Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Tác phẩm "Hán Sở tranh hùng"
lượt xem 3
download
Bài giảng cung cấp cho người học các kiến thức: Tác phẩm "Hán Sở tranh hùng", vị thế chính trị, bối cảnh lịch sử,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Tác phẩm "Hán Sở tranh hùng"
- ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM TRƯỜNG CAO ĐẴNG PHÁT THANH- TRUYỀN HÌNH II
- I. Về tác phẩm Hán Sở tranh hùng: Hán Sở tranh hùng trong văn học vốn có tên là Tây Hán chí. Mộng Bình Sơn dịch có 48 hồi, XNB Trẻ TP Hồ Chí Minh xuất bản năm 1989, từ đó tới nay tái bản nhiều lần và một bản khác ít người biết tới Thanh Phong dịch, có tên là "Tây Hớn" có 100 hồi do NXB Đồng Tháp ấn hành năm 1993 Nhưng cả hai bản này đều không ghi tác giả nguyên tác chữ Hán là ai.
- Gần đây, mới có một bản Hán Sở tranh hùng khác do TP Hồ Chí Minh xuất bản mới khi rõ ở phía trên cùng của bìa tác phẩm này là "Khuyết danh", tức là không rõ tên tác giả. Giữa hai bản 48 hồi của dịch giả Mộng Bình Sơn và 100 hồi của dịch giả Thanh Phong có sự khác biệt khá nhiều. Bản 48 hồi chỉ kể từ khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi đến khi Lưu Bang chết. Bản 100 hồi kể từ cuối thời Chiến Quốc, từ khi Thủy Hoàng ra đời đến khi Lưu Bang chết.
- NỘI DUNG: Hán Sở tranh hùng, Sở Hán chiến tranh, Sở Hán tương tranh hay Sở Hán Xuân Thu, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở Trung Hoa. Trong thời kỳ này, các vị vương từ các đất khác nhau ở Trung Hoa đã xuất hiện sau sự sụp đổ của nhà Tần và tạo nên hai phái kình địch nhau rõ rệt. Một bên do Lưu Bang , vua nhà Hán lãnh đạo, còn bên kia do Hạng Vũ , tự xưng Tây Sở bá vương. Một vài vị vương khác có uy lực thấp hơn cũng có nghĩa quân đánh nhau độc lập trong thời gian này. Cuộc chiến đã kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về Lưu Bang, người sau này đã lên ngôi hoàng đế và thiết lập nên nhà Hán.
- Hán Sở (Những nhân vật chữ (Những nhân vật chữ nghiêng từ Sở sang theo nghiêng từng sang theo Hán) Hán) Lưu Bang Hạng Vũ Trương Lương Phạm Tăng Tiêu Hà Quý Bố Hàn Tín Anh Bố Trần Bình Chương Hàm Bành Việt Tư Mã Hân Lư Quán Đổng Ế Hạ Hầu Anh Chung Ly Muội Phàn Khoái Hạng Bá Tào Tham
- 1. Căn nguyên của cuộc chiến Năm 221 TCN, nhà Tần đã thôn tính các nước chư hầu phía đông để thống nhất một Trung Hoa đầu tiên. Tuy nhiên, sự thống nhất chính trị chưa mang lại kết quả ngay lập tức trong việc hợp nhất những người dân từ những nước khác nhau trên đất Trung Hoa. Ở một vài nước nhỏ cũ, sự mong muốn độc lập của những nước này vẫn còn. Đây không phải là vấn đề lớn làm cho nhà Tần thường xuyên phải củng cố vai trò thống trị của mình trong một thời gian dài ở Trung Hoa.
