũng làm suy giảm năng lực tiết kiệm và đầu tư, làm
cho tăng trưởng kinh tế bị triệt tiêu dần. Thêm vào đó, những đòi hỏi khắt khe về tài
sản thế chấp cũng ngăn cản người nghèo tiếp cận với các khoản vay trên thị trường
tín dụng. Hệ quả tất yếu: người nghèo ít có khả năng khai thác những cơ hội tích lũy
vốn vật chất và vốn con người. Điều này làm giảm tốc độ tăng trưởng của thu nhập,
và hệ quả có thể là nghèo đói gia tăng. Ngược lại việc giảm nghèo rất có lợi cho tăng
trưởng kinh tế: Khi mức nghèo tuyệt đối giảm đáng kể thì song song đó, chúng ta
6
thường chứng kiến mức tăng trưởng kinh tế cao, bởi vì phần lớn những chính sách
tăng thu nhập của người nghèo một cách hiệu quả như đầu tư vào giáo dục tiểu học
hạ tầng nông thôn, chăm sóc sức khỏe và nâng coa dinh dưỡng cũng là các chính
sách gia tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Có thể kết luận rằng tăng trưởng
kinh tế là điều kiện cần cho giảm nghèo, chứ chưa là điều kiện đủ.
Theo UNDP định nghĩa tăng trưởng có lợi cho người nghèo là tăng trưởng kinh
tế đưa đến phân phối lại thu nhập có lợi cho người nghèo. Còn theo ADB cho rằng
tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo khi đó là dạng tăng trưởng tận dụng lao
động và kèm theo bằng những chính sách và chương trình giảm thiểu những bất bình
đẳng, thúc đẩy tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo, đặc biệt là cho phụ nữ
và các nhóm xã hội bị cô lập.
Nói cách khác Tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo là tăng trưởng tối đa
hóa tác động tích cực của tăng trưởng trong việc giảm nghèo. Một chiến lược tăng
trưởng có lợi cho người nghèo không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà còn
tác động đến mô hình phân phối thu nhập để từ đó người nghèo hưởng lợi từ tăng
trưởng kinh tế theo một tỷ lệ lớn hơn người giàu thu hẹp lại khoảng cách giàu nghèo
và cuối cùng là xóa nghèo.
1.3.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai yếu tố cơ bản của sự phát
triển, đồng thời đó cũng là hai trong số những mục tiêu căn bản mà hầu hết các quốc
gia trên thế giới đã, đang và sẽ tiếp tục theo đuổi. Tuy nhiên, trên phương diện lý
thuyết cũng như trong thực tế, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội dường như là
hai yếu tố mâu thuẫn nhau trong quá trình phát triển.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy
của một quốc gia. Vì vậy, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực của mình
trong tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải quyết mọi vấn đề
khác.
Giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội có mối quan hệ tương tác đặc
biệt. Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn chính là điều kiện để
thực hiện công bằng xã hội. Nếu như không có những điều kiện kinh tế tối thiểu thì
công bằng xã hội rất khó được thực hiện. Kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện
7
thuận lợi hơn để hoạch định và thực thi các chính sách công bằng xã hội. Ngược lại,
công bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nhờ khả năng có thể
tạo ra một xã hội hòa hợp, lành mạnh và ổn định- một xã hội mà mỗi cố gắng, mỗi
đóng góp đều được đánh giá một cách thỏa đáng, công bằng xã hội có thể tạo ra một
xã hội hài hòa giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Công bằng xã hội, trên thực
tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là động lực để tăng
trưởng kinh tế. Chính vì vậy, cần phải dựa vào công bằng xã hội để thúc đẩy tăng
8
trưởng kinh tế.
CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐẾN VẤN ĐỀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI THỜI KỲ 2001 – 2007
2.1. Ảnh hưởng tích cực của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói, giảm nghèo và công bằng xã hội
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần thúc đẩy quá trình xoá đói, giảm nghèo.
Từ năm 2000 đến 2007, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Nhờ tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế cao (bình quân 8 năm đạt 7,73%), tăng dần qua các năm và trong tất cả các nhóm ngành kinh tế cơ bản nên tốc độ giảm nghèo trong giai đoạn 2000 - 2006 là khá nhanh.
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 2000 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tốc độ tăng GDP cả nước 6,79 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48 6,23
Tỷ lệ nghèo cả nước 32,0 28,9 27,0 23,17 20,2 15,5 14,8 13,1
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy, từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tăng dần qua các năm và luôn đạt mức cao. Năm 2000, tốc độ tăng GDP
của Việt Nam đạt mức 6,79 %, sang năm 2001, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,08% và những năm sau đó, nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 7% và có xu hướng gia tăng theo thời gian. Đặc biệt, năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã đạt mức 8,44%, một tỷ lệ rất cao so với mặt bằng chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tỷ lệ này đạt trên 8% liên tục trong 3 năm liên tiếp từ năm 2005 đến hết năm 2007. Năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc
dân giảm còn 6,23%, tốc độ giảm nghèo đã chậm lại, năm 2007 tỷ lệ nghèo là 14,8%, năm 2008 là 13,1%.
Bên cạnh đó, theo kết quả các đợt điều tra mức sống dân cư toàn quốc, theo tiêu chuẩn quốc tế, nếu năm 2000 tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam vẫn còn ở mức 32% và năm 2002 giảm còn 28,9%, thì năm 2004 còn 23,17% và năm 2006 còn
9
15,5%. Như vậy, cùng với sự gia tăng của tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
trong thời gian qua, tỷ lệ nghèo chung của cả nước có xu hướng giảm dần và giảm nhanh qua các năm. Điều này cho ta thấy cùng với sự gia tăng của tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức sống của người dân đã được cải thiện và tình trạng đói nghèo ngày càng được giảm bớt.
Tốc độ tăng GDP
Tỷ lệ nghèo
%
35,00
32,0
30,00
28,9
27,0
25,00
23,17
20,2
20,00
15,5
15,00
14,8
13,1
10,00
5,00
8,48
8,44
8,17
7,79
7,34
7,08
6,79
6,23
-
2000
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008 Năm
Biểu đồ: Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ nghèo của Việt Nam trong giai đoạn từ 2000-2008
Như vậy, nhìn trên biểu đồ, ta thấy mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trong những năm vừa qua.
Năm 2000, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,79%, trong khi đó, tỷ
lệ nghèo chung vẫn ở mức rất cao là 32%. Nhưng đến năm 2002, tốc độ tăng trưởng GDP là 7,08% thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đã giảm xuống còn 28,9 %. Cùng với sự gia tăng của tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ nghèo đói của cả nước giảm dần theo thời gian, đến năm 2007, khi Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất từ trước đến nay thì tỷ lệ nghèo chung của cả nước cũng đã giảm xuống chỉ còn 14,8%. Đây là một thành tích đáng ghi nhận của nền kinh tế Việt Nam, nó cho thấy mặt tích cực của tăng trưởng kinh tế đã tác động rõ nét đến việc xoá đói, giảm nghèo
trong cả nước.
10
Một trong những tác động tích cực nữa của việc gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế đó là tỷ lệ hộ nghèo của các vùng trên cả nước đã giảm đáng kể trong thời gian qua.
Tỷ lệ hộ nghèo của các vùng trên cả nước trong một số năm
Đơn vị tính: %
Vùng Năm 2002 Năm 2004 Năm 2006
ĐB sông Hồng 22,4 12,1 8,8
Đông Bắc Bộ 38,4 29,4 25,0
Tây Bắc Bộ 68,0 58,6 49,0
Bắc Trung Bộ 43,9 31,9 29,1
DH Nam Trung Bộ 25,2 19,0 12,6
Tây Nguyên 51,8 33,1 28,6
Đông Nam Bộ 10,6 5,4 5,8
23,4 19,5 10,3 ĐB sông Cửu Long
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn trên bảng số liệu ta thấy rằng tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm đáng kể trong thời gian qua. Năm 2002, tỷ lệ hộ nghèo tại hầu hết các vùng trong cả nước còn rất cao, đặc biệt là vùng Tây Bắc Bộ là 68%, vùng Tây Nguyên cũng chiếm 51,8%,
Bắc Trung Bộ là 43,8%, các vùng còn lại chiếm tỷ lệ nghèo đói cao và đều trên 20%, duy chỉ có cùng Đông Nam bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất cả nước và đạt 10,6%.
Tuy nhiên, sau 2 năm, vào năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo tại các vùng trong cả nước đã giảm đáng kể, chỉ có vùng Tây Bắc Bộ vẫn giữa tỷ lệ hộ nghèo cao là 58,6%
nhưng nếu so sánh với tỷ lệ hộ nghèo năm 2000, thì tỷ lệ hộ nghèo ở vùng này đã giảm được 9,4%. Vùng Tây Nguyên đã đạt mức giảm tỷ lệ hộ nghèo cao là 18,7% và toàn vùng chỉ còn 33,1% hộ nghèo. Các vùng khác trong cả nước cũng đã đạt tỷ lệ nghèo đói giảm đáng kể, chỉ còn từ 30% trở xuống. Đến năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước lại tiếp tục giảm mạnh, chỉ còn vùng Tây Bắc bộ vẫn chiếm tỷ lệ 49%, cùng Bắc Trung bộ là 29,1% và Tây Nguyên là 28,6%. Các vùng khác trong cả nước cũng chỉ còn tỷ lệ 25% trở xuống. Đặc biệt, trong năm 2006, vùng Đồng bằng sông
Hồng chỉ còn có 8,8% tỷ lệ hộ nghèo và vùng Đông Nam bộ chỉ còn 5,8% hộ nghèo. Đây là vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất trong cả nước.
11
Ta có thể nhận thấy rõ tốc độ giảm nghèo của các vùng qua biểu đồ.
năm 2002
năm 2004
năm 2006
Biểu đồ tỷ lệ nghèo đói các vùng trong cả nước năm 2002; 2004; 2006:
%
49
58.6
28.6
29.1
25
33.1
31.9
29.4
68
12.6
51.8
19
43.9
10.3 19.5
38.4
25.2
23.4
8.8 12.1 22.4
5.8 5.4 10.6
Tây Bắc Bộ Bắc Trung
ĐB sông Hồng
Đông Bắc Bộ
Bộ
DH Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐB sông Cửu Long
Vùng
Như vậy, tính theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ nghèo chung cả nước trong các năm 2001 - 2006 đã giảm được gần một nửa. Nếu so với mục tiêu giảm 20% đã được ghi trong văn bản Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo cho giai đoạn
2001 - 2005, thì chúng ta đã đạt được kết quả hơn gấp đôi. Đó là một thành tựu lớn. Vùng giảm nghèo đói mạnh nhất là Tây Nguyên, từ 51,8% xuống 28,6%, Đông Nam Bộ từ 10,6% xuống 5,8%, Tây Bắc Bộ từ 68% xuống 49%.
Song, để nhìn rõ hơn những thành tựu đã đạt được, nhất là trong việc phát huy
những ưu điểm, cách làm tốt phục vụ cho sự phát triển những năm tới chúng ta cũng cần tính toán trên cơ sở chuẩn mới (được áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010): Chuẩn nghèo áp dụng cho khu vực nông thôn là 200.000 đồng/người/tháng và khu vực thành thị là 260.000 đồng/người/tháng. Phương án chuẩn nghèo này được đánh giá phù hợp với mức sống và thu nhập của dân cư nói chung, cũng như thu nhập của 20% nhóm nghèo nhất; phù hợp với tốc độ tăng của chuẩn nghèo trong cả quá trình từ năm 1996-2005; đảm bảo được khả năng huy động nguồn lực thực hiện mục tiêu dự kiến và đáp ứng được yêu cầu từng bước tiếp cận và hội nhập quốc tế.
Theo đó, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, nghĩa là tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới tính bình quân cả nước cao hơn tỷ lệ nghèo (theo chuẩn cũ) khoảng 15%.
12
Bức tranh tổng quát về tỷ lệ nghèo theo vùng, theo chuẩn nghèo mới như sau: Bình quân cả nước năm 2007 là 14,8%; vùng Tây Bắc là 37,5%; Đông Bắc là 21,1%; đồng bằng sông Hồng là 9,6%; Bắc Trung Bộ là 25,5%; duyên hải Nam Trung Bộ là
16,3%; Tây Nguyên là 22,9%; Đông Nam Bộ là 4,3%; và vùng đồng bằng sông Cửu Long là 12,4%.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê qua các cuộc khảo sát về mức sống dân cư Việt Nam thì tỷ lệ nghèo của cả nước từ 58% năm 1993 giảm xuống còn 14,87% năm 2007 (khoảng 13 triệu người). Trong vòng 14 năm đã giảm 35 triệu người nghèo.
