intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Văn học châu Á

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: PPTX | Số trang:101

98
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng cung cấp cho người học các kiến thức: Văn học châu Á, sơ lược lịch sử, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ấn Độ 1857 - 1859, phong trào dân tộc Ấn 1858 - 1918, Ấn Độ cận hiện đại,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài giảng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Văn học châu Á

  1. ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM TRƯỜNG CAO ĐẲNG PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH II
  2. VĂN HỌC CHÂU Á 2 BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 6: HỨA THỊ HIÊN PHAN THỊ HOÀI THANH TRẦN THỊ BÍCH KIỀU
  3. A. ẤN ĐỘ I. ĐỊA LÍ           Ấn Độ là đất nước rộng lớn và  đông  dân ở miền Nam Á, phía bắc có dãy  núi Himallahya hùng  vĩ được ví là ” lâu  đài tuyết trắng”, “bông sen trắng vĩ  đại”, “nóc nhà  của thế  giới”. Đi dần   xuống phía nam   qua   hai  lưu  vực   sông  Ấn  (Indus)  và  sông   Hằng  (Gange) phì nhiêu được gọi  là châu  thổ “đất  vàng”. Đi tiếp gặp dãy núi  Vindehia với cao nguyên Decan rộng   lớn tiếp giáp núi  Gat chạy dài xuống  bờ biển  Ấn Độ dương  ngập tràn ánh   nắng mang hình vòng cung tới gần  hòn đảo Sri Lanka.
  4. C LỊCH SỬ ­ Có 4 giai đoạn         Sơ lược lịch sử Ấn Độ cận  hiện đại. Sự  Năm 1947  xâm nhập  Ấn Độ giành  của Tây  lại quyền  phương kéo  Cuộc khởi  độc lập  dài từ 1500  nghĩa của  Phong trào dân  đến 1857. nhân dân Ấn  tộc Ấn 1858­1918 Độ 1857­1859 
  5.     THÀNH TỰU VĂN HỌC TÔN GIÁO CHỮ  NGHỆ  VIẾT THUẬT ĐẠO  MAHABH RAMAY ẤN  ĐẠO  BÀ  ĐẠO  ARATA ANA ĐỘ   PHẬT LA  GIÊN MÔN GIÁO
  6. II. VĂN HỌC ẤN ĐỘ 1. PHÂN KÌ VĂN HỌC      a. Thời đại Veda  từ 1500 đến 600 tr CN     “Veda” – tên của tác phẩm văn chương đồng thời là tác phẩm tôn giáo  đầu tiên thường được dùng để gọi tên thời bình minh của văn học Ấn. Thời kỳ này, văn minh Ấn Độ nảy nở giữa rừng xanh. Các rishi (thi  nhân, thấu thị) đã đi từ thế giới cảm quan sinh động tới những lĩnh vực  trừu tượng siêu hình và cuối cùng đạt đến kết luận về sự đồng nhất và  hợp nhất giữa linh hồn con người và linh hồn vũ trụ. Thần thoại đã xuất  hiện trước tiên (trong các kinh Veda, chủ yếu là Rig Veda) rồi sau đó là  văn chương – triết học (trong các kinh Upanishad). Ngôn ngữ Sanskrit từ  giai đoạn đầu tiên còn hết sức cổ sơ (mà nhiều học giả gọi là giai đoạn  ngôn ngữ Veda) đã ngày càng được rèn giũa và tăng cường hiệu quả  trong luận giải và thuyết giảng.
  7. b.Thời sử thi và Phật giáo từ  600 tr CN đến thế kỷ IV      Nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên  chứng kiến sự hình thành lần lượt các sử thi lớn nhất  của Ấn Độ. Các sử thi đã phản ánh hiện thực lịch sử  của thời kỳ hình thành, phát triển của những vương  quốc lớn ở Ấn Độ và xung đột, chiến tranh giữa  chúng. Hai sử thi sanskrit : Mahabharata và Ramayana  có dung lượng lớn hơn, tầm phổ biến và ảnh hưởng  rộng rãi hơn. Chúng cũng thuộc về các tác phẩm kinh  điển của đạo Bà  la môn nhưng có tính văn chương,  tính trần thế đậm đà hơn Veda, Upanishad  nhiều.
  8. VI               Đây  là  thời  kỳ  có  những  triều  đại  phong  kiến phát triển thịnh vượng về mọi mặt. Cũng  là  thời  phục  hưng  của  tinh  thần  truyền  thống:  đạo  Bàlamôn phát triển  đến  giai  đoạn  cổ  điển  thành đạo Hindu. Văn học cung đình bằng tiếng  Sanskrit nảy nở cực độ, để lại nhiều thành tựu  có  vẻ  đẹp  mẫu  mực,  kinh  điển  trong  mọi  thể  loại. Trong đó nổi bật lên Kal
  9. 2.Văn học trung đại  (từ khoảng thế kỷ X đến thế kỷ  XVIII) Hồi giáo xâm nhập và sự hỗn dung Hindu giáo –  Hồi giáo đã khiến cho văn học trung đại phát  triển mạnh thơ ca sùng tín. Các bhakta (thi nhân  – sùng tín) dâng tình yêu lên Đấng Tối Cao với  niềm tin đạt đến hợp nhất với Đấng Tối Cao  trong tình yêu và bằng tình yêu (bhakta) chứ  không phải tri thức (jnana) hay hành động  (karma). Tinh thần tự do, cởi mở nên hình thức  cũng phóng khoáng. Thơ ca sùng tín nở rộ phong  phú trong khắp các phương ngữ, cả ngữ hệ  Arian lẫn ngữ hệ Dravidian, chấm dứt thời kỳ  độc tôn của Sanskrit.
  10. 3. Văn học cận hiện đại  (từ thế kỷ XVIII đến nay) Bị phương Tây nhòm ngó và cuối cùng bị đặt dưới  sự đô hộ của thực dân Anh, Ấn Độ phải đấu tranh  dài lâu để cuối cùng giành lại độc lập. Đây là thời  kỳ Ấn Độ phát triển chủ nghĩa dân tộc, đồng thời  mở rộng ra quốc tế. Văn học Ấn Độ đã thực hiện  sự tổng hợp Đông – Tây để phát triển đến một  trình độ mới. Đại diện xuất sắc nhất, Rabindranath  Tagore, “kỳ công thứ hai” của văn học Ấn, đạt giải  Nobel văn chương vào năm 1913 đã đưa Ấn Độ tới  một  địa vị  rõ ràng hơn trong bối cảnh chung của  văn học thế giới thế kỷ XX .
  11. THẦN THOẠI ẤN ĐỘ
  12. chủng tộc,   nhiều  địa phương  kế thừa  lẫn nhau trong quá trình phát  triển đất nước. Đó  là một thế giới thần  thoại kì ảo, được giữ trong  các tập sách Veda, Brahmana, Upanisand,  Purana, Phật thoại Budda…  2. HỆ  THỐNG THẦN THOẠI  RIG VEDA  a. Nhóm thần vũ trụ­thiên nhiên     Nổi bật: Dyaus (thần trời), Addidi (mẹ đất)
  13. THẦN GIÓ THẦN GIÓ THẦN SẤM
  14.   b. Nhóm thần sáng tạo thế giới và thủy tổ loài người  Thần thoại Ấn Độ  miêu  tả  một  số  mẫu người sáng thế như Toastr (thần Rèn),   Burusa ( người khổng lồ ),  thần Manu (thần Nguyên  thuỷ , thủy tổ loài người ) … Kể về thần Manu  Buổi sáng kia, Manu rửa tay trong dòng nước,  bỗng thấy có con cá bơi tới,   Manu bắt lấy  – cá nói  “Hãy nuôi ta  rồi có ngày ta sẽ cứu sống người. Sắp  đến  ngày  xảy ra nạn hồng thuỷ, lúc đó ta sẽ cứu người thoát chết “. Manu bỏ cá  nuôi trong  chậu. Cá  lớn nhanh.  Manu chuyển cá sang thùng, rồi  sang hồ,  từ hồ chuyển sang sông Hằng,  từ đó ra biển, ca cứ lớn mãi. Theo lời  cá,   Manu đóng sẵn một con thuyền. Khi cơn lũ lụt xãy ra,  Manu gọi cá và ngồi  vào thuyền. Manu buộc thuyền vào mõm cá. Cá  đưa thuyền vượt  qua dãy núi   HimAllahya đến ngọn núi cao nhất. Theo lời cá dặn, Manu buộc thuyền vào gốc  cây, ngồi chờ nước rút. Sau khi nước rút,  mặt đất trơ trọi, không một sinh vật  nào sống sót. Manu thèm khát có đồng loại bèn cầu nguyện Brahma, một cô gái  xuất hiện. Hai người ăn ở chung chạ, cùng lao động sinh sống và sinh hạ một  đứa con trai.
  15. . Nhóm thần tinh thần – tình cảm – thần tình yêu Kama  Thần KAMA và UMA THẦN SIVA
  16. KẾT LUẬN Thần thoại Ấn  Độ phong phú, chan chứa chất trữ tình và tinh  thần nhân đạo sâu  sắc – đó là  truyền thống bất hủ  của văn học  nghệ thuật Ấn  Độ. Từ giai đoạn anh hùng ca về sau đến thế kỷ  XX, các thế hệ văn  nghệ sĩ Ấn  Độ luôn luôn  lấy đề tài  thần  thoại và mượn nó  làm phương  tiện miêu  tả. Các  nhà thơ lớn  như Kalidasa ở thế kỷ thứ V, Kabia ở thế kỷ XV­XVI, Tunxidat  ở thế kỷ XVI­XVII, R.Tagore (1861­1941) vv…đã vận dụng thần  thoại để miêu tả và đề cao cuộc sống tình yêu,  đất nước giàu   đẹp và nhân dân lao động nghèo khổ của mình,  sáng tạo ra nhiều  tác phẩm văn học xuất sắc. Trái lại, thứ văn học tôn giáo ngày càng mờ nhạt và bị lãng quên  trong thế giới huyền bí, hư vô. Thần thoại Ấn Độ cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam. Câu  chuyện “Dạ thoa vương” trong cuốn “Lĩnh nam  chích quái” chịu  ảnh hưởng motif  quỉ vương Ravana của thần thoại Ấn Độ.
  17. SỬ THI ẤN ĐỘ
  18. SỬ THI  RAMAYANA
  19.                                1. Vài nét về tác phẩm Ramayana, thiên anh hùng  ca vĩ đại  ra đời khoảng  bốn,  năm trăm năm trước  công nguyên, được  ghi lại  thành  văn  bản vào đầu công nguyên. Bộ sách bằng tiếng  Sanskrit, gồm 500 đoạn chia  thành  12 cuốn gồm 24000 câu thơ đôi(sloka) Ở Ấn Độ, Ramayana còn được soạn ra nhiều thứ tiếng  dân tộc, cải biên thành tuồng kịch, ca,  múa và các hình  thức nghệ thuật khác.  Ramayana đã được phổ  biến đến nhiều nước ở  Đông  Nam Á. Có nước đã mượn cốt truyện để  sáng tác ra  những truyện  mang mầu sắc riêng của dân tộc mình như  truyện Rama Kiên ở Thái Lan, Riêmkê ở Cam pu chia,  Phallahk Phallahm ở Lào,   Ramayana  của đân tộc Chăm 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2