- Tuy nhiên, luật pháp hà khắc nhà Tần đã không được phần lớn nhân dân ủng hộ và chấp nhận. Khi Tần Thủy Hoàng còn sống, do uy vũ của ông quá lớn nên những người chống đối dù rất uất hận nhưng cũng chỉ dừng lại ở những hành động ám sát, song đều không thành. Sau khi Thủy Hoàng qua đời, con là Nhị Thế vốn đã không có đủ uy tín lại thi hành chính sách tàn bạo hơn cha. Vì thế ngay lập tức dân nghèo đã nổi dậy và người đầu tiên phất cờ chống Tần là Trần Thắng (năm 209 TCN). Nhiều nơi đã nổi dậy khởi nghĩa hưởng ứng và nhà Tần đã nhanh chóng sụp đổ chỉ sau 15 năm hợp nhất.
- Khi nhà Tần sụp đổ, nhiều nhóm nghĩa quân đã tập hợp những người dân địa phương lại để ủng hộ họ dưới ngọn cờ của nước cũ. Kết quả là Trung Hoa khi đó lại bị chia thành nhiều nước nhỏ, nhiều nước vẫn giữ tên từ thời Chiến Quốc với lãnh tụ thường là những người từ các gia đình quý tộc cũ. Vào thời gian này, tương lai của Trung Hoa vẫn rất mờ mịt. Một vài người, đặc biệt là hậu duệ của những gia đình quyền lực của những nước chư hầu cũ thời Chiến Quốc cho rằng, một Chiến Quốc mới rất có thể lại xuất hiện và Trung Hoa lại có thể bị chia cắt bởi những vương triều khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn người dân đã rất mệt mỏi vì những cuộc chiến liên miên và hy vọng vào một lực lượng mạnh mẽ có thể kết thúc chiến tranh.
- Trong số các vị vương này thì người mạnh nhất là Hạng Vũ, người lãnh đạo quân đội nước Sở, và cũng được sự khâm phục của nhiều nhóm quân khác sau trận Cự Lộc và trở thành người lãnh đạo các nhóm quân, mặc dù quyền lực của nước Sở trên danh nghĩa vẫn nằm trong tay Sở Nghĩa Đế. Năm 206 TCN, định mệnh của Trung Hoa gần như đã nằm trong tay của Hạng Vũ. Tuy nhiên, mặc dù là một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, Hạng Vũ vẫn là người thiếu khả năng về chính trị. Khi đã có vị trí trong việc tạo dựng cơ đồ mới sau nhà Tần, Hạng Vũ đã mắc một số sai lầm sau:
- Thứ nhất, sau khi bức hàng số đông quân đội Tần (khoảng 200.000 quân) Hạng Vũ đã nhẫn tâm tàn sát tất cả bọn họ. Phần lớn trong số họ đến từ đất Quan Trung nước Tần. Với việc làm này, Hạng Vũ đã làm cho dân chúng ở Quan Trung căm ghét, và sau này họ đã quay sang ủng hộ cho Lưu Bang trong cuộc chiến chống lại Hạng Vũ. Thứ hai, Hạng Vũ đã giết Sở Nghĩa Đế (Sở Hoài Vương), người lãnh đạo trên danh nghĩa của cuộc khởi nghĩa chống Tần. Với việc làm này, Hạng Vũ đã bị mắc tội giết vua. Điều này làm cho nhiều người quay sang chống lại ông.
- Thứ ba, Hạng Vũ đã đánh giá thấp sự nguy hiểm của Lưu Bang. Mặc dù đã có cơ hội để trừ bỏ Lưu Bang, quân sư Phạm Tăng cũng thúc giục, nhưng Hạng Vũ đã không làm. Thứ tư, Hạng Vũ đã ưu tiên ban thưởng cho những người trực tiếp theo mình đánh Tần; đối xử kém hơn với những người có công đánh Tần nhưng không quy phục mình. Điều này làm nhiều thủ lĩnh nghĩa quân và dòng dõi chư hầu cũ tức giận. Một vài vị vương khác đã sớm bất bình chống lại ông. Những người này về sau cũng quay sang bên Lưu Bang để chống lại ông. Lý do cuối cùng là lý do trực tiếp gây ra Hán Sở tranh hùng.