Cùng với kết quả đó, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tỷ lệ nghèo giảm nhanh, song so với tỷ lệ chung của cả nước vẫn là vùng có tỷ lệ nghèo cao, cụ thể như sau: Vùng Tây Bắc: 49%; Vùng Bắc Trung Bộ: 29,1%; Vùng Tây Nguyên: 28,6%; Vùng Đông Bắc: 25%; Vùng Nam Trung Bộ: 12,6%; Các vùng còn lại đều dưới 10%...Cả nước hiện còn 58 huyện có tỷ lệ nghèo trên 50% và 3006 xã tỷ
lệ nghèo trên 25%, nơi đây tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số ít người.
Nhìn chung trong cả nước, hộ nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi và những khu vực có điều kiện tự nhiên khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Khu vực này có diện tích đất trồng không lớn lại ít mầu
mỡ. Như nhóm nghèo nhất ở khu vực Tây Nguyên có diện tích trồng cây lâu năm chỉ bằng một nửa diện tích đất trồng của nhóm giàu nhất ở cùng khu vực. Các loại đất này chủ yếu được dùng để trồng cây cà phê - mặt hàng nông sản bị giảm giá mạnh trong những năm 90. Trung bình, một hộ gia đình thuộc nhóm 20% nghèo nhất ở Tây Bắc chỉ có chưa đầy 700 m2 đất trồng cây lâu năm - diện tích quá nhỏ để giúp các hộ gia đình có hy vọng thoát nghèo. Ngoài ra, các hộ nghèo còn phụ thuộc vào đất rừng làm sinh kế cho mình. Trong khi đó, một loạt vấn đề khó khăn cho việc sử dụng đất
rừng để tạo ra thu nhập như thoả thuận thuê đất rừng thường không rõ ràng hoặc không đảm bảo, hệ thống nghiên cứu và khuyến nông để tăng năng suất cho đất rừng vẫn chưa thực sự phát triển.
Tuy nhiên, do chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhanh, năm 2007 là 12,63%,
năm 2008 là 22,97%, làm cho giá trị thực của chuẩn nghèo giảm xuống. Để bảo đảm đúng giá trị thực của chuẩn nghèo, sau khi thống nhất với Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất phương án điều chỉnh chuẩn nghèo theo phương án: Chuẩn nghèo điều chỉnh giá năm 2008 sẽ bằng chuẩn nghèo hiện nay cộng với chỉ số giá CPI trong 2 năm 2007-2008; nếu cập nhật giá, giá trị chuẩn nghèo sẽ tăng khoảng 40-45% so với chuẩn nghèo hiện tại. Do vậy
13
chuẩn nghèo được tính ở 2 khu vực: Nông thôn-những hộ có mức thu nhập bình quân từ 270.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 360.000 đồng/ người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đến cuối năm 2008 khoảng 15,5%, tương ứng với 3,1
triệu hộ.
Tuy tỷ lệ nghèo đói ở thành thị giảm nhanh hơn khu vực nông thôn, nhưng lại không ổn định, từ 9,2% (năm 1998) xuống 6,6% (năm 2002), lại tăng lên 10,8% (năm 2004). Trong khi đó ở khu vực nông thôn tỷ lệ đói nghèo giảm chậm hơn nhưng tương đối ổn định từ 45,5% năm 1998 xuống 35,6% năm 2002 và còn 27,5% vào năm 2004. Tỷ lệ nghèo của khu vực đồng bào dân tộc thiểu số còn rất cao và tốc độ giảm nghèo chậm từ 75,2% xuống 69,3% trong thời gian tương ứng. Khu vực đồng bào dân tộc tốc độ giảm nghèo chậm và còn rất cao, từ 75,2% xuống 69,3%,
cho thấy công tác xoá đói giảm nghèo ở các vùng đồng bào dân tộc khó khăn hơn nhiều so với vùng dân cư người kinh.
Đạt được kết quả như trên do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân tổng quát là
nhờ tăng trưởng kinh tế khá cao cùng với việc thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo. Phương thức xóa đói giảm nghèo đã được đổi mới phù hợp với chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo do Chính phủ đề ra sau khi cam kết thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc. Tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản; làm tốt công tác truyền thông, nâng cao dân trí; tăng việc làm, thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân, nhất là người nghèo. Đã chú trọng đào tạo cán bộ cho
các xã nghèo, cử cán bộ tỉnh, huyện và đội ngũ trí thức về giúp các xã nghèo.
Các ngành, các cấp đã triển khai thực hiện tốt hơn các giải pháp xóa đói giảm nghèo. Tạo điều kiện về vốn qua các hình thức tín dụng cho các hộ nghèo có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Lồng ghép các chương trình mục tiêu
quốc gia trên địa bàn; động viên mọi người tham gia xóa đói giảm nghèo. Thực hiện chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo. Thực hiện chính sách hỗ trợ y tế, hỗ trợ giáo dục, trợ giúp người nghèo. Xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo và quỹ hỗ trợ giáo dục cho học sinh nghèo. Qua 5 năm thực hiện chương trình 135, đối với các xã đặc biệt khó khăn, đã cung cấp cơ bản các công trình hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Tính đến nay, đã có 56% số xã này đã được đầu tư đủ 8 công trình hạ
14
tầng theo quy định; 70% số xã đã xây dựng được 5 công trình hạ tầng chủ yếu; 30/49 tỉnh có 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; cơ bản hoàn thành đưa vào sử dụng 143 trung tâm cụm xã với nhiều công trình hạ tầng thiết yếu. Riêng về nhà ở, chính sách về nhà ở cho người nghèo đã được quan tâm; đã triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo ở đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, miền núi. Nhiều địa phương trong cả nước đã vận động thực hiện chương trình giúp người nghèo có nhà ở...
2.1.2. Thu nhập – chi tiêu thực tế theo đầu người ngày càng tăng.
Trước thời kỳ đổi mới, phần lớn dân số nước ta sống bằng nghề nông, Việt Nam bị đánh giá là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, với mức thu nhập bình quân
đầu người rất thấp và có nhiều người trong diện nghèo đói. Đường lối đổi mới và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, dẫn đến nâng cao thu nhập cho người dân.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở Việt Nam trong giai đoạn
1990 - 2002 đạt trung bình 5,2%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm 1995, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã tăng khoảng 2,8 lần
Bảng 1: Thu nhập thực tế bình quân đầu người
ĐVT: (1.000đ/ người/tháng)
1999 2002 2004 2006
295 356 484 636 Cả nước
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị 517 622 815 1053
Nông thôn 226 275 378 506
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng 280 353 488 653
Đông Bắc 210 269 380 511
Tây Bắc 210 197 266 373
Bắc Trung Bộ 212 235 317 418
Duyên hải Nam Trung Bộ 253 306 415 551
Tây Nguyên 345 244 390 522
Đông Nam Bộ 528 620 833 1065
Đồng bằng sông Cửu Long 345 371 471 628
Kết quả của tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập thực tế bình quân/người có
sự gia tăng liên tục.
Từ năm 1999 đến 2006, thu nhập thực tế bình quân đầu người đã tăng 1,64 lần. Khu vực thành thị và nông thôn đều có sự tăng thu nhập, tuy nhiên chênh lệch thu nhập bình quân giữa thành thị và nông thôn vẫn ở mức hầu như không đổi, khoảng 2,3 xuống 2,1 lần.
15
Chênh lệch giữa vùng có thu nhập cao nhất - Đông Nam bộ với vùng có thu
nhập thấp nhất - Tây Bắc, Bắc Trung Bộ năm 1999 là 2,51 lần, năm 2006 là 2,85 lần. Các vùng Tây bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ vẫn là những vùng có mức thu nhập thấp, mặc dù trong những năm gần đây cũng có sự gia tăng đáng kể về thu nhập bình quân.
Bảng 2: Chi tiêu thực tế bình quân đầu người
ĐVT: (1.000đ/ người/tháng)
1999 2002 2004 2006
221 269 360 460 Cả nước
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị 373 461 595 738
Nông thôn 175 211 284 359
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng 227 271 374 475
Đông Bắc 176 220 294 373
Tây Bắc 167 179 233 296
Bắc Trung Bộ 162 193 253 314
Duyên hải Nam Trung Bộ 198 248 331 415
Tây Nguyên 251 202 295 391
Đông Nam Bộ 385 448 577 741
Đồng bằng sông Cửu Long 246 258 335 435
Kết quả của tăng trưởng kinh tế cũng làm cho chi tiêu thực tế bình quân/người
có sự gia tăng.
Trên cả nước, kết quả của tăng trưởng kinh tế làm cho xu hướng chi tiêu cũng
gia tăng, qua 7 năm, chi tiêu thực tế bình quân đầu người đã tăng 2,08 lần. Như vậy, mức tăng của chi tiêu lớn hơn mức tăng của thu nhập.
16
Cũng giống như tỷ lệ chênh lệch thu nhập thực tế giữa thành thị và nông thôn qua các năm không thay đổi nhiều, năm 1999, chi tiêu trung bình ở thành thị cao gấp 2,13 lần so với khu vực nông thôn trong khi năm 2006 là 2,05.
Chênh lệch giữa vùng có thu nhập cao nhất với vùng có thu nhập thấp nhất cũng là những vùng có chênh lệch chi tiêu thực tế bình quân đầu người nhiều nhất. Tỷ lệ chênh lệch năm 1999 là 2,81 lần so với năm 2006 là 2,50 lần.
Ta có bảng tổng hợp chung:
GDP (%) Thu nhập (1.000 đ) Chi tiêu (1.000 đ) Năm
1999 4,8 295 221
2002 7.08 356 269
2004 7,79 484 360
2006 8,17 636 460
Sau khi áp dụng phương pháp thống kê mô tả phân tích hồi quy GDP ảnh
SUMMARY OUTPUT
Regression Statistics
0.858102961
Multiple R
0.736340692
0.604511038
94.96057526
R Square Adjusted R Square Standard Error
Observations
4
ANOVA
df
SS
MS
F
Significance F
Regression
1
50367.72829
50367.72829
5.585546733
0.141897038
Residual
2
18035.02171
9017.510854
Total
3
68402.75
Coefficients
Standard Error
t Stat
P-value
Lower 95%
Upper 95%
Intercept
-150.6150507
255.5168616
-0.589452491
0.615275149
-1250.015373
948.7852714
hưởng đến thu nhập thực tế bình quân đầu người được kết quả như sau:
85.37626628
-70.05579569
36.12470533
0.141897038
2.36337613
240.8083283
GDP PT: Thu nhập thực tế bình quân đầu người = -150,6150507 + 85,37626628 GDP
Hệ số 85,37626628 nói lên rằng khi GDP tăng thì thu nhập thực tế bình quân đầu người cũng tăng. Cụ thể là GDP tăng 1 đơn vị (1%) thì thu nhập thực tế bình quân đầu người tăng khoảng 85,376 đơn vị (85.376đ).
Áp dụng phương pháp thống kê mô tả phân tích hồi quy GDP ảnh hưởng đến
17
chi tiêu thực tế bình quân đầu người được kết quả như sau:
SUMMARY OUTPUT
Regression Statistics
Multiple R
0.873096384
R Square
0.762297295
Adjusted R Square
0.643445943
Standard Error
62.98334377
Observations
4
ANOVA
df
SS
MS
F
Significance F
Regression
1
25443.19682
25443.19682
6.413871438
0.126903616
Residual
2
7933.803184
3966.901592
Total
3
33377
Coefficients
Standard Error
t Stat
P-value
Lower 95%
Upper 95%
Intercept
-94.22720695
169.4735556
-0.555999469
0.634110728
-823.4130636
634.9586497
GDP
60.68017366
23.95999316
2.532562228
0.126903616
-42.41135632
163.7717036
PT: Thu nhập thực tế bình quân đầu người = -94.22720695 + 60.68017366 GDP
Hệ số 60,68017366 nói lên rằng khi GDP tăng thì chi tiêu thực tế bình quân đầu người cũng tăng. Cụ thể là GDP tăng 1 đơn vị (1%) thì chi tiêu thực tế bình quân đầu người tăng khoảng 60,68 đơn vị (60.680đ).
Những kết quả trên hoàn toàn hợp lý và có ý nghĩa kinh tế.
2.1.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội:
Cùng với thành tựu về giảm đói nghèo, Tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam đã đạt được một số kết quả đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ, công bằng trong xã hội, thể hiện trên các mặt sau:
+ Hệ số GINI theo chi tiêu:
Chỉ số Năm 1995 Năm 1999 Năm 2002 Năm 2004 Năm 2006
GINI 0,357 0,39 0,418 0,423 0,43
(Nguồn: Giáo trình Kinh tế phát triển, Bảng 2.25, trang 102)
Theo tính toán của Tổng cục Thống kê Việt Nam, hệ số GINI chung của nước ta tăng từ 0,357 năm 1995 lên 0,43 năm 2006. Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình tăng trưởng và giảm nghèo những năm vừa qua, Việt Nam đang ở vào nhóm nước tương đối bình đẳng.
18
+ Chỉ số HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,539 năm 1994 (xếp hạng 120/174 nước) lên
0,733 năm 2007 (105/177 nước). Thứ bậc HDI cao hơn đáng kể so với thứ bậc phát triển kinh tế (hơn 10 bậc) cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ con người và đảm bảo công bằng xã hội
+ Bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản:
Tình hình tiếp cận các dịch vụ công như: giáo dục, chăm sóc sức khỏe, y tế và các dịch vụ xã hội cơ bản khác của người dân đang được cải thiện rõ rệt. Cụ thể, tuy Việt Nam vẫn còn nằm trong nhóm những nước nghèo, nhưng có tỷ lệ dân số trên 10 tuổi biết chữ cao nhất, đạt 91% từ năm 1999, trong đó tỷ lệ biết chữ của phụ nữ là 88% và của nam giới là 94%. Tỷ lệ trẻ em đến tuổi đi học được đến trường và tỷ lệ vào đại học, cao đẳng đạt mức khá cao. Tỷ lệ học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi (6 tuổi) tăng đáng kể, từ khoảng 90% trong những năm 1990 lên 93% năm 2002
và đạt 94,4% trong năm học 2003 -2004. Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học đúng độ tuổi năm học 2003 -2004 đạt 76,86%. Năm 2006, cả nước có khoảng 93.000 lớp mẫu giáo với 112,8 nghìn giáo viên, hơn 16 triệu học sinh với hơn 789 nghìn giáo viên, có 299 trường Đại học và Cao đẳng với 53,4 nghìn giảng viên, 1.666 nghìn sinh viên, có 269 trường trung cấp với 14,5 nghìn giáo viên, 469 nghìn học sinh. Số sinh viên tốt nghiệp Đại học và Cao đẳng là 230 nghìn người, tốt nghiệp các trường trung cấp là 149 nghìn người. Trong năm 2006, tỷ lệ trẻ em đi học mẫu giáo khoảng 50%,
tỷ lệ người lớn biết chữ tăng từ 88% năm 1993 lên 90,3% năm 2003 và 94% năm 2006.
Trong giai đoạn 2001 – 2006, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ chi phí cho giáo dục/GDP tăng từ 5,3% năm 2000 đến năm 2005 là 8,3%. Năm 2003, tỷ lệ
chi cho giáo đục/GDP là 6,1%, giảm so với năm 2002 (7,8%), tuy nhiên, về giá trị tuyệt đối thì tổng chi cho giáo dục vẫn tăng qua các năm: năm 2000 là 23.219 nghìn tỷ, 2002 là 34.088 nghìn tỷ, năm 2003 là 37.552 nghìn tỷ và năm 2005 là 68.968 nghìn tỷ.
Chi tiêu Năm 2000 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Tốc độ tăng GDP cả nước (%) 6,79 7,08 7,34 7,79 8,44
Tổng chi cho giáo dục (1000 tỷ) 23.219 34.088 37.552 54.223 68.968
Tỷ lệ chi/GDP (%) 5,3 7,8 6,1 7,6 8,3
(Nguồn: Vietnamnet)
19
Người nghèo nói chung và người dân tộc thiểu số nói riêng ngày càng được ưu tiên trong tiếp cận các dịch vụ xã hội. Hàng năm, trên 3 triệu học sinh nghèo và dân tộc ít người được miễn, giảm học phí cũng như các khoản đóng góp xây dựng
trường, lớp. Công tác giảng dạy, phổ biến tiếng dân tộc đã được đẩy mạnh.
Bên cạnh đó, các hộ nghèo ngày càng thuận lợi hơn trong việc vay vốn ưu đãi
từ Ngân hàng Chính sách xã hội, các hộ đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ đất sản xuất. Trong các cơ quan dân cử và chính quyền các cấp, tỷ trọng cán bộ người dân tộc thiểu số ngày càng gia tăng.
Về tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, đã có những thay đổi căn bản trong thể chế cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh ở cấp cơ sở: số lượng các cơ sở khám chữa bệnh tăng lên đáng kể, hầu hết tuyến xã đã có trạm y tế, bình quân có 4 nhân viên; nhiều thôn, bản đã có nhân viên y tế, khoảng 30% các trạm y tế xã đã có bác sỹ, khoảng 85% trạm y tế xã có y sỹ, nữ hộ sinh. Nhờ đó việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc, chữa trị bệnh của người dân đã được cải thiện. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới
2005
2007
Trong đó
Trong đó
Tổng số
Tổng số
Bệnh viện
Bệnh viện
Phòng khám khu vực
Phòng khám khu vực
Trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp
Trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng
1 tuổi giảm mạnh từ 44,4 phần nghìn (năm 1990) xuống còn 18 phần nghìn (năm 2004). Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng từ 62,5 năm (1995) lên 67 năm (năm 1999), 70 năm (năm 2002) và 73,3 năm (năm 2007) riêng tuổi thọ trung bình của phụ nữ đạt 73 năm. Tuổi thọ tăng do những thành tựu về y tế và chăm sóc sức khoẻ.
CẲ NƯỚC
12372
822
855
34
10613
12626
31
10851
902
803
Đồng bằng sông Hồng
2544
155
120
165
2251
2543
109
7
2253
8
Đông Bắc
2422
146
202
152
2061
2427
197
6
2067
7
Tây Bắc
713
43
74
46
593
733
69
1
615
1
Bắc Trung Bộ
2036
99
128
1801
2047
106
114
5
1820
5
Duyên hải Nam Trung Bộ
983
81
71
87
823
1023
57
4
872
4
Tây Nguyên
737
58
41
64
629
809
48
3
689
3
Đông Nam Bộ
79
80
3
1027
1195
101
1001
1248
127
4
2
1508
Đồng bằng sông Cửu Long
1742
139
140
1454
1796
155
129
2
(Nguồn: số liệu trên trang Web của Tổng cục Thống kê)
Năm 2005, số cơ sở khám chữa bệnh là 12.372 cơ sở với 822 bệnh viện. Đến năm 2007, số cơ sở khám bệnh là 12.626 cơ sở, tăng 2,1% so với năm 2005 với 902
20
bệnh viện (tăng 9,7% so với năm 2005)
Khu vực y tế tư nhân cung cấp các dịch vụ dự phòng, khám chữa bệnh được phát triển rộng khắp trong cả nước. Điều đó đang góp phần tích cực trong việc huy động thêm nhiều nguồn lực trong các thành phần kinh tế đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh của người dân và làm giảm áp lực trong khu vực y tế nhà
nước. Ngoài ra, việc đa dạng hóa các hình thức chăm sóc sức khỏe cộng đồng còn tạo ra sự cạnh tranh thị trường giữa các tổ chức y tế, từ đó chất lượng dịch vụ y tế từng bước được nâng lên. Một số chính sách, cơ chế và hình thức quản lý hoạt động y tế đã được ban hành tỏ ra có hiệu quả như thay thế cho chế độ khám chữa bệnh miễn phí trước đây bằng chế độ bảo hiểm y tế và chính sách cấp bảo hiểm y tế miễn phí cho người nghèo. Đến năm 2004, tỷ lệ người nghèo được cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí và thẻ bảo hiểm y tế là 88%.
Tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần thúc đẩy sự bình đẳng trong việc tiếp cận các dạng dịch vụ kết cấu hạ tầng thiết yếu. Tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch tăng từ 26,2% năm 1993 lên 70% năm 2004, trong đó tỷ lệ này ở nông thôn đã tăng mạnh, từ 18% năm 1993 lên 58% năm 2004.
+ Việt Nam đạt được thành tựu lớn trong bình đẳng giới: Phụ nữ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Chỉ số phát triển giới (GDI) của Việt Nam đã tăng đáng kể, từ 0,668 năm 1998 lên 0,689 năm 2004. Việt Nam thuộc nhóm
nước có thành tựu tốt trong khu vực về bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ. Tỷ lệ nữ đi học và tỷ lệ nữ tham gia lao động xã hội luôn đạt mức cao so với các nước đang phát triển khác.
2.2. Ảnh hưởng của Tăng trưởng kinh tế đến vấn đề phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2007
2.2.1. Gia tăng khoảng cách thu nhập và chi tiêu giữa nhóm người có thu nhập thấp nhất và nhóm người có thu nhập cao nhất
Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong lĩnh vực kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt ở mức độ cao. Nhưng bên cạnh
những mặt tích cực do sự phát triển kinh tế mang lại, ta cũng thấy tồn tại những ảnh hưởng tiêu cực đến các tầng lớp dân cư trong xã hội, đặc biệt là nhóm những người có thu nhập thấp và người dân sống tại nông thôn, các dân tộc thiểu số, hay những người dân sống tại những vùng có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu, chưa được đầu tư, xây dựng.
Trước hết, ta xét mức thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực
21
tế phân theo năm nhóm thu nhập.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo 5 nhóm thu nhập (*)
Chi tiêu bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo 5 nhóm thu nhập (*)
Năm 1999
Năm 2002
Năm 2004
Năm 1999
Năm 2002
Năm 2004
Nghìn đồng
CHUNG
295.0
356.1
484.4
221.1
269.1
359.7
Nhóm thu nhập thấp nhất
97.0
107.7
141.8
108.5
123.3
160.4
Nhóm thu nhập dưới trung bình
181.4
178.3
240.7
160.7
169.7
226.0
Nhóm thu nhập trung bình
254.0
251.0
347.0
201.8
213.7
293.8
Nhóm thu nhập khá
346.7
370.5
514.2
251.9
290.3
403.9
Nhóm thu nhập cao nhất
741.6
872.9
1182.3
452.3
548.5
715.2
Tỷ lệ so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)
Nhóm thu nhập thấp nhất
1.00
1.00
1.00
1.00
1.00
1.00
Nhóm thu nhập dưới trung bình
1.87
1.66
1.70
1.48
1.38
1.41
Nhóm thu nhập trung bình
2.62
2.33
2.45
1.86
1.73
1.83
Nhóm thu nhập khá
3.57
3.44
3.63
2.32
2.35
2.52
Nhóm thu nhập cao nhất
7.65
8.11
8.34
4.17
4.45
4.46
(*) Mỗi nhóm 20% tổng số hộ.
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002 - 2006)
Nhìn trên bảng số liệu, ta thấy thu nhập giữa những hộ nghèo và hộ giàu đều tăng lên, tốc độ gia tăng của hộ giàu nhanh hơn hộ nghèo và khoảng cách về thu
nhập giữa nhóm người thu nhập thấp nhất với nhóm người thu nhập cao nhất có xu hướng gia tăng và tăng ở mức cao.
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, thu nhập của nhóm người có thu nhập thấp nhất năm 1999 là 97.000 đồng/tháng thì đến năm 2006, thu nhập của nhóm
người này chỉ mới đạt 141.800 đồng/tháng. Nếu ta chia bình quân thu nhập của nhóm người này một ngày trong tháng thì thu nhập của họ chỉ đạt là 3.233 đồng/ ngày, vậy nếu quy ra chuẩn thế giới về mức nghèo khổ của người dân là 1USD/ngày thì nhóm người có mức thu nhập thấp nhất của Việt Nam cũng chỉ đạt ở mức 1/5 so với ngưỡng nghèo của thế giới, đến năm 2006, nhóm này đạt mức thu nhập khoảng 4.727 đồng/ngày, chỉ trên mức 1/5 chuẩn nghèo của thế giới một chút. Như vậy, mặc dù thu nhập của nhóm dân cư này có tăng nhưng vẫn ở mức rất thấp so với ngưỡng
nghèo của thế giới.
Ta so sánh thu nhập bình quân đầu người theo giá thực tế với chi tiêu bình quân đầu người theo giá thực tế phân theo năm nhóm thu nhập của nhóm người có
22
thu nhập thấp nhất thì có thể dễ dàng nhận thấy rằng mức thu nhập bình quân đầu
người một tháng nếu tính theo giá thực tế thì họ không có đủ thu nhập để chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
Nếu như mức thu nhập của họ năm 1999 là 97.000 đồng/người/tháng thì mức chi tiêu bình quân của họ là 108.500 đồng/người/tháng. Như vậy, nếu tính chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu thì họ còn thiếu 11.500 đồng/người/tháng để có thể đáp ứng đủ cho nhu cầu chi tiêu của bản thân. Năm 2002, mức thu nhập bình quân của một người có thu nhập thấp nhất một tháng là 107.700đồng, song mức chi tiêu bình quân của nhóm người này là 123.300đồng/người/tháng. Vậy, họ thiếu 15.600đồng/người/
tháng. Đến năm 2004, mức thu nhập của họ là 141.800đồng/người/tháng, nhưng mức chi tiêu bình quân là 160.400đồng/người/tháng, vậy họ thiếu 18.600đồng/người /tháng. Như vậy, ta thấy rằng mặc dù được hưởng tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, mức thu nhập của nhóm người này có gia tăng. Nhưng nếu xét cả về mức chi tiêu bình quân cần thiết của họ cho cuộc sống thường nhật thì họ lại trở nên nghèo hơn và phải gánh chịu những khoản nợ ngày càng lớn do thu nhập của họ không đủ bù đắp cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, sự gia tăng
của tốc độ lạm phát và tất yếu là nhóm đối tượng này sẽ không có các khoản tiền tích luỹ cho tương lai. Hệ quả tất yếu của tình trạng này là họ lâm vào vòng xoáy của sự nghèo đói, khó có thể dứt ra được.
Trong khi đó, nếu xét thu nhập và chi tiêu của nhóm người giàu nhất. Năm 1999, thu nhập của họ là 741.600 đồng/tháng, tức là họ đạt khoảng 24.720 đồng/ngày và họ đã vượt qua ngưỡng nghèo của thế giới và đạt mức khoảng gần 2 USD/ngày, đến năm 2006, thu nhập của họ đã tăng lên đến 1.182.300 đồng/tháng, tức là họ đạt mức thu nhập là 39.410 đồng/ngày (khoảng 3,5 USD/ngày). Nếu chúng ta xem xét tỷ lệ thu nhập so với nhóm có mức thu nhập thấp nhất và thu nhập cao nhất, ta sẽ nhận thấy sự chênh lệch về thu nhập giữa hai nhóm này rất rõ nét. Nếu ta coi thu nhập của nhóm người có thu nhập thấp nhất là 1 thì vào năm 1999 ta thấy rằng mức thu nhập
của nhóm người có thu nhập cao nhất đã gấp 7,65 lần so với mức thu nhập của nhóm người nghèo nhất. Đến năm 2006, thì sự chênh lệch này còn tiếp tục gia tăng và đạt ở mức là 8,34 lần.
thu nhập của nhóm người có thu nhập cao nhất
23
Ta so sánh mức thu nhập và chi tiêu của nhóm có thu nhập cao nhất. Năm 1999, mức chi tiêu bình quân của nhóm có thu nhập cao nhất là 452.300đồng/ người/tháng. Vậy, trong năm 1999, nhóm người này có mức chênh lệch dương giữa thu nhập và chi tiêu, có nghĩa trong phần thu nhập hàng tháng, họ không chỉ đủ đề bù đắp cho nhu cầu chi tiêu mà còn có khoản tích luỹ lên đến 289.300đồng/người/tháng. Năm 2002, mức là 872.900đồng/người/tháng, mức chi tiêu của họ là 548.500đồng/người/tháng. Như
vậy, họ có khoản chênh lệch dương cho tích luỹ là 324.400đồng/người/tháng. Năm 2004, mức thu nhập của nhóm người này là 1.182.300đồng/người/tháng. Trong khi đó, mức chi tiêu của họ chỉ là 715.200đồng/người/tháng, khoản tích luỹ mà họ có được trong năm 2006 là 467.100đồng/người/tháng. Vậy, ta thấy có một nghịch lý
xảy ra giữa nhóm người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất là mức sống của người nghèo không được cải thiện, thậm chí, họ càng ngày càng phải gánh chịu những khoản nợ lớn hơn. Trong khi đó, nhóm người có thu nhập cao nhất thì ngày càng có mức thu nhập cao hơn và sự tích luỹ của họ ngày càng lớn hơn. Điều này đã cho ta thấy rõ nét về sự phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng trong khi nền kinh tế ngày càng phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao.
2.2.2. Sự gia tăng khoảng cách thu nhập giữa các vùng miền.
Phân tích thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng, ta sẽ thấy có sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam trong giai đoạn qua.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng
Nghìn đồng
Năm 1999
Năm 2002
Năm 2004
Năm 2006
CẢ NƯỚC
295
356
484
636
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị
517
622
815
1058
Nông thôn
225
275
378
506
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
280
353
488
653
Đông Bắc
210
269
380
511
Tây Bắc
197
266
373
Bắc Trung Bộ
212
235
317
418
Duyên hải Nam Trung Bộ
253
306
415
551
Tây Nguyên
345
244
390
522
Đông Nam Bộ
528
620
833
1065
(Nguồn:http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=395&idmid=3&ItemID=7674,
Tổng cục Thống kê)
24
Trước hết, ta thấy mức thu nhập bình quân đầu người chung trong cả nước có xu hướng tăng đều qua các năm từ năm 1999 là 295.000đồng/người/tháng thì đến
năm 2002, mức thu nhập này đã tăng lên là 356.000đồng/người/tháng. Đến năm 2004, mức thu nhập bình quân đầu người một tháng là 484.000đồng và vào năm 2006, nó đạt mức 636.000đồng/người/tháng. Như vậy, nếu tính chung trong cả nước thì mức thu nhập bình quân một người một tháng qua các năm tăng đều khoảng 30%.
Tuy nhiên, nếu ta xét theo khu vực thành thị và nông thôn thì thấy có sự chênh lệch trong mức thu nhập của dân cư. Ở khu vực thành thị, năm 1999 mức thu nhập của người dân chỉ là 225.000đồng/người/ tháng, nó tăng đều qua các năm những cũng chỉ đạt ở mức từ 250.000đồng/người/ tháng đến 380.000đồng/người/tháng, chỉ duy có năm 2006, mức thu nhập bình quân của người dân tăng mạnh và đạt ở mức là 506.000đồng/người/tháng.
Trong khi đó, nếu xét mức thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị thì ngay tại thời điểm năm 1999, mức thu nhập của người dân đã đạt 517.000đồng/người/tháng, tức là mức thu nhập bình quân của người dân trong khu vực thành thị cao gấp 2,29 lần so với người dân sống tại nông thôn vào cùng thời thị đạt điểm, đến năm 2002, mức thu nhập của khu vực thành
622.000đồng/người/tháng, cao gấp 2,26 lần so với mức thu nhập của người dân sống ở khu vực nông thôn. Năm 2004 mức thu nhập của khu vực thành thị là 815.000đồng/người/tháng, cao gấp 2,16 lần so với khu vực nông thôn. Năm 2006, mức thu nhập của khu vực thành thị là 1.058.000đồng, cao gấp 2,09 lần so với khu vực nông thôn. Mặc dù tỷ lệ gia tăng khoảng cách thu nhập giữa hai khu vực này có giảm liên tục qua các năm song nếu xét về con số tuyệt đối thì ta thấy rõ rằng có sự gia tăng chênh lệch khá lớn.
Nếu ta xét sự gia tăng mức thu nhập theo các vùng kinh tế cuả cả nước thì ta nhận thấy có sự phân hoá theo vùng miền. Đối với những vùng có điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng kinh tế thuận lợi thì có mức thu nhập tương đối cao, cụ thể, vùng Đông Nam Bộ luôn giữa mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất cả nước.Vào
năm 1999, trong khi mặt bằng chung của hầu hết các vùng trong cả nước chỉ đạt mức thu nhập từ 210.000đồng/người/tháng đến 345.000đồng/người/tháng thì vùng Đông Bắc bộ đã đạt mức thu nhập là 528.000đồng/người/ tháng. Cũng trong thời điểm năm 1999, đối với vùng núi khó khăn như Tây Bắc, thậm chí, chúng ta không thể thống kê được mức thu nhập của người dân khu vực này.
25
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập bình quân của vùng Đông Nam bộ vẫn dẫn đầu cả nước và đạt ở mức 1.065.000đồng/người/tháng thì cũng có những vùng khó khăn như Tây Bắc và Bắc Trung bộ mức thu nhập mới chỉ đạt mức 373.000đồng/người/tháng và 418.000đồng/người/tháng. Như vậy, nếu xét thu nhập
bình quân giữa các vùng trong cả nước, ta nhận thấy có sự gia tăng phân hoá giàu nghèo giữa các vùng này.
Như vậy, mặc dù so với mặt bằng chung của thế giới thì Việt Nam vẫn là một nước nghèo, tuy nhiên thì mức chênh lệch giữa nhóm người nghèo nhất và người giàu nhất là khá lớn và cũng đã thể hiện rõ nét sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do, phần lớn những người có thu nhập cao nhất tập trung ở những thành phố lớn, các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp. Họ thường là những người có trình độ học vấn cao và có công việc tốt, hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hoặc cung cấp dịch vụ, còn đa phần nhóm người nghèo nhất lại tập trung ở những vùng miền núi có điều kiện địa lý không thuận lợi, cơ sở
hạ tầng vật chất còn yếu kém, chưa được Nhà nước đầu tư nhiều. Thêm vào đó, họ đa phần là những người có trình độ học vấn chưa cao, tỷ lệ người không biết đọc, biết viết còn nhiều và họ chủ yếu làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên ở những vùng này thường không thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
2.2.3. Tình hình nghèo đói của các vùng miền trong cả nước.
Xét theo tỷ lệ nghèo chung của cả nước thì trước tiên ta phải khẳng định một điểm đó là nước ta là một nước nghèo và tỷ lệ nghèo còn rất cao. Năm 1998, tỷ lệ nghèo trung bình của cả nước là 37,4%, như vậy, có nghĩa vào thời điểm năm 1998, 37,4% dân số còn nghèo đói, chất lượng cuộc sống không được đảm bảo, không
được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm 2002, tỷ lệ nghèo chung đã giảm so với năm 1998 là 8,5 % và đứng ở mức là 28,9%, sau đó hai năm, tức là vào năm 2004, tỷ lệ nghèo chung là 19,5% và đến năm 2006, tỷ lệ nghèo chung chỉ còn 16%.
Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn vào con số chung, ta không thể thấy được cụ thể tình
hình nghèo đói của dân cư các vùng miền như thế nào.
Tỷ lệ nghèo chung và nghèo lương thực, thực phẩm phân theo vùng (*)
Năm 1998 Năm 2002 Năm 2004 Năm 2006
CẢ NƯỚC
Tỷ lệ nghèo chung
16.0
37.4
28.9
19.5
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
9.9
6.9
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị
3.86
3.33
Nông thôn
11.89
8.13
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
26
Tỷ lệ nghèo chung
29.3
22.4
8.8
12.1
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
6.5
4.6
Đông Bắc
Tỷ lệ nghèo chung
62.0
38.4
25.0
29.4
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
14.1
9.4
Tây Bắc
Tỷ lệ nghèo chung
73.4
68.0
49.0
58.6
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
28.1
21.8
Bắc Trung Bộ
Tỷ lệ nghèo chung
48.1
43.9
29.1
31.9
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
17.3
12.2
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tỷ lệ nghèo chung
34.5
25.2
12.6
19.0
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
10.7
7.6
Tây Nguyên
Tỷ lệ nghèo chung
52.4
51.8
28.6
33.1
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
17.0
12.3
Đông Nam Bộ
Tỷ lệ nghèo chung
12.2
10.6
5.8
5.4
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
3.2
1.8
Đồng bằng sông Cửu Long
Tỷ lệ nghèo chung
36.9
23.4
19.5
10.3
Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm
7.6
5.2
(*) Tỷ lệ nghèo chung được tính theo mức chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng với chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới cho các năm như sau: 1998: 149.000đồng; 2002: 160.000đồng; 2004: 173.000đồng; 2006: 213.000đồng.
(Nguồn: Tổng cục thống kê, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=395&idmid =3&ItemID=7672)
Nhìn trên bảng số liệu ta thấy, năm 1998, vùng Tây Bắc chiếm tỷ lệ đói nghèo cao nhất, 73,4%, tiếp theo vùng Đông Bắc là 62%, vùng Tây Nguyên là 52,4% và vùng Duyên hải Nam Trung bộ là 34,5%.
Tuy nhiên, đến các năm sau, đặc biệt là từ năm 2000 trở lại đây, cùng với sự
27
phát triển của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn ở mức cao, do vậy, đời sống của dân cư các vùng trên cả nước đã được cải thiện và tỷ lệ nghèo giảm đáng kể. Năm 2006, tỷ lệ nghèo của vùng Đồng bằng sông Hồng chỉ còn 8,8%, vùng Duyên hải Nam Trung bộ chỉ còn 12,6%, trong đó, đặc biệt là vùng Đông Nam bộ, tỷ lệ nghèo đói chung đã giảm xuống chỉ còn 5,8%.
Tuy vậy, bên cạnh những vùng có tỷ lệ đói nghèo nhỏ thì ta vẫn thấy tồn tại khá nhiều vùng miền có tỷ lệ đói nghèo cao, dù tỷ lệ này có giảm qua các năm. Vùng khó khăn nhất là cùng Tây Bắc, vùng này luôn nắm giữa vị trí có tỷ lệ nghèo đói ở mức cao nhất trong cả nước. Năm 1998, tỷ lệ đói nghèo của Tây Bắc là 73,4%, năm
2002, tỷ lệ đói nghèo của cả vùng là 68%, năm 2004 là 58,6% và đến năm 2006, tỷ lệ này vẫn ở mức rất cao 49%, như vậy, mặc dù các vùng khác trong cả nước tỷ lệ nghèo đói đã giảm xuống dưới 29,1% thì riêng Tây Bắc vẫn có đến 49% dân số ở mức nghèo đói và không được hưởng những dịch vụ cơ bản của xã hội như y tế, giáo dục, nước sạch.
Bên cạnh, vùng Tây Bắc thì còn có các vùng như Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Bắc vẫn chiếm tỷ lệ đói nghèo cao vào năm 2006, lần lượt là 29,1%, 28,6%, 25%.
Vậy, bên cạnh những vùng tỷ lệ đói nghèo đã giảm và chỉ còn ở mức thấp như Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng thì vẫn còn rất nhiều vùng, một phần đông dân cư phải sống trong nghèo khó.
Theo chuẩn nghèo lương thực thực phẩm, ta thấy rằng tỷ lệ nghèo chung của cả nước năm 2002 là 9,94%, nhưng trong đó thì tỷ lệ nghèo của thành thị chỉ có 3.86%, còn tỷ lệ nghèo của khu vực nông thôn chiếm đến 11,89%. Đến năm 2004, tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm xuống còn 6,92%, nhưng nếu phân tỷ lệ nghèo đói theo khu vực thành thị và nông thôn thì ta vẫn thấy một thực tế là mặc dù tỷ lệ nghèo của khu vực nông thôn đã giảm 3,02% so với năm 2002. Nhưng, tỷ lệ nghèo đói lương thực thực phẩm của khu vực này vẫn còn rất cao và đạt ở mức 8,13%.
Ngoài ra, theo tiêu chí phân chia này ta cũng nhận thấy một điểm đáng chú ý là mặc dù tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm của khu vực thành thị chỉ đạt ở mức thấp, 3,86% vào năm 2002. Nhưng đến năm 2004, mặc dù tỷ lệ này có giảm xuống nhưng chỉ giảm 0,53%. Để có thể thấy được nguyên nhân của điểm đặc biệt này, chúng ta cần phân tích chi tiết tỷ lệ nghèo đói phân theo vùng. Trước hết, ta thấy vào năm 2002, những vùng có tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng 6,54%, Đồng bằng sông Cửu Long 7,59% và đặc biệt, vùng Đông Nam bộ chỉ
28
có 3,23%. Đây chính là những vùng có tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm thấp nhất cả nước vì vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ là những vùng kinh tế trọng điểm của quốc gia, tại hai vùng này có hai đầu tầu kinh tế của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh và Hà nội. Bên cạnh đó, tại những vùng lân cận hai thành phố này được đặt rất nhiều khu công nghiệp, nên số lượng người dân tham gia lĩnh vực nông nghiệp giảm đáng kể, trong khi đó, tỷ lệ người dân trong độ tỷ lao động tham gia làm việc trong các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu chế xuất cao, nên thu nhập
của họ ổn định và mức thu nhập hàng tháng cao hơn mặt bằng chung của cả nước, mức sống của họ được cải thiện và nâng cao đáng kể.
Trong khi đó, ta thấy tồn tại những vùng có tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm rất cao như vùng Tây Bắc (28,05%), vùng Bắc Trung bộ (17,31%) và vùng Tây Nguyên (16,99%), đến năm 2004, tỷ lệ đói nghèo của các vùng này đã được giảm xuống, tuy nhiên vẫn ở mức rất cao.
Cụ thể, vùng Tây Bắc tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm đã giảm 6,24% nhưng tỷ lệ này vẫn rất cao và đứng đầu cả nước với tỷ lệ là 21,81%, tỷ lệ nghèo lương thực thực phẩm của vùng Bắc Trung bộ đã giảm 5,07% so với năm 2002, những vẫn ở mức 12,24%. Còn vùng Tây Nguyên đến năm 2004, tỷ lệ đói nghèo đã giảm 4,69% nhưng tỷ lệ đói nghèo trên cả vùng vẫn ở ngưỡng khá cao là 12,3%.
Nguyên nhân của tình trạng này là vì đa phần dân cư trong các vùng Tây Bắc, Bắc Trung bộ và Tây Nguyên là đồng bào các dân tộc thiểu số, trình độ học vấn của họ chưa cao, tỷ lệ người lớn không biết chữ ở những vùng này lớn. Thêm vào đó là những hủ tục lâu đời của các dân tộc này còn tồn tại. Họ thường sinh sống theo kiểu
di canh, di cư, sau mỗi một mùa canh tác, đất đai trở lên bạc màu, họ phải chuyển đến nơi khác để tìm vùng đất màu mỡ hơn, thêm vào đó, những người dân này thường sống dải rác, thành từng nhóm nhỏ và ở cách xa nhau. Vì vậy, việc giúp đỡ những nhóm dân cư này phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng sống của họ tương đối khó khăn.
2.2.4. Sự gia tăng các chỉ số đo lường sự bất bình đẳng.
Một trong những chỉ tiêu phản ánh mức độ bất bình đẳng trong xã hội là hệ số GINI. Hệ số GiNi nhận giá trị từ 0 đến 1 và tăng cùng với sự bất bình đẳng. Với giá trị bằng 0 biểu thị sự bình đẳng tuyệt đối và với giá trị bằng 1 biểu thị sự bất bình đẳng tuyệt đối. Hệ số GINI càng gần 0 thì mức độ công bằng trong phân phối càng
càng cao. Nếu hệ số GINI nhận giá trị lớn hơn 0,5 gọi là mưc độ bất công bằng lớn, từ 0,4 đến cận 0,5 là bất công bằng vừa và nhỏ hơn 0,4 được xem như bất công bằng chấp nhận được.
Một số chỉ số phản ánh bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam
Chỉ số Năm 1995 Năm 1999 Năm 2002 Năm 2004 Năm 2006
GINI 0.357 0.418 0.423 0.43 0.39
Hệ số giãn cách (lần) 7 8.1 8.34 8.37 7.6
Tiêu chuẩn "40%" 21.1 17.4 17.4 17.47 17.98
29
(Nguồn: Giáo trình Kinh tế phát triển, Bảng 2.25, trang 102)
Nhìn vào bảng số liệu ở trên, ta thấy hệ số GINI của Việt Nam có xu hướng tăng theo thời gian. Năm 1995, hệ số GINI của Việt Nam chỉ ở mức 0,357, năm 1999, hệ số GINI là 0,39 tức là mức độ công bằng trong xã hội tốt và xét về tổng thể thì có sự công bằng về thu nhập giữa đại đa số các tầng lớn dân cư với nhau. Nhưng
từ sau năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng mạnh, dẫn đến thu nhập của người dân tại các thành phố lớn gia tăng, trong xã hội xuất hiện một nhóm người có thu nhập cao, trong khi đó, tại nông thôn, các khu vực miền núi vẫn còn tỷ lệ lớn dân cư có thu nhập thấp chính vì thế đã làm cho hệ số GINI gia tăng. Cụ thể, năm 2002, hệ số GINI là 0,418, năm 2004, hệ số GINI tăng lên 0,423, năm 2006, hệ số này tiếp tục tăng và đạt mức là 0,43. Như vậy, nếu xét một cách tổng thể thì trong những năm qua, mức độ bất bình đẳng ở Việt Nam có xu hướng gia tăng và đang ở mức độ bất
bình đẳng vừa.
Nếu ta xét theo tiêu chuẩn 40 % của World Bank thì ta nhận thấy chỉ số này có xu hướng giảm dần theo thời gian. Năm 1995, tiêu chuẩn này đạt mức cao 21,1 %. Nhưng chỉ sau đó bốn năm, tức là vào năm 1999, chỉ số này chỉ đạt mức là 17,98 %,
đến sau năm 2000, xu hướng giảm có chậm lại nhưng vẫn chiếm khoảng 17,4%. Mặc dù chỉ số này vẫn đảm bảo trên 17%, tức là tương đối bình đẳng nhưng nếu xét cả quá trình thì ta thấy có sự bất bình đẳng gia tăng theo thời gian và gia tăng theo sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Hệ số GINI theo thành thị nông thôn và vùng năm 2002, 2004
Năm 2002
Năm 2004
Cả nước
0,42
0,42
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị
0,41
0,41
Nông thôn
0,36
0,37
Phân theo vùng
ĐB sông Hồng
0,39
0,39
Đông Bắc Bộ
0,36
0,39
Tây Bắc Bộ
0,37
0,38
Bắc Trung Bộ
0,36
0,36
Duyên hải Nam Trung Bộ
0,35
0,37
Tây Nguyên
0,37
0,40
Đông Nam Bộ
0,42
0,43
ĐB sông Cửu Long
0,39
0,38
30
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, điều tra mức sống hộ gia đình năm 2006)
Xét hệ số GINI phân theo khu vực thành thị và nông thôn, ta thấy có sự khác biệt một cách tương đối giữa hai khu vực này. Ở khu vực thành thị, hệ số GINI cả hai năm 2002 và năm 2004 là 0,41, tức là mức độ bất bình đẳng ở khu vực này ở mức độ trung bình. Trong khi đó, mức độ bất bình đẳng ở khu vực nông thôn chỉ ở mức 0,36
và 0,37 lần lượt vào hai năm 2002 và 2004, có nghĩa, sự bất bình đẳng về thu nhập của khu vực nông thôn là thấp. Mặc dù vậy, ta cũng nhận thấy có sự gia tăng của hệ số GINI ở khu vực nông thôn, dù sự gia tăng này không nhiều, chỉ là 0,01. Tuy vậy, điều này cũng cho ta thấy có sự bất bình đẳng gia tăng tại mọi khu vực tăng lên theo sự gia tăng của tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Xét hệ số GINI phân theo vùng, ta thấy hầu hết các vùng trong cả nước có hệ số GINI từ 0,35 đến 0,39, như vậy, có thể nhận định là mức độ bất bình đẳng ở hầu hết các vùng là chấp nhận được. Nhưng tại một số vùng như Đông Nam bộ có hệ số GINI tương đối cao, năm 2002 là 0,42, năm 2004 là 0,43. Ngoài ra, ta cũng nhận thấy có một xu hướng trong thời gian qua là hệ số bất bình đẳng có xu hướng gia tăng ở tất cả các vùng trong cả nước, chỉ trừ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hệ số
GINI năm 2002 là 0,39, nhưng năm 2004, hệ số này đã giảm 0,01 và đạt mức 0,38.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể thì hệ số GINI có xu hướng gia tăng, sự bất bình đẳng ở khu vực thành thị diễn ra nhanh hơn nông thôn và vùng Đông Nam Bộ
có sự bất bình đẳng nhiều hơn các vùng khác.
2.2.5. Vấn đề phân bổ nguồn vốn đầu tư và sự gia tăng phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2007.
Như vậy, thông qua những phân tích ở trên, ta có thể khẳng định cùng với sự gia tăng của tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng kéo theo hệ quả là sự gia tăng phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp thành viên trong xã hội, giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng miền với nhau.
Một trong những nguyên nhân hàng đầu của tình trạng này là do sự phân bổ vốn đầu tư không đồng đều giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong cả
nước. Thông thường, các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước khi nghiên cứu thị trường và tìm địa điểm đặt nhà máy hoặc trụ sở chính thì luôn tính đến hiệu quả kinh tế mà mình có thể đạt được trong đó. Do vậy, họ luôn tìm mọi cách để tối ưu hoá được lợi nhuận và giảm thiểu một cách tối đa các chi phí nếu thấy có thể. Theo nguyên tắc thông thường thì họ luôn tìm kiếm những cơ hội đầu tư vào những vùng có thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn như thành thị, ngoại thành hay những vùng phụ cận tiếp giáp với những thành phố lớn, các khu công nghiệp, tạo thuận lợi trong
31
việc vận chuyển, phân phối và bán hàng cũng như tiếp cận được nguồn nhân công có trình độ đủ đáp ứng yêu cầu công việc.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép năm 1988 - 2007 phân theo địa phương
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)(*)
Trong đó: Vốn điều lệ
Số dự án
Chia ra
Tổng số
Tổng số
Nước ngoài góp
Việt Nam góp
Tổng số
43129.0
36413.7
6715.3
99596.2
9810
Đồng bằng sông Hồng
11663.1
9356.3
2306.8
26728.0
2261
Đông Bắc
1260.2
975.7
284.5
3014.9
409
Tây Bắc
61.3
50.9
10.4
154.1
38
Bắc Trung Bộ
713.8
565.6
148.2
2084.6
145
Duyên Hải Nam Trung Bộ
3719.1
3039.4
679.7
8349.3
414
Tây Nguyên
292.4
226.6
65.8
1183.8
128
Đông Nam Bộ
5931
50837.9
20969.8
18230.2
2739.6
425
Đồng bằng sông Cửu Long
4057.9
1806.1
1630.1
176.0
59
Dầu khí
3185.7
2643.2
2338.9
304.3
(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
Cụ thể, ta thấy những vùng có điều kiện địa lý, cơ sở hạ tầng thuận lợi như
Đồng bằng sông Hồng (tổng dự án đầu tư từ năm 1988 đến 2007 là 2261 dự án, với tổng số vốn là 26728 triệu USD)và Đông Nam Bộ (tổng dự án đầu tư từ năm 1988 đến 2007 là 5931 dự án, với tổng số vốn là 50837.9 triệu USD) có tổng số dự án đầu tư vào nhiều nhất và gấp nhiều lần so với các vùng khác trong cả nước. Còn những vùng miền núi khó khăn như Tây Bắc chỉ có tổng số vốn đầu tư là 38 dự án với tổng số vốn đầu tư là 154.1 triệu USD, Bắc Trung Bộ qua 20 năm cũng chỉ thu hút được 145 dự án đầu tư, với tổng số vốn là 2084.6 triệu USD, đối với các tỉnh khu vực Tây
32
Nguyên cũng chỉ thu hút được 128 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn là 1183.8 triệu USD. thì tổng số dự án được đầu tư vào những khu vực này rất ít, cả về số lượng và giá trị tổng dự án đầu tư.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
3.1. Các giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn
Để thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực nông thôn so với thành thị, mục tiêu hàng đầu là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. Một số giải pháp cơ bản góp phần cải thiện kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống người dân như sau:
3.1.1. Phát triển nông nghiệp nông thôn
Chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn là một giải pháp quan trọng
trong chương trình xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Điều đó xuất phát từ hai lý do:
Một là, nước ta là một nước có nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp; do đó, thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực lao động ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho người nghèo ở nước ta có được việc làm và tăng thu nhập. Phát triển nông thôn sẽ là một trọng tâm của chiến lược tăng trưởng. Đây là một quyết sách nhất thiết phải có để vừa mang lợi cho quá trình tăng trưởng vừa là điều kiện để thực hiện xoá đói giảm nghèo.
Hai là, đại đa số dân số nước ta, lực lượng lao động và người nghèo là ở nông thôn. Hiện nay, khoảng 90% người nghèo sống ở nông thôn, trong đó tình trạng đói nghèo phổ biến là 50%, cao gấp đôi ở thành thị. Đặc biệt, vùng nông thôn miền Trung và vùng miền núi phía Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La… có tỷ lệ đói nghèo rất cao nhưng lại rất ít cơ hội thoát khỏi cảnh nghèo túng.
33
Phát triển nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ phức tạp, gồm nhiều nội dung, Đại hội IX của Đảng đã xác định: Trong những năm tới vẫn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là một trọng điểm quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận lao động nông thôn sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nhân dân và dân cư ở nông thôn.
Nội dung của chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm rất nhiều vấn đề nhưng ở đây chỉ tập trung vào hai vấn đề chính là tăng năng suất đất canh tác nông nghiệp tức là tăng năng suất cây trồng và đa dạng hoá các nguồn thu nhập cả từ nông nghiệp và phi nông nghiệp của khu vực nông thôn.
Các biện pháp tăng năng suất đát canh tác nông nghiệp
Hiện nay có khoảng 75% dân số nông thôn và 75% hộ gia đình nông thôn chủ yếu dựa vào nông – lâm – ngư nghiệp; do đó, khu vực nông thôn cũng là khu vực có tỷ lệ nghèo đói cao nhất; vì vậy, biện pháp tăng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp sẽ có tác dụng tăng khả năng xoá đói giảm nghèo ở toàn bộ khu vực nông thôn. Trong đó, tăng năng suất cây trồng là một giải pháp hữu hiệu nhất ở nước ta trong điều kiện hiện nay.
Nội dung của giải pháp tăng năng suất cây trồng hiện nay ở nước ta tập trung
vào các điểm mấu chốt sau đây:
Thứ nhất là, khẩn trương hoàn thành việc giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân sử dụng và phân bổ đều các cơ hội sử dụng các yếu tố này giữa các nhóm thu nhập, giúp điều hoà thu nhập gia đình từ sản xuất nông nghiệp. Cụ thể là:
- Giao quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân dưới nhiều hình thức thích hợp.
- Khuyến khích nông dân tự bỏ vốn và sức lao động để cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống kênh mương và giao thông nông thôn. Khuyến khích quá trình tích tụ ruộng đất hợp lý thông qua việc thực hiện quyền chuyển đổi và chuyển nhượng ruộng đất.
Thứ hai là, trang bị công nghệ, vật tư và thiết bị tiên tiến trong nông nghiệp, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, sử dụng hợp lý hơn các yếu tố đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi…), cải tiến giống và phương thức canh tác.
Thứ ba là, vấn đề khuyến nông có tác động quan trọng đến tăng sản lượng nông nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá, người nông dân rất cần có các thông tin về giá cả, dung lượng thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng, các thông tin về giống, cây trồng, phân bón và hệ thống phương pháp gieo trồng. Khuyến nông sẽ giúp cho người nông dân có các quyết định tối ưu về sử dụng các yếu tố sản xuất.
Vấn đề khuyến nông cần tập trung vào các nội dung quan trọng sau:
- Nghiên cứu hệ thống đất canh tác để thiết lập quá trình sản xuất có hiệu quả
với từng loại cây troòng khác nhau nhằm giúp nông dân lựa chọn.
- Nghiên cứu thuần dưỡng và phổ biến các loại giống cây tròng và vật nuôi có
năng suất, chất lượng cao cho các hộ gia đình.
- Triển khai các dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y tới từng thôn xóm.
34
- Hướng dẫn tiếp thị.
Đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn
Nếu chỉ dừng lại ở phát triển nông nghiệp thì mới chỉ có thể đảm bảo cho dân cư nông thôn một nguồn thu nhập hạn chế nhưng khó có khả năng đưa nông thôn trở lên giàu có; do vậy, phải thực hiện cả việc đa dạng hoá thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân.
- Tạo việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là trong lúc nguồn lao động nông thôn ngày càng dư thừa nhiều, giải quyết việc làm ở nông thôn thông qua mạng lưới ngành nghề phi nông nghiệp là một phương thức thích hợp và trên thực tế đã đem lại hiệu quả thiết thực ở nhiều nước đang phát triển. Nó không những làm tăng thu nhập cho nông dân mà còn tạo điều kiện để tái đầu tư cho nông nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
- Nếu như lao động nông thôn vừa làm ruộng vừa làm các nghề khác trong lĩnh vưc công nghiệp và dịch vụ nông thôn sẽ là hình thức tốt nhất để tăng thu nhập cho người nông dân mà không cần phải sử dụng đến các giải pháp di dân.
Những vấn đề quan trọng của việc thực hiện giải pháp đa dạng hoá thu nhập ở
Chọn các ngành nghề phù hợp cho từng vùng.
nông thôn là:
Việc chọn ngành nghề và phát triển nó là một vấn đề phức tạp. Một mặt, việc lựa chọn đó phải không ảnh hưởng đến nông nghiệp và thu nhập từ nông nghiệp; mặt khác, ngành nghề được lựa chọn phải có khả năng phát triển ổn định, mà các ngành nghề muốn phát triển ổn định phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường.
Để phát triển những ngành nghề phi nông nghiệp ta cần phải:
Thứ nhất, cần thiết phải khôi phục lại các làng nghề truyền thống. Đó là các làng nghề có quá trình phát triển từ lâu đời, việc khôi phục lại sẽ tạo điều kiện phát huy các lợi thế về tay nghề của các nghệ nhân, các nhãn hiệu truyền thống cũng như các thị trường tiêu thụ truyền thống. Bên cạnh đó cần phải mở rộng thị trường tiêu thụ, xây dựng chủng loại mẫu mã sản phẩm phong phú, đa dạng nhằm tăng giá trị sản phẩm và hiệu quả hoạt động cao.
Thứ hai, phát triển các ngành có khả năng tạo việc làm tại chỗ, tận dụng lao động dư thừa ở nông thôn trong điều kiện vốn ít và công nghệ lạc hậu, sử dụng được các loại lao động trai, gái, già, trẻ…, như các ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, sản xuất hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất phục vụ cho nông nghiệp…
35
Thứ ba, phát triển mạng lưới dịch vụ trong nông nghiệp từ dịch vụ tín dụng, bảo hiểm, cung cấp vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị, cung cấp hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, đến các dịch vụ mua bán, chế biến lương thực, thực phẩm, thuỷ sản để cung cấp trong nước và xuất khẩu kể cả các dịch vụ bảo vệ thực vật, giao thông vận tải ở nông thôn, xây dựng, sửa chữa nhà cửa.
Về hình thức tổ chức
Hình thức tổ chức để thực hiện đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn phải đảm bảo
tính chất linh hoạt tuỳ theo khả năng và trình độ tổ chức của nông dân.
Thường xuyên tham khảo và nghiên cứu các hình thức tổ chức linh hoạt của nước ngoài như Đài Loan, Trung Quốc… để tìm ra mô hình tốt cho mình, như xúc tiến việc làm, xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là các quy mô nhỏ, các trung tâm kinh tế, xã hội ở các vùng nông thôn.
Tổ chức các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản theo hướng gắn kết
Nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng ở nông thôn:
các đơn vị cung cấp nguyên liệu – sản xuất – chế biến và tiêu thụ.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn và các dịch vụ hỗ trợ sẽ giúp tăng năng xuất lao động nông nghiệp, hoà nhập vào thị trường, hỗ trợ thương mại và công nghiệp hoá nông thôn. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất cần thiết để tăng thu nhập và giảm nghèo đói, đặc biệt là đối với các khu vực ở nông thôn.
Để nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng ở nông thôn, cần phải thực hiện tốt các
định hướng sau đây:
Quan trọng nhất là phải tăng tỷ trọng đầu tư xây dựng cơ bản vào nông thôn, tăng cường đầu tư hệ thống đường xá, giao thông, thuỷ lợi, kho tàng, bến bãi và các công trình phúc lợi xã hội như hệ thông cung cấp điện, nước sinh hoạt, trường hoc, trạm y tế, khu vui chơi…
Điện khí hoá nông thôn là một nội dung quan trọng để tạo điều kiện phát triển sản xuất, dịch vụ thu mua, chế biến nông sản cũng như chuyển giao văn minh công nghiệp cho nông dân, đảm bảo 100% số xã và số hộ nông thôn được dùng điện.
Cải tiến các cơ chế tài trợ của chính quyền địa phương, cụ thể như: Các công trình có quy mô nhỏ cần địa phương tài trợ và trông giữ, các hệ thống quy mô lớn hơn vượt ra ngoài ranh giới của tỉnh thì cần được quốc gia tài trợ. Các đường nội tỉnh, huyện, xã cần được sự tài trợ, bảo dưỡng và nâng cấp bởi chính quyền được hưởng lợi từ công trình đó. Tuy vậy, hiện nay chính quyền địa phương có ít khả nănh tăng nguồn thu nhập hoặc không linh hoạt trong việc xây dựng các khoản thu được để có thể giải quyết vấn đề này. Cần phải có những sửa đổi trong hệ thống các quan hệ tài chính giữa chính quyền các địa phương hiện nay để đia phương có thể tự giải quyết được các vấn đề phát sinh tại địa phương.
3.1.2. Đổi mới chính sách đối với người nghèo:
36
Nghiên cứu miễn giảm thuế nông nghiệp cho người nghèo.
Sửa đổi các chính sách giao đất, giao rừng và xây dựng để địa phương thu hút, khai thác các nguồn vốn đầu tư liên doanh của các thành phần kinh tế tại chỗ, từ các vùng khác và từ nước ngoài.
Tiến hành điều tra, kê khai, đánh giá lại hiện trạng đất đai, điều chỉnh lại ruộng đất cho nông dân nghèo chưa có và chưa đủ đất canh tác, thu hồi phần diện tích đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính sách, đất không có hiệu quả. Tổ chức khai hoang, phục hoá mở rộng quỹ đất sản xuất, đảm bảo cho các hộ nghèo thực sự có nhu cầu và có khả năng sản xuất nhưng chưa được giao đất, hoặc giao đất chưa đủ thì được đất để sản xuất. Những vùng có ít ruộng đất, nhà nước hỗ trợ điều kiện và phương tiện sản xuất để phát triển ngành nghề dịch vụ hoặc vận động họ đến vùng kinh tế mới.
3.1.3. Phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới tài trợ xã hội cho người
nghèo
Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội tăng thu nhập mới cho người nghèo ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong số đó vẫn có một số người nghèo không tận dụng được các cơ hội này do mù chữ, thiếu kỹ năng, kém sức khoẻ và dinh dưỡng. Vì vậy, việc bảo đảm cho người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là về giáo dục, chăm sóc y tế và kế hoạch hoá gia đình, có tầm quan trọng gấp bội. Viêc bảo đảm này sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt của sự nghèo đói đồng thời cũng loại bỏ nguồn gốc của sự nghèo đói.
Nâng cao khả năng tiếp cận của người nghèo với vấn đề giáo dục
Để tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với giáo dục, cần phải giải quyết hai vấn đề là giảm chi phí cho việc đi học của người nghèo và nâng cao lợi ích của việc giáo dục, tức là tạo ra những hiệu quả thiết thực nhận được từ giáo dục của người nghèo.
Để đạt được hai vấn đề này cần phải tiến hành các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng mức độ sẵn có của giáo dục thông qua chương trình xây dựng
trường học để giảm khoảng cách từ nhà đến trường.
Thứ hai, giảm chi phí đến trường cho mỗi cá nhân của các gia đình, như xoá bỏ học phí cho các học sinh thuộc diện gia đình nghèo đói, cung cấp miến phí các khoản đóng góp xây dựng trường sở, sách giáo khoa.
37
Thứ ba, năng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo, xây dựng quy hoạch tổng thể, toàn diện phát triển giáo dục nói chung và giáo dục cho người nghèo nói riêng. Có nhiều hình thức liên quan đến nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo, trong đó cần phải nhấn mạnh các yếu tố cơ bản là những yếu tố đầu vào của việc nâng cao chất lượng giáo dục như: sách giáo khoa, xây dựng cơ sở trường hoc và bồi dưỡng cán bộ giáo viên.
Tăng cường các dịch vụ y tế cho người nghèo
Mục tiêu cơ bản của việc tăng cường các dịch vụ y tế cho người nghèo là ưu tiên phân phối các nguồn lực công cộng cho những chương trình y tế mà người nghèo có khả năng sử dụng được. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc tăng sự tiếp cận của người nghèo với các chương trình chăm sóc sức khoẻ phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề sau:
- Giảm cản trở đối với việc sử dụng các dịch vụ y tế do quãng đường đi lại xa
xôi bằng cách mở rộng mạng lưới dịch vụ y tế.
- Giảm các chi phí về dịch vụ và thuốc chữa bệnh bằng cách thông qua các
chương trình trợ cấp.
- Nâng cao chất lượng chăm sóc cho người nghèo.
3.1.4. Phát triển kinh tế gia đình, định canh, định cư và di đân kinh tế mới
Trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá, cần đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế gia đình, vì đây không chỉ là lực lượng cấu thành quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, mà còn là một con đường nhanh chóng xoá đói giảm nghèo, thực hiện chiến lược tấc đất tấc vàng, nhà nhà triệu phú. Kinh tế gia đình ở nông thôn đang phát triển theo hướng sản xuất lớn và kinh tế hàng hoá, đa dạng và phong phú. ở nhiều nơi, sản phẩm hàng hoá đã chiếm 40 - 50% sản phẩm của kinh tế gia đình.
Để góp phần phát triển mạnh kinh tế hàng hoá, xoá đói giảm nghèo, phải phát triển mạnh kinh tế gia đình, muốn vậy cần chú ý đến các vấn đề như: hướng dẫn các gia đình bố trí mặt bằng nhà cửa, bếp ăn, vườn, ao, chuồng, các công trình vệ sinh… sao cho hợp lý, vừa thuận tiện cho việc sinh hoạt, vừa dành được nhiều đất để làm kinh tế vườn. Mặt khác từ kinh nghiệm thực tiễn, hướng dẫn nhân dân xây dựng và phát triển một cơ cấu kinh tế gia đình thích hợp. Mô hình của kinh tế gia đình không chỉ là VAC mà còn là VACRT nghĩa là gồm vườn - ao - chuồng - rừng - tiểu thủ công nghiệp.
Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, đổi mới một số chính sách đối với kinh tế gia đình như chính sách đất cho nông dân làm kinh tế gia đình, chính sách cho các gia đình vay vốn, chính sách thuế, chính sách cung ứng vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, chính sách bảo hiểm sản xuất…Các vấn đề như đầu tư khoa học kỹ thuật cho kinh tế gia đình, đào tạo nghề nghiệp (nghề làm vườn, nghề làm tiểu thủ công nghiệp gia đình…), trao đổi kinh nghiệm về phát triển kinh tế gia đình… cũng cần được đặt ra một cách nghiêm túc phù hợp.
3.1.5. Tăng cường tín dụng cho người nghèo
38
Một trong những lý do quan trọng làm cho các hộ gia đình nghèo khó có thể tự mình vươn lên là thiếu vốn, thiếu các điều kiện sản xuất tối thiểu cùng với các điều
kiện sống hết sức khó khăn. Nhìn chung người nông dân bị hạn chế về vốn, do không được vay tín dụng để có thể đầu tư cho nông nghiệp. Thực tế trong những năm vừa qua nông dân nghèo ít tiếp cận được với tín dụng chính quy và phần lớn chỉ có được tín dụng phi chính quy với lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất của khu vực chính quy mà họ không được tiếp cận. Vì vậy hướng cơ bản cần phải áp dụng ở nước ta với hy vọng tạo vốn tín dụng hỗ trợ cho người nghèo là:
Đa dạng hoá các hình thức tín dụng, nhận gửi và cho vay là một giải pháp quan trọng. Tín dụng cho vay ngắn hạn, là hình thức tài trợ chủ yếu nhất của các ngân hàng nông thôn và người cho vay phi chính thức.
Thông qua các Ngân hàng thương mại, Chính phủ thực hiện các chương trình hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, góp phần hỗ trợ vốn tín dụng cho người dân trong sản xuất..
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải vừa mang tính kinh doanh, vừa mang tính chất hỗ trợ phát triển. Thống nhất các kênh rót vốn đầu tư trong và ngoài nước vào Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn để phân bổ vốn vay vào các vùng nông thôn và theo các vùng được ưu đãi một cách hợp lý.
Khuyến khích mở rộng nhiều hình thức tín dụng nông dân và các ngân hàng tư nhân ở nông thôn trên cơ sở có đăng ký và hoạt động theo luật và quy chế kiểm tra tài chính tín dụng của Nhà nước.
Xây dựng chế độ cho vay trung và dài hạn đối với sản xuất nông - lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Cụ thể là, cho vay vốn với điều kiện ưu đãi (lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, tín chấp, thời gian cho vay kéo dài từ 18 - 36 tháng) từ nguồn tín dụng của Ngân hàng phục vụ người nghèo, từ quỹ xoá đói giảm nghèo,…
Hiện nay ở nước ta bên cạnh ngân hàng chính sách, hệ thống kho bạc nhà nước cũng thực hiện một số loại tín dụng trong đó có mục tiêu phục vụ đối tượng đói nghèo, hoạt động tín dụng cho các thành viên nghèo của các tổ chức chính trị - xã hội… Ngoài ra còn có các chương trình cho vay do các ngân hàng khác thực hiện như: Ngân hành phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long thực hiện chính sách cho vay vốn phát triển nhà ở trong vùng; Ngân hàng công thương Việt Nam thực hiện chính sách cho sinh viên vay vốn học tập; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện chính sách cho vay vốn làm nhà, cho vay vốn khắc phục bão lụt, đánh bắt cá xa bờ…
3.1.6. Thực hiện có kết quả chương trình kế hoạch hoá gia đình và giảm tốc độ tăng dân số
39
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói là do sinh đẻ quá nhiều, đặc biệt là khu vực nông thôn. Việc sinh đẻ quá nhiều khiến cho những hộ gia đình không có khả năng tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và không
có khả năng thoát ra khỏi cảnh đói nghèo, lam lũ. Tỷ lệ tăng dân số cao ở nước ta đã dẫn đến một hậu quả là: tốc độ tăng của lao động tăng nhanh hơn tốc độ tăng của việc làm, do đó, lượng lao động thất nghiệp rất lớn, đặc biệt là khu vực nông nghiệp.
Hiện nay khu vực nông nghiệp chỉ cần một số lượng lao động khoảng 18 triệu người, trong khi số lao động hiện có lên tới con số 25 triệu người. Thất nghiệp là nguyên nhân của sự nghèo đói và những những người thất nghiệp thật khó có thể tìm được lối thoát ra khỏi cảnh sống cơ cực. Vì vậy, chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình là một chương trình lồng ghép quan trọng nhằm xoá đói giảm nghèo. Nói cách khác, đó là một nội dung của chương trình xoá đói giảm nghèo.
Để đạt được mục tiêu giảm tốc độ tăng dân số không nên chỉ tập chung vào các tác động trực tiếp thông qua các biện pháp kỹ thuật y tế đơn thuần, mà cần chú trọng hơn đến các giải pháp có tính chất căn bản của vấn đề. Cụ thểlà:
Nâng cao trình độ giáo dục và mức sống vật chất cho người dân; xây dựng nếp sống văn minh, tuyên truyền và xoá bỏ các tư tưởng lạc hậu, trọng nam khinh nữ và các tư tưởng phong kiến lỗi thời khác.
Thực hiện nghiêm túc các giải pháp hành chính, các nội quy, quy chế về tuổi sinh đẻ, về khoảng cách giữa các lần sinh, có các hình thức khuyến khích, khen thưởng, đồng thời có các biện pháp xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm quy chế của chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình.
3.1.7. Đặc biệt coi trọng vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán
bộ lãnh đạo, quản lý cán bộ các tỉnh, huyện miền núi và cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo
Tổ chức những điểm tập huấn với các hình thức tập huấn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp tỉnh, huyện, xã về công nghiệp hoá, hiện đại hoá kinh tế thị trường, kinh tế đối ngoại, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước và các công trình, dự án thực hiện chế độ thông tin thường xuyên và theo chuyên đề cho cán bộ miền núi.
Mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị tỉnh, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt, đương chức và kế cận ở cơ sở, cán bộ người dân tộc, củng cố các trường dân tộc nội trú của tỉnh, huyện miền núi, trường dự bị đại học dân tộc, trường dân tộc…
Tăng cường cán bộ cho cơ sở vùng sâu, vùng xa và vùng cao biên giới hải đảo, cải tiến và ban hành các chính sách, chế độ khuyến khích cán bộ lên công tác ở vùng sâu, vùng xa, cán bộ người dân tộc.
Tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo
40
các cấp và đội ngũ cộng tác viên làm công tác xoá đói giảm nghèo ở cơ sở.
3.2 – Các giải pháp góp phần xóa đói giảm nghèo cụ thể cho một số vùng
3.2.1. Xoá đói giảm nghèo ở vùng Tây Bắc
Thực tế, các tỉnh miền núi Tây Bắc hiện là khu vực có tỉ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới cao nhất cả nước (41%), thậm chí tại nhiều thôn bản vùng cao, vùng sâu tỉ lệ này còn lên tới 80%. Đáng chú ý là đồng bào Si La ở Mường Tè (Lai Châu) và Mường Nhé (Điện Biên) có thu nhập chỉ vào khoảng 250.000 đồng/người/ năm, tỉ lệ đói nghèo tới 85-90%.
Kinh tế trong vùng vẫn mang nặng tính sản xuất nhỏ, thiếu bền vững, hiệu quả thấp. Chỉ số năng lực cạnh tranh của hầu hết các địa phương trong vùng chỉ đạt xấp xỉ 40-45/100 điểm, tức là ở mức thấp nhất so với các vùng trong cả nước.
Hiện nay, toàn vùng còn trên 30% số hộ chưa được xem truyền hình, 20% số hộ chưa được nghe đài phát thanh, hơn 30% số hộ chưa có điện và trên 50% số hộ nông thôn chưa có nước sạch để sử dụng. Tại nhiều địa phương, tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi chưa được đến trường lên tới 5%, đặc biệt tại vùng cao biên giới tỉnh Lai Châu, tỉ lệ này lên tới 38%. Đây cũng là vùng còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc của xã hội như tình trạng di cư tự do, buôn bán, sử dụng trái phép chất ma tuý, tái trồng cây thuốc phiện...
Để đạt được mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở vùng Tây Bắc, cần thực hiện quy hoạch các vùng sản xuất chuyên canh cây công nghiệp, cây dược liệu gắn với phát triển cây lương thực.
Có thể mở rộng mô hình trồng chè đặc sản tại Tủa Chùa (Điện Biên), Suối Giàng (Yên Bái), Tà Xùa (Sơn La), phát triển cà phê tại Sơn La, thảo quả tại Lào Cai, mía tại Hoà Bình... gắn liền với phát triển công nghiệp chế biến, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Ngoài tập trung phát triển đàn gia súc theo hướng sản xuất hàng hoá, vùng miền núi Tây Bắc còn có thể khai thác hiệu quả diện tích mặt nước hiện có tại các hồ thuỷ điện Thác Bà, Hoà Bình... để nuôi trồng thuỷ sản. Bên cạnh đó, việc phát triển các điểm du lịch ở vùng DTTS cũng sẽ góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, bản sắc văn hoá dân tộc, lại có thể tạo việc làm, tăng thu nhập cho bà con vùng cao.
41
Bà Hoa cũng nhấn mạnh đến việc phải đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, chất lượng lao động cho vùng đồng bào DTTS Tây Bắc. Có thể mở rộng các trường dân tộc nội trú, bán trú để thu hút học sinh là người DTTS đến trường. Đồng thời, có chính sách ưu đãi cao hơn cho đội ngũ giáo viên đang công tác tại các trường vùng cao, vùng biên giới để họ yên tâm giảng dạy, gắn bó lâu dài. Đối với việc thực hiện chính sách cử tuyển học sinh là người dân tộc thiểu số, học sinh đang sinh sống tại các xã đặc biệt khó khăn thì cần tăng thêm số lượng tuyển vào các trường cao đẳng, đại học nhằm tạo nguồn cán bộ tại chỗ, lâu dài cho khu vực.
Đại diện tỉnh Sơn La nhấn mạnh vào việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là đường giao thông vùng sâu, vùng xa để tạo điều kiện cho bà con DTTS thuận lợi giao lưu, trao đổi hàng hoá, tiếp thu các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Đồng thời, trong từng giai đoạn triển khai phải xác định rõ mục tiêu cụ thể, mức đầu tư hợp lý, để tránh việc đưa ra những con số duy ý chí.
3.2.2. Xoá đói giảm nghèo cho các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
Các tỉnh Tây Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy tỷ lệ nghèo đói chưa phải cao nhất nước nhưng còn rất nan giải mang tính phức tạp, đói nghèo cao hiện nay chủ yếu tập trung ở các Buôn, Làng vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do vậy, xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ rất quan trọng, góp phần ổn định chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng. Với tiềm năng thế mạnh nhất nước cần được khai thác, phát huy để xoá nhanh đói nghèo.
Để biến những tiềm năng thế mạnh, lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và truyền thống cách mạnh hào hùng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, xoá nhanh đói nghèo, xây dựng Tây Nguyên trở thành một trong những vùng kinh tế động lực của cả nước, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc, trước hết là đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp.
Thứ nhất, các tỉnh trong khu vực cần triển khai thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, tập trung mọi cố gắng của cả Trung ương và địa phương để chủ động giải quyết cho được nguồn nước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống dân sinh, nhất là hệ thống hồ đập, kênh mương ở tất cả các vùng trong khu vực, vừa có tác dụng đảm bảo nguồn nước cho các nhà máy thuỷ điện vừa dâng cao nước mặt hồ để ổn định nguồn nước, thực tế ở nhiều vùng do thiếu nghiêm trọng hệ thống hồ đập giữ nước dẫn đến cạn kiệt nguồn nước. Mặt khác, phải tính đến khôi phục diện tích rừng đầu nguồn, mở rộng diện tích trồng điều, cao su, tăng nhanh độ che phủ và có chính sách thoả đáng để khuyến khích dân tham gia nhận khoán, khoanh nuôi bảo vệ rừng, tái sinh rừng.
42
Thứ hai, có biện pháp đồng bộ nhằm chuyển dịch nhanh cơ cấu cây trồng vật nuôi có hiệu quả kinh tế phù hợp với kiến thức của đồng bào ở khu vực Tây Nguyên, nhằm tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống. ở các buôn, làng vùng sâu, vùng xa có cán bộ xoá đói giảm nghèo, cán bộ khuyến nông để hướng dẫn giúp đỡ đồng bào trồng trọt chăn nuôi, hỗ trợ giống, vật tư, tiêu thụ sản phẩm đặc biệt sử dụng vốn vay có hiệu quả. Cần nhân rộng những mô hình, kinh nghiệm làm ăn có hiệu quả, theo phương thức cầm tay chỉ việc, thay thế các tập quán canh tác lạc hậu, những tậ tục cũ.
Thứ ba, từng bước giải quyết vấn đề đất sản xuất, hỗ trợ đồng bào cải thiện nhà ở, nhất là những gia đình nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, tạo tiền đề giúp đồng bào vươn lên xoá đói giảm nghèo bền vững. Đối với gia đình còn thuộc diện nghèo, ruộng đất không nhiều cần hướng vào trồng cây lương thực, thực phẩm, ngô khoai, sắn, đậu đỗ các loại gắn với chăn nuôi trâu, bò để đồng bào có thu nhập ổn định xoá nghèo bền vững.
Thứ tư, nhanh chóng xây dựng và kiện toàn đôi ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ buôn, làng có trình độ năng lực, có kiến thức khoa học kỹ thuật để lãnh đạo, điều hành công việc ở cơ sở; có chính sách khuyến khích cán bộ trẻ, trí thức tình nguyện về các xã, buôn, làng nghèo giúp dân xoá đói giảm nghèo. Phát triển các trường nghề, cơ sở dạy nghề để đáp ứng nhu cầu học nghề của thanh niên nông thôn, thanh niên dân tộc góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, khai thác được những tiềm năng thế mạnh ở các tỉnh Tây Nguyên. Đồng thời hướng vào giải quyết cho được những vấn đề xã hôi bức xúc, phát huy bản sắc văn hoá đa dạng phong phú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
3.3. Một số giải pháp khác
Ngoài các giải pháp trên chúng ta có thể bổ xung thêm một số giải pháp sau:
Một là, nghiên cứu viết giáo trình (xuất bản sách), hướng dẫn kế hoạch làm ăn
cho hộ nông dân đói nghèo (gồm lập và thực hiên) nhằm mục đích:
+ Hướng dẫn cho hộ nông dân nghèo hiểu và biết cách lập kế hoạch làm ăn để
tự xoá đói giảm nghèo một cách bền vững.
+ Để các tổ chức Đảng, nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội các cấp có cơ
sở giúp đỡ, kiểm tra theo kế hoạch làm ăn xoá đói giảm nghèo của hộ.
+ Để có cơ sở kiến nghị hoàn thiện chính sách vĩ mô và vi mô nhằm thực hiện có kết quả chương trìnhquốc gia xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Đây là phương pháp tốt để từng nông hộ đói nghèo kết hợp việc cứu mình và sự giúp đỡ của chính quyền đoàn thẻ (vì thông qua kế hoạch làm ăn từng vụ, từng năm mà tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra uốn nắn giúp các hộ đói nghèo làm ăn có hiệu quả và bảo đảm hoàn trả vốn, lãi vay cho Nhà nước), bảo đảm xoá đói giảm nghèo bền vững. Thực chất nó là một dự án thực hiện chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo quan trọng nhất, có hiệu quả trực tiếp nhất. Nếu được Đảng và ban chủ nhiệm chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo quan tâm tạo điều kiên đúng mức, hướng tới chúng ta có thể đưa những vấn đề nêu trên vào giảng dạy ở một số trường thích hợp như là một môn học hướng nghiệp để từ đó đồng thời giúp học sinh có thể giúp đỡ gia đình lập kế hoạch làm ăn ngày một tốt hơn, có hiệu quả hơn.
43
Hai là, với vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trình độ dân trí còn thấp, chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự nhiên, thường có diện đói nghèo lớn, và là những
địa bàn xung yếu về quốc phòng do đó cần lập dự án: xây dựng khu dân cư kết hợp kinh tế xoá đói giảm nghèo bền vững với giữ vững an ninh quốc phòng.
Ba là, ở rộng hợp tác quốc tế về xoá đói giảm nghèo, nhất là phương pháp tiếp
44
cận, chọn tìm những yếu tố, cách làm hiệu quả của từng dự án, từng chính sách, cơ chế và nguồn lực, kỹ thuật, thông tin. Thành tựu về xoá đói giảm nghèo góp phần thuyết phục và mở rộng hợp tác quốc tế theo chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
KẾT LUẬN
Tăng trưởng kinh tế là nhân tố hàng đầu, quyết định sự thành công của việc
nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, quản lý kinh tế, xã hội, mục tiêu đạt được tăng trưởng kinh tế cao luôn là tâm điểm chú ý của mọi thành viên trong xã hội và đôi khi chúng ta chưa thực sự để ý đến mặt trái của tăng trưởng kinh tế tác động như thế nào đến vấn đề xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội.
Thông qua việc nghiên cứu ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xóa đói, giảm nghèo và công bằng xã hội, nhóm nghiên cứu đã hoàn thành những nội dung sau:
Hệ thống hoá được những lý luận về mối liên hệ giữa Tăng trưởng kinh tế
với vấn đề xoá đói, giảm nghèo và công bằng xã hội .
Nêu được tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói, giảm nghèo và công bằng xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001 – 2007.
Phân tích tình trạng gia tăng phân hoá giàu nghèo của Việt Nam trong thời
gian qua.
45
Đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song đồng thời có sự liên kết với việc đảm bảo chất lượng của hoạt động xoá đói, giảm nghèo và tạo công bằng xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Ngô Thắng Lợi, TS. Phan Thị Nhiệm, Giáo trình Kinh tế phát triển,
Nhà xuất bản Lao động- Xã hội, năm 2008.
2. TS. Phan Thị Nhiệm, Phần thứ nhất – Lý luận về phát triển và phát triển bền vững nền kinh tế, Bài giảng môn Kinh tế Phát triển dành cho chương trình cao học kinh tế.
3. Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê Việt Nam 2003, NXB Thống kê – Hà
Nội, 2004.
4. Tổng cục thống kê, Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng, http://www.gso.gov.vn/ default.aspx?tabid=395&idmid=3&ItemID=7674
5. Tổng cục Thống kê, Tỷ lệ nghèo chung và nghèo lương thực, thực phẩm phân http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=395&idmid=3&
vùng, theo ItemID=7672
6. Tổng cục Thống kê, Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế
phân theo năm nhóm thu nhập, Điều tra mức sống năm 2002 - 2006
7. Tổng cục Thống kê, Chi tiêu bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế
phân theo năm nhóm thu nhập, Điều tra mức sống năm 2002 – 2006
8. Tổng cục Thống kê, Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, NXB
Thống kê – Hà Nội, 2004
9. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Công bằng xã hội và công bằng phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay, Trung tâm Thông tin – Tư liệu.
10. TS. Đỗ Thiên Kính, Bất bình đẳng ở Việt Nam - Khoảng cách lớn như thế nào? Viện Xã hội học, http://www.ipsard.gov.vn/news/newsdetail.asp?target ID=2244
11. TS. Bùi Hà, Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, tạo tiền đề vững
46
chắc cho xoá đói giảm nghèo, Bộ Kế hoạch và đầu tư.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................... 2
CHƯƠNG I: MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI................ 4
1.1 Tăng trưởng kinh tế ................................................................................ 4
1.1.1 Khái niệm ......................................................................................... 4 1.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng kinh tế ........................................ 4
1.2. Nghèo, đói và công bằng xã hội: ........................................................... 4
1.2.1. Bản chất của nghèo, đói: .................................................................. 4
1.2.2. Thước đo nghèo ............................................................................... 5 1.2.3. Công bằng xã hội ............................................................................. 5
1.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và công bằng
xã hội ........................................................................................................... 6
1.3.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo......... 6
1.3.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội .............. 7 CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐẾN
VẤN ĐỀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI THỜI KỲ 2001 – 2007 ....................................... 9
2.1. Ảnh hưởng tích cực của tăng trưởng kinh tế đến vấn đề xoá đói, giảm
nghèo và công bằng xã hội ........................................................................... 9
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần thúc đẩy quá trình xoá đói, giảm nghèo. ....................................................................................................... 9
2.1.2. Thu nhập – chi tiêu thực tế theo đầu người ngày càng tăng. .......... 15
2.1.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội: 18
2.2. Ảnh hưởng của Tăng trưởng kinh tế đến vấn đề phân hoá giàu nghèo ở
Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2007....................................................... 21
2.2.1. Gia tăng khoảng cách thu nhập và chi tiêu giữa nhóm người có thu
nhập thấp nhất và nhóm người có thu nhập cao nhất ............................... 21
2.2.2. Sự gia tăng khoảng cách thu nhập giữa các vùng miền. ................. 24
2.2.3. Tình hình nghèo đói của các vùng miền trong cả nước. ................ 26
2.2.4. Sự gia tăng các chỉ số đo lường sự bất bình đẳng........................... 29
2.2.5. Vấn đề phân bổ nguồn vốn đầu tư và sự gia tăng phân hoá giàu
nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2007. ..................................... 31
47
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO,
CÔNG BẰNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM .................... 33
3.1. Các giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn..................... 33
3.1.1. Phát triển nông nghiệp nông thôn .................................................. 33
3.1.2. Đổi mới chính sách đối với người nghèo: ...................................... 36
3.1.3. Phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới tài trợ xã hội cho người nghèo ...................................................................................................... 37
3.1.4. Phát triển kinh tế gia đình, định canh, định cư và di đân kinh tế mới
................................................................................................................ 38
3.1.5. Tăng cường tín dụng cho người nghèo .......................................... 38
3.1.6. Thực hiện có kết quả chương trình kế hoạch hoá gia đình và giảm tốc độ tăng dân số .................................................................................... 39
3.1.7. Đặc biệt coi trọng vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán
bộ lãnh đạo, quản lý cán bộ các tỉnh, huyện miền núi và cán bộ làm công
tác xoá đói giảm nghèo ............................................................................ 40 3.2 – Các giải pháp góp phần xóa đói giảm nghèo cụ thể cho một số vùng 41
3.2.1. Xoá đói giảm nghèo ở vùng Tây Bắc ............................................. 41
3.2.2. Xoá đói giảm nghèo cho các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên ......... 42
3.3. Một số giải pháp khác ........................................................................ 43 KẾT LUẬN ......................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................... 46
48