- 1. Vị thế chính trị khi bắt đầu cuộc chiến Năm 206 TCN, triều đại nhà Tần chấm dứt. Trong chiến tranh chống Tần, các quốc gia thời Chiến Quốc cũ: Tề, Sở , Yên, Hàn, Triệu, Ngụy được tái lập để làm liên minh đánh Tần hùng mạnh. Tuy nhiên từng quốc gia lại theo đuổi mục đích riêng, giữa các nước này và trong nội bộ một số nước cũng hình thành mâu thuẫn giữa các lực lượng mới thành lập.
- Tại nước Tề, khi Trần Thắng nổi dậy thì người trong họ xa của vua Tề trước kia là Điền Đam hưởng ứng, tự lập làm Tề vương. Khi Điền Đam đi cứu Ngụy bị tử trận, người trong nước lập em Tề vương Kiến là Điền Giả lên ngôi. Em Điền Đam là Điền Vinh mang quân về đánh đuổi Điền Giả, lập con Đam là Thị lên ngôi Tề vương. Giả chạy sang Sở. Hạng Lương kêu gọi Tề hội quân đánh Tần, Vinh ra điều kiện Sở phải giết Giả. Hạng Lương không nghe nên Điền Vinh không chịu ra quân.
- Tại Ngụy, sau khi Ngụy vương Cữu chống Tần chết , em là Báo chạy sang Sở, được Hạng Lương giúp quân về lấy lại đất Nguỵ. Nhưng Báo không theo giúp Hạng Vũ đánh quân chủ lực của Tần. Tại Triệu, sau khi được Hạng Vũ giải vây ở trận Cự Lộc, hai tướng chủ chốt là Trương Nhĩ và Trần Dư mâu thuẫn vì Nhĩ cho rằng Dư không hết sức cứu viện cho thành bị vây ngặt. Mặt khác, các tướng Tư Mã Ngang, Thân Dương cũng theo Trương Nhĩ, tách khỏi quân Triệu vương Yết, tự nhập theo quân tây tiến của Hạng Vũ để tiến thân.
- Tại Yên, Hàn Quảng vốn theo lệnh của Triệu vương Vũ Thần là người khởi nghĩa đầu tiên theo Trần Thắng đi lấy Yên, được người Yên tôn lập. Quảng không hưởng ứng Hạng Vũ nhưng tướng Yên là Tang Đồ cũng tự mang quân bản bộ theo Sở. Chỉ có nước Hàn nhỏ yếu nhất và ít tham vọng nhất, Hàn Thành là dòng dõi nước Hàn được con cháu công thần cũ là Trương Lương tái lập và được nước Sở (Hạng Lương) hỗ trợ quân về đánh Tần lấy lại nước Hàn nhưng gặp nhiều khó khăn. Hàn vương để tướng tài Trương Lương đi giúp Lưu Bang nên Bang vào Quan Trung trước, do đó Hạng Vũ không bằng lòng với vua Hàn.
- Nước Sở là lực lượng đánh Tần mạnh nhất, giữa các tướng cũng có sự cạnh tranh. Theo lời giao ước của Sở Hoài vương, người nào trong số các vương dẫn quân vào được Quan Trungtrước, thì sẽ được làm vua Quan Trung. Hoài vương nghe theo lời một số bề tôi thân cận, sai Lưu Bang đi thẳng đường phía tây vào Tần, không gặp các cánh quân mạnh, còn Hạng Vũ thì đi đường phía bắc, phải đối phó với quân chủ lực của Tần do Chương Hàm chỉ huy. Mặt khác, Hạng Vũ lại chỉ được làm phó tướng cho Tống Nghĩa, bị Nghĩa ghìm quân 46 ngày bất động nên quân Sở đi càng chậm. Kết quả Lưu Bang tiến vào Hàm Dương trước. Mọi người ở thành Hàm Dương đều ủng hộ Lưu Bang, vì ông cũng đã đối xử với họ công bằng và nhân từ hơn nhà Tần trước kia. Hơn 1 tháng sau Hạng Vũ dẫn đại quân hùng hậu vào thành Hàm Dương gặp Lưu Bang, Lưu Bang thấy rằng khó có thể chống đối được nên đã nhượng bộ rút lui.
- 1. Sự phân phong của Hạng Vũ: Hạng Vũ vào Hàm Dương, giết vua Tần đã hàng là Tử Anh, đốt cung A Phòng còn xây dở. Dòng họ nhà Tần và dân Tần bị giết rất nhiều khiến họ thất vọng. Hạng Vũ phân phong chư hầu như sau: Chương Hàm làm Ung Vương, cai trị từ Hàm Dương sang phía tây, đóng đô ở Phế Khâu. Trưởng sử Tư Mã Hân xưa làm quan coi ngục ở Lịch Dương vốn có ơn với Hạng Lương; nên Tư Mã Hân được lập làm Tắc vương, cai trị từ phía đông Hàm Dương cho đến sông Hoàng Hà, đóng đô ở Lịch Dương.
- Đô úy Đổng Ế trước đã khuyên Chương Hàm đầu hàng nước Sở, cho nên Đổng Ế được làm Địch vương, cai trị đất Thượng Quận, đóng đô ở Cáo Nô Đổi Ngụy vương là Ngụy Báo làm Tây Ngụy vương, cai trị đất Hà Đông, đóng đô ở Bình Dương. Thân Dương ở Hà Khâu là thủ hạ tin cậy của Trương Nhĩ, đã lấy được quận Hà Nam, và đóng quân Sở trên Hoàng Hà, cho nên được lập làm Hà Nam vương, đóng đô ở Lạc Dương. Hàn vương tên là Thành vẫn ở đất cũ, đóng đô ở Dương Định. Tướng nước Triệu là Tư Mã Ngang đã lấy được Hà Nội và đã có nhiều lần lập công, cho nên được lập làm Ân vương, cai trị đất Hà Nội, đóng đô ở Triều Ca. Đổi Triệu Vương Yết làm Đại vương.
- Thừa tướng nước Triệu là Trương Nhĩ theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Thường Sơn vương cai trị đất Triệu đóng đô ở Tương Quốc. Đương Dương quân Anh Bố làm tướng nước Sở, thường lập công đầu trong quân đội, cho nên được lập làm Cửu giang vương, đóng đô ở Lục Ngô Nhuế làm lệnh ở Bà Dương, thường đốc suất Bách Việt để giúp chư hầu, lại theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Hành Sơn vương, đóng đô ở đất Trâu. Cung Ngao làm trụ quốc nước Sở được phong làm Lâm Giang vương, đóng đô ở Giang Lăng. Đổi Yên vương Hàn Quảng làm Liêu Đông vương.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm)
30 p | 32 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Phát biểu theo chủ đề - Trường THPT Bình Chánh
31 p | 12 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Người lái đò sông Đà - Trường THPT Bình Chánh
23 p | 10 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Bài thơ Đất nước (Trích Mặt trường ca khát vọng) - Trường THPT Bình Chánh
76 p | 11 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Thực hành Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận - Trường THPT Bình Chánh
18 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Quá trình văn học và phong cách văn học - Trường THPT Bình Chánh
28 p | 9 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Phong cách ngôn ngữ khoa học - Trường THPT Bình Chánh
17 p | 15 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học - Trường THPT Bình Chánh
20 p | 12 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Luật thơ - Trường THPT Bình Chánh
21 p | 11 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ XX - Trường THPT Bình Chánh
30 p | 10 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận - Trường THPT Bình Chánh
21 p | 7 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông - Trường THPT Bình Chánh
49 p | 10 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Bài thơ Tây Tiến - GV. Hoàng Nhung
11 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
15 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Thực hành một số phép tu từ ngữ âm - Trường THPT Bình Chánh
8 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh
17 p | 17 | 2
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Phong cách ngôn ngữ khoa học
19 p | 9 | 2
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
23 p | 13 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn