intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận đề tài: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ngành dệt may

Chia sẻ: PHAN VŨ NGUYÊN TRÀ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:30

1.010
lượt xem
74
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhiều năm qua, dệt may là ngành “tiên phong” trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra thị trường thế giới, thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn. Ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao. Thành quả này là nhờ Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào, khéo tay; chi phí lao động thấp, các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng và giữ được chữ tín trong kinh doanh với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận đề tài: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ngành dệt may

  1. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ  ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÀNH DỆT MAY Nhóm thực hiện: Nhóm 1 Danh sách nhóm: Nguyễn Thị Hồng Vân Lê Thị Trang Hồ Quốc Việt Phạm Văn Tuấn Nguyễn Văn Tú Nhóm thực hiện: Nhóm 1  1
  2. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương LỜI MỞ ĐẦU Nhiều năm qua, dệt may là ngành “tiên phong” trong   chiến lược xuất khẩu hàng  hóa Việt Nam ra thị trường thế giới,  thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn.  Ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ  tăng trưởng xuất khẩu tương đối  cao. Thành  quả  này là nhờ  Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào, khéo  tay; chi phí lao động  thấp, các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng và giữ  được chữ  tín trong kinh doanh  với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn thì ngành dệt may  Việt Nam vẫn còn rất nhiều  yếu tố  bất lợi và ít lợi thế  cho sự  phát triển bền vững, đặc biệt là các ngành công   nghiệp phụ  trợ  chưa phát triển tương xứng. Điều đó góp phần lý giải tại sao   các  doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận gia công xuất khẩu là chính (chiếm tới  70­80% kim ngạch), hình thức thương  mại bán sản phẩm chiếm tỷ  trọng rất khiêm  tốn. Xu thế toàn cầu hoá thương mại cùng sự  phát triển mạnh mẽ  của khoa học công  nghệ  đang đặt ngành dệt may Việt Nam trước những áp lực và thách thức to lớn. Dù  Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),  trong những năm  tới ngành dệt may vẫn chưa thể phát triển nhanh và cạnh tranh được với nhiều nước   xuất khẩu. Dệt may Việt Nam vẫn chưa thể cất cánh như một số chuyên gia phân tích  thị  trường đã nhận định, nếu các doanh nghiệp chưa thực sự  đổi mới mạnh mẽ  hơn  trong cung cách tổ chức sản xuất kinh doanh của mình. Rất mong nhận được sự  đóng góp của cô Đinh Thị  Lan Hương và các bạn để  bài   tiểu luận này có giá trị thiết thực hơn. Chân thành cảm  ơn cô Đinh Thị  Lan Hương đã nhiệt tình hướng dẫn nhóm, giúp  nhóm hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Nhóm thực hiện: Nhóm 1  2
  3. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương Nhóm thực hiện: Nhóm 1  3
  4. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương MỤC LỤC Nhóm thực hiện: Nhóm 1  4
  5. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương PHẦN I. NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM Nhiều năm qua, dệt may là ngành “ tiên phong” trong chiến lược xuất khẩu hàng  hoá Việt Nam ra thị trường thế giới thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn.  Ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ  tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao, bình  quân 20%/ năm trong giai đoạn 2000­2005. Thành quả  này là nhờ  Việt Nam có một   nguồn lao động dồi dào , khéo tay, chi phí lao động thấp, các doanh nghiệp Việt Nam   đã xây dựng và giữ được chữ tín trong kinh doanh với nhiều với nhiều nhà nhập khẩu  lớn trên thế giới. Tuy nhiên , nếu phân tích sâu hơn thì ngành dệt may Việt Nam vẫn còn rất nhiều   yếu tố  bất lợi và ít lợi thế  cho sự  phát triển bền vững, đặc biệt là các ngành công   nghiệp phụ  trợ  chưa phát triển tương xứng. Điều đó góp phần lý giải tại sao các   doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận gia công xuất khẩu là chính ( chiếm 70 –  80 % kim ngạch), hình thức thương mại bán sản phẩm chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Từ khi hạn ngạch giữa các thành viên WTO xoá bỏ ( 1/1/2005) thì tốc đọ ngành dệt  may Trung Quốc không những đe doạ  ngành công nghiệp dệt may các nước nhập  khẩu lớn mà còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu dệt may khác, trong đó có  Việt Nam. Xu thế toàn cầu hoá thương mại cùng sự  phát triển mạnh mẽ  của khoa học công   nghệ  đang đặt ngành dệt may Việt Nam trước những áp lực và thách thức to lơn.Dù  Việt Nam trở  thành thành viên tổ  chức thương mại thế  giới ( WTO ) , trong những   năm tới ngành dệt may vẫn chưa phát triển nhanh và cạnh tranh được nhều nước xuất   khẩu. Dệt may Việt Nam vẫn chưa thể cất cánh như  một số chuyên gia phân tích thị  trường đã nhận định, nếu các doanh nghiệp chưa thực sự đổi mới mạnh mẽ hơn trong  cung cách tổ chức sản xuất kinh doanh của mình. II. THỰC TRẠNG NGÀNH MAY VIỆT NAM Nhóm thực hiện: Nhóm 1  5
  6. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương Ngành may Việt Nam có lịch sử  phát triển lâu đời . Dệt may là ngành hàng mũi   nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế  ­ xã hội. Từ  nhiều năm qua,   sản phẩm dệt may Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng , cơ cấu chủng loại   và giá trị  kim ngạch, trở  thành mặt hàng xuất khẩu chủ  lực và chiếm giữ  vị  trí quan   trọng trong nền kinh tế quốc dân. Những thành công của sản phẩm may mặc trên thị  trường quốc tế  đã đánh dấu   bước khởi đầu tốt đẹp trong sự  nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế  tại Việt Nam.   Trong toàn ngành dệt may, may mặc là ngành có nhiều tiềm năng phát triển , có lợi thế  cạnh tranh lướn trên trường quốc tế. Sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam được ghi nhận với những kết quả đáng   khích lệ, đến thời điểm hiện nay dệt may là một trong những ngành công nghiệp sản  xuất, xuất khẩu quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, là một ngành thu hút lượng lao  động lớn, vừa tạo ra giá trị  hàng hoá, phục vụ  nhu cầu tiêu dung trong nước và xuất   khẩu. Năng lực phát triển của ngành dệt may phát triển cả  chiều rộng và chiều sâu. Số  lượng doanh nghiệp tăng gấp 5­6 lần so với 10 năm trước. Trình độ  công nghệ  được  cải tiến đáng kể,nhiều công đoạn sản xuất đạt trình độ  công nghệ  tiên tiến của thế  giới. Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ  tăng trưởng xuất  khẩu tương đối cao – bình quân 20% / năm trong giai đoạn 2000 – 2005 . Hàng dệt may  Việt Nam hiện đã có mặt tại trên 100 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị  trường quan trong của thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản ,,… Tuy nhiên ngành dệt may Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều hạn chế và thách  thức. Thứ nhất : Năng lực sản xuất tuy đã được nâng cao nhưng mức sản xuất thực   tế  vẫn thấp hơn năng lực sản xuất thiết kế. Tay nghề công nhân còn thấp , việc đào  Nhóm thực hiện: Nhóm 1  6
  7. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương tạo chuyên gia kỹ thuật và thiết kế mẫu còn chưa ttheo kịp với nhu cầu thị trường và  đòi hỏi phát triển của ngành. Thứ  2 : Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng hiệu quả xuất khẩu còn thấp   do có tới 70% kim ngạch xuất khẩu thực hiện theo phương thức gia công, trong đó   ngành dệt may vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu mà chủ  yếu phải nhaaph  nước ngoài. Thứ 3 : Thị  trường xuất khẩu còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn  có , còn bị phụ thuộc vào hạn ngạch , chưa tận dụng hết khả năng khai thác thị trường   và mặt hàng xuất khẩu không hạn ngạch , chưa thâm nhập được vào mạng lưới phân   phối của các thị trường lớn, thường phải xuất khẩu qua trung gian. Thứ  4 :  Thị  trường nội địa với sức mua ngày càng tăng đang bị  bỏ  ngỏ  chưa   được quan tâm đúng mức. Đến nay ngành dệt may Việt Nam đã sử  dụng gần 2 triệu lao động, với khoảng   2000 doanh nghiệp.Trong đó số lao động làm việc trong doanh nghiệp nhà nước chiếm   10% doanh nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 70% và doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài  khoảng 20%. Hàng năm dệt may Việt Nam xuất khẩu đến hơn 100 nước với kim ngạch đạt trên  con số  4,3 tỷ  USD ; chiếm 16,35 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Vi ệt Nam   4,83 USD vào năm 2004. Dệt may Việt Nam cũng như  những ngành kinh tế  khác trước vận hội và thách   thức của quá trình hội nhập kinh tế  khu vực và thế  giới. Nhằm nâng cao khả  năng  cạnh tranh , mở rộng thị phần đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành phải liên kết với   nhau tạo ra tập đoàn kinh tế  mạnh.Đứng trước tình hình đó Tổng Công Ty Dệt May  Việt Nam đã được Chính Phủ  phê duyệt đề án thí điểm thành lập Tập Đoàn Kinh Tế  Dệt May Việt Nam. Nhóm thực hiện: Nhóm 1  7
  8. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương Tập đoàn dệt may Việt Nam có nhiều đơn vị thành viên , sử dụng nhiều lao động ,  kinh doanh đa lĩnh vực và có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Ngành dệt may chia thành 4 giai đoạn: ­ Giai đoạn 1 :  trước năm 2000, chủ  yếu gia công , xuất khẩu 100 triệu USD   /năm ­ Giai đoạn 2 : mở đường xuất khẩu vào thị  trường Châu âu ( 1992 – 2002) đỉnh   cao xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD vào năm 2001 ­ Giai đoạn 3 : Mở vào thị trường Hoa kỳ  ( 2002 ­2006) tối đa xuất khẩu gần 5   tỷ USD / năm 2005, năm nay dự kiến khoảng  5,5 tỷ USD ­ Giai đoạn 4 : sau năm 2006, hậu WTO , giai đoạn cạnh tranh quyết liệt III. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG ẢNH HƯỞNG TỚI NGÀNH DỆT MAY 1. MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 1.1 . Môi trường kinh tế Chính sách tiền lương: Với mục tiêu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất   nước, dệt may là một  trong những ngành được chú trọng và ưu tiên phát triển trên cơ  sở  tận dụng nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ  trong nước để  thực hiện các đơn hàng   may xuất khẩu của  nước ngoài. Đến nay, số  lao động trong ngành may là gần 2,5  triệu lao động, dự  kiến đến năm 2025 số  lao động sẽ  tăng lên 5 triệu lao động. Tuy   ngành may cần và đã thu hút được nhiều lao động, nhưng tính ổn định của nguồn   lao  động trong ngành lại không cao. Nguyên nhân chính là do mức thu nhập của công nhân  ngành may khá thấp so với các ngành khác. Theo khảo sát của Viện Công nhân và   Công đoàn (Tổng LĐLĐ VN) cho thấy lương tháng trung bình của công nhân may chỉ  đạt 4,3 triệu đồng. Thời gian tăng ca trong tháng vượt từ  90­100% số  giờ  và đem lại   khoảng 22,4% tổng thu nhập. Do đó, người lao động không mấy mặn mà với ngành  may. Họ  sẵn sàng chuyển đổi sang những công việc khác có thu nhập cao hơn. Mặc  Nhóm thực hiện: Nhóm 1  8
  9. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương dù gần đây, nhiều doanh nghiệp may đã có những thay đổi trong chính sách lương   thưởng cho người lao động nhưng số  lao động  thôi  việc vẫn  không ngừng  tăng lên  so với số lao động tuyển mới. Thu nhập:  GDP bình quân đầu người năm 2016 tăng 106 USD so với năm 2015.  Tăng 6,21%. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2016 ước tính là 2200   USD (xấp xỉ  50 triệu đồng), cao hơn thu nhập bình quân đầu người 45,7 triệu đồng   (tương đương 2109 USD) năm 2015 Trong năm 2017, Việt Nam kỳ vọng mức tăng trưởng kinh tế là 6,7% hoặc cao hơn,   đưa thu nhập bình quân đầu người vượt 53,8 triệu đồng (tương đương 2368 USD).   Gần đây, xu thế sử dụng thu nhập cho nhu cầu mặc cũng tăng hơn từ 10­12%. Lạm phát : năm 2016 được coi là thành công trong việc kiểm soát lạm phát trong   điều kiện giá một số mặt hàng thiết yếu tăng trở lại nhưng vẫn tạo điều kiện để điều  chỉnh giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý tiệm cận dần theo giá thị trường. Theo đó, CPI tháng 12/2016 tăng 0,23% so với tháng trước. CPI tháng 12/2016 tăng   4,74% so với tháng 12/2015, bình quân mỗi tháng tăng 0,4%. Tính chung CPI bình quân năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015. Mức  tăng CPI tháng 12/2016 so với cùng kỳ năm 2015 và mức tăng CPI bình quân năm 2016   so với bình quân năm 2015 tăng cao hơn so với năm trước, nhưng thấp hơn nhiều so   với mức tăng CPI bình quân của một số năm gần đây Tỷ giá hối đoái: Hiện  nay, Mỹ  là  thị  trường  xuất  khẩu  hàng may mặc lớn nhất  của Việt Nam.  Chưa năm nào thị  trường ngoại tệ  trong nước lại  ổn định như  vậy,  nhất là trong một năm mà thị trường ngoại hối thế giới biến động chưa từng có, chao   đảo khắp nơi từ các nền kinh tế lớn tại châu Âu cho tới các nước mới nổi ở châu Á và   châu Mỹ. Bảng Anh lao dốc, euro xuống mức thấp nhất 14 năm, NDT thấp nhất 8 năm   so với USD. 2016 là một năm mà ban đầu tưởng chừng rất đáng lo ngại. Sau cú sốc  tiền tệ Trung Quốc hồi tháng 8/2015, tới cuối năm 2015, hàng loạt các tổ chức quốc tế  và một số chuyên gia trong nước đồng loạt đưa ra những cảnh báo rất đáng lo. Theo  đó, đã có dự  báo sức ép tỷ  giá USD/VND khi Mỹ  nâng lãi suất là rất lớn, đồng tiền   Việt Nam có thể giảm 5­7% trong năm 2016 được đưa ra. Với tỷ giá hối đoái tăng sẽ  dẫn đến xuất khẩu của Việt Nam tăng. Trong khi đó, yếu tố đầu vào của ngành may  hiện nay phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chịu ảnh hưởng của sự biến động giá dầu   Nhóm thực hiện: Nhóm 1  9
  10. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương trên thế  giới. Sự  giảm giá của các yếu tố  đầu vào sẽ  khiến cho chi phí của doanh   nghiệp  giảm xuống. Điều này cũng ảnh huởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Lãi suất :  Kết thúc năm 2016, mặt bằng lãi suất trên thị  trường tài chính cơ  bản   được giữ ổn định, đặc biệt, lãi suất cho vay có xu hướng giảm nhẹ với một số nhóm  đối tượng khách hàng phù hợp với chủ  trương của Chính phủ  về  giảm lãi suất cho   vay, nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế, tuy nhiên mức lãi  suất hiện tại vẫn còn rất cao đối với DN.  Thêm vào đó, việc tăng giá điện và giá một   số vật tư chính yếu khác đã gây ra một “cú sốc” khá nặng cho các DN. Nhiều dự định   đầu tư mở rộng sản xuất đã phải dừng lại, bởi chỉ riêng việc tính toán sao cho có lãi  và duy trì sản xuất với mức lãi suất này cũng là bài toán khó của nhiều DN. Một thực   tế hiện nay là  tất cả các DN đều hoạt động bằng vốn vay của ngân hàng, do vậy chỉ  cần một điều chỉnh nhỏ  về  lãi vay và huy động vốn sẽ   ảnh hưởng rất lớn đối với   DN.Đối với các DN dệt­may, trung bình mỗi năm chỉ quay được từ 2,5 đến 3 vòng vốn   và được coi là tương đối có hiệu quả, thì mỗi sản phẩm phải “gánh” từ  4,5% đến  5,6% lãi vay ngân hàng, đây là khoản chi phí cao nhất, sau chi phí tiền lương công  nhân. Trong khi đó lãi gộp (chưa trừ  lương, các chi phí quản lư  sản xuất khác và lãi   của DN) chỉ dao động ở mức từ 25% đến 30%, rất khó để các DN có lãi. 1.2. Môi trường công nghệ: Năng lực sản xuất kém, công nghệ  lạc hậu là một trong những hạn chế  lớn của   ngành may mặc Việt Nam hiện nay. Hoạt động của ngành may hiện nay phần lớn là   thực hiện giia công cho nước ngoài hoặc chỉ sản xuất những sản phẩm đơn giản, còn  những sản phẩm đòi hỏi kỹ  thuật cao mang lại giá trị  gia tăng lớn lại chưa đáp  ứng  được . Vì thế nếu được đầu tư đúng mức về công nghệ thì ngành may mặc Việt Nam   có thể phát huy hết được tiềm năng về lao động và chất lượng . Nhóm thực hiện: Nhóm 1  10
  11. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương 1.3. Môi trường văn hoá xã hội Kinh tế càng phát triển, đời sống và thu nhập càng cao thì con người càng chú trọng  đến các sản phẩm phục vụ tiêu dùng, trong đó có quần áo. Thêm vào đó, xu hướng vè   thị hiếu thẩm mỹ của người tiêu dùng đối với các sản phẩm may mặc cũng có sự biến  đổi liên tục. Nếu các doanh nghiệp may không chú trọng đầu tư  đúng mực cho công   tác thiết kế sẽ nhanh chóng bị tụt hậu trong cuộc cạnh tranh khốc kiệt này. Hàng may   mặc Trung Quốc với giá thành rẻ và kiễu mẫu mã đa dạng, thường xuyên thay đổi và   khá phù hợp với thị  hiểu của người Việt Nam đang chiếm lĩnh thị  trường may mặc   nội địa. Tuy nhiên, người Việt Nam vẫn có tâm lý “ăn chắc mặc bền”, nên những sản   phẩm chất lượng tốt của các doanh nghiệp trong nước vẫn được nhiều người Việt  Nam tìm dùng. Đây là một thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước khi muốn chiếm   lại thị trường nội địa hiện đang bị hàng Trung Quốc tấn công và thống trị. Bên cạnh đó, yếu tố  môi trường cũng được các nước, đặc biệt là EU, chú ý yêu  cầu và kiểm soát nghiêm ngặt khi nhập khẩu hàng may mặc. Những yêu cầu về  môi   trường đối với sản phẩm may mặc thường được EU sử  dụng là các nhãn sinh thái,  phương pháp sản xuất sản phẩm bảo vệ  môi trường, các điều kiện về  lao động…  Nếu không đáp ứng được những yêu cầu này thì hàng may mặc muốn xuất khẩu vào   EU sẽ rất khó khăn hoặc có thể sẽ bị chịu phạt. 1.4. Môi trường nhân khẩu học Tại Việt Nam, mức sống của người dân thành thị  ngày càng cao và đang theo xu   hướng chuyển sang tiêu dùng hàng may mặc cao cấp nhập khẩu từ  Hàn Quốc, Đài   Loan, Nhật Bản... Một bộ phận dân cư ưa chuộng phương thức may đo không chỉ với  những bộ quần áo sang trọng mà cả quần áo mặc thường ngày. Hàng may mặc nội địa   cũng có một vị  thế  khá vững chắc với nhiều thương hiệu nổi tiếng như  Việt Tiến,   May 10, Thành Công, Thăng Long. Nhóm thực hiện: Nhóm 1  11
  12. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương Thành thị, thị  xã… mới có sự  lựa chọn kỹ  càng về  kiểu dáng, chất lượng, màu   sắc , thời trang… còn đa số  người dân nông thôn chỉ  mới chú trọng đến yếu tố  “ ăn  chắc, mặc bền” ,trong tiêu dùng hàng may mặc hiện nay thì hàng may sẵn là hình thức   chủ yếu vì nhanh gọn đơn giản và tiện lợi, giá rẻ lại phong phú , đa dạng về mẫu mã,  chủng loại. Đồ  may sẵn thường xuyên phải giảm giá do chất lượng thấp , tiêu thụ  chậm, tồn đọng nhiều . Những sản phẩm gắn mác chất lượng cao chỉ  phù hợp với   một bộ phận tiêu dùng trong xã hội. 1.5. Môi trường chính trị­ pháp luật Năm 2014, Bộ Công thương ban hành Quyết định số  3218/QĐ­BCT phê duyệt quy   hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến   năm 2030. Trong đó, dệt may sẽ  trở  thành một trong những ngành công nghiệp mũi   nhọn, hướng về  xuất khẩu, tạo nhiều việc làm cho xã hội… Để  tận dụng tối đa lợi   thế  mà các FTA mang lại, ngoài sự  hỗ trợ của Nhà nước, sự  nỗ lực đầu tư, cải tiến   công nghệ, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, DN ngành Dệt may cần chú trọng phát  triển và quản trị nguồn nhân lực. Dệt may vốn là một  lĩnh vực khá nhạy cảm  trong quan hệ  thương mại của các  quốc gia. Hàng  may  mặc  của Việt Nam với ưu thế giá thành thấp vừa là yếu tố cạnh  tranh so với hàng xuất khẩu của các quốc gia khác, nhưng cũng lại là một hạn chế do  dễ   bị   các   nước   nhập   khẩu   điều   tra   và   áp   dụng  thuế   chống   bán   phá   giá.  Việt Nam được đánh giá cao nhờ   ổn định chính trị  và an toàn về  xã hội, có sức hấp  dẫn   đối   với   các   thương   nhân   và   các   nhà   đầu   tư   nước   ngoài.   Bản   thân   việc  Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế  giới cũng mở  rộng tiếp   cận thị  trường cho hàng xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng.   Đầu tư  trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn thể  hiện được xu hướng tăng trong  giai đoạn 2010­2016. Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu  vực và kinh tế  thế  giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị  trường tốt hơn cho hàng dệt   Nhóm thực hiện: Nhóm 1  12
  13. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương may. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và  thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ  song phương (như  Hiệp định đối tác thương mại Việt ­ Nhật) và đa phương (như  các hiệp định trong  khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN­Úc­Niu Dilân, v.v). Những cam  kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn đối  với các nhà đầu tư, và mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác mớI 1.6. Môi trường toàn cầu Tập đoàn Dệt may Việt Nam cho biết năm 2017, các chuyên gia kinh tế  đánh giá  kinh tế toàn cầu sẽ dần hồi phục, có thể đạt tăng trưởng 2­3%. Điều này dựa trên cơ  sở các chính sách tài chính của Mỹ nhằm kích cầu, tái thiết nền kinh tế do tổng thống   mới đưa ra. Tuy nhiên, GDP của Anh được dự báo tăng trưởng âm 2% do tác động của   Brexit. Ngành dệt may Việt Nam được dự  báo vẫn chịu  ảnh hưởng của các thách thức  hiện tại, cụ thể: Thứ nhất, ngành dệt may sẽ chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ các chính sách  thuế do các Hiệp định EVFTA, TPP đều chưa có hiệu lực trong năm 2017. Thứ hai, tình hình cạnh tranh xuất khẩu ngày càng gay gắt, các quốc gia cạnh tranh  xuất khẩu sẽ tiếp tục thu hút đơn hàng nhờ các chính sách hỗ trợ về thuế, tỷ giá. Thứ  ba, Tổng thống Mỹ  mới đắc cử  với những chính sách mới sẽ  tiềm  ẩn nhiều   rủi ro cho ngành dệt may thế giới nói chung. Thứ  tư, sự  bất  ổn của nền kinh tế  EU với việc Thủ  tướng Ý từ  chức, cuối quý  1/2017 sẽ  chính thực thực hiện Brexit cũng sẽ   ảnh hưởng đến cầu dệt may của thị  trường EU trong năm 2017. Thứ  năm, kinh tế Việt Nam 2017 được kỳ  vọng sẽ  có nhiều khởi sắc hơn khi các   điều kiện cho tăng trưởng kinh tế về cơ bản vẫn thuận lợi, nhưng Chính phủ chưa có   chính sách cụ thể hỗ trợ ngành dệt may. Thứ sáu, toàn cầu hoá các thị trường kinh doanh tạo ra cơ hội lẫn đe doạ. Nhiều thị  trương toàn cầu như Nam Mỹ, Hàn Quốc , Đài Loan đang trở nên không biên giới đang   hội nhập. Trung Quốc hiện ra với nhiều cơ  hội và không ít đe doạ  với các công ty   quốc tế. Điều tạo ra nhiều cơ  hội đó chính là tham gia vào tổ  chức thương mại thế  giới, Trên tất cả các lĩnh vực nói chung và ngành dệt may nói riêng. Để hoà nhập vào  nền kinh tế  thế  giới thì   đang là thách thức cho ngành dệt may Việt Nam. Nguồn   Nhóm thực hiện: Nhóm 1  13
  14. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương nguyên liệu khan hiếm, cùng với khủng hoảng kinh tế cùng với các rào cản kinh tế đã  làm cho ngành may gặp không ít khó khăn. 2. MÔI TRƯỜNG NGÀNH 2.1 . Đối thủ cạnh tranh hiện tại Đối thủ cạnh tranh hiện tại mà ngành dệt may của Việt Nam đang phải đối đầu là  Trung Quốc vì hàng Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường sản phẩm may mặc đơn giản,   thường ngày và đáp  ứng nhu cầu cho các tầng lớp dân cư  có thu nhập từ  thấp đến   trung bình và khá.  Thứ  nhất:  hàng may mặc Trung Quốc tràn ngập, hàng Việt Nam muốn mở  rộng   kinh doanh nôi địa phải vượt qua được thách thức cạnh gtranh gay gắt về nhiều mặt   của hàng Trung Quốc. Hàng Trung Quốc cũng đã làm thay đổi một phần thói quen tiêu  dùng sản phẩm may mặc trong 1 bộ phận dân cư. Thứ 2 : Sự buôn lậu tràn lan các mặt hàng may mặc Trung Quốc vào Việt Nam đã  gấy ra sự  biến động lớn về  thị  trường , gây tác hại xấu đến môi trường kinh doanh   trong nước. Thứ  3:  Hàng dệt Trung Quốc nhập khẩu xét theo khía cạnh tích cực cũng đã bổ  sung nguyên liệu quan trọng trong ngành may trong nước. 2.2 . Đối thủ tiềm ẩn Khi gia nhập WTO , hệ thống các công ty bán lẻ của nước ngoài, với tiềm lực lớn   về vốn và kinh nghiệm sẽ xâm nhập mạnh vào Việt Nam và khi đó chẳng những các  công ty bán lẻ của Việt Nam mà các cửa hàng bán lẻ truyền thống của doanh nghiệp   cũng sẽ lao đao. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị cạnh tranh khốc liệt ngay trên sân nhà   với hàng dệt may của Trung Quôc, Ấn Độ , Pakixtan,…Bởi vì rào cản thuế nhập khẩu   50% đối với hàng may mặc.và 40% đối với vải sẽ giảm xuống từ 10 – 15%. Nhóm thực hiện: Nhóm 1  14
  15. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương Ngành may mặc Việt Nam hiện đang phụ  thuộc quá lớn vào nguyên liệu nhập   khẩu chủ  yếu từ  Trung Quốc. Với gần 70% nguyên liệu phải nhập khẩu, các doanh   nghiệp dệt may Việt Nam không chủ  động được kế  hoạch sản xuất và nguồn sản   xuất để phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Ngành dệt sẽ gặp nhiều khó khăn nhất, vì khoảng cách về trình độ phát triển giữa   ngành dệt Việt Nam và các nước khá xa, nếu xét theo thang điểm 10, thì ngành dệt  Việt Nam chỉ đạt 3­3,5 điểm. Hiện nay, 80% nguyên phụ  liệu cung cấp cho ngành may xuất khẩu là từ  nước  ngoài. Điều này cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh kém cỏi của ngành dệt Việt  Nam. Nếu tình hình này không sớm cải thiện, các doanh nghiệp dệt có khả  năng mất   luôn chổ đứng ở thị trường nội địa trong tương lai gần. 2.3 . Khách hàng Thực tế  thu nhập của người dân Việt Nam không cao nên việc may mặc cũng có   nhiều hạn chế. Chỉ có một phần nhỏ  người tiêu dùng có thu nhập cao tiêu dùng sản  phẩm cao câp còn lại là những người có thu nhập thấp và trung bình. Nhìn chung  ngành dệt may của Việt Nam ít mẫu mã đẹp, giá cao,..trong khi đó hàng dệt may của   nhiều nước lại có mẫu mã đẹp, giá rẻ, đa dạng chủng loại để  người tiêu dùng sử  dụng. Tiêu biểu là hàng dệt may của Trung Quốc Với tâm lý của người Việt Nam là thích rẻ và đẹp nên việc lựa chọn hàng của các   nước như Trung Quốc càng có xu hướng tăng. 2.4 . Nhà cung ứng Nguồn nguyên phụ liệu sản xuất trong nước phục vụ ngành dệt may còn rất khiêm   tốn.Mặc dù xuất khẩu giữ vững vị trí so với cùng kỳ nhưng vấn đề đặt ra hiện nay là  việc cung  ứng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để  nâng cao  giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu. Vì trên thực tế tỷ lệ nhập khẩu các mặt hàng  Nhóm thực hiện: Nhóm 1  15
  16. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương nguyên phụ liệu vẫn chiếm con số cao với 7,36 tỷ USD; trong đó bông chiếm 417 triệu  USD, sợi 723 triệu USD, vải 4,1 tỷ USD, phụ  liệu tính chung cho cả  dệt may & da   giày: 2,19 tỷ  USD, chất dẻo làm nguyên liệu xơ, sợi tổng hợp: 2,2 tỷ  USD. Và tập   trung ở các thị trường Trung Quốc với 2,09 tỷ USD, Đài Loan 1,47 tỷ USD, Hàn Quốc   1,44 tỷ USD, Nhật Bản 466 triệu USD. Con số này cho thấy, mỗi năm, ngành dệt may   của nước ta đang phải nhập tới 70% nguyên phụ  liệu của nước ngoài, trong khi đó  nguồn nguyên liệu trong nước mới chỉ đáp ứng được 30% và tập trung vào một số sản   phẩm như  bông đã đáp  ứng được 10%; xơ, sợi tổng hợp đáp  ứng khoảng 60%; sợi  70%; vải 50%; phụ liệu 70%… Nhìn chung giá cả  nhập khẩu hàng từ  các nước tương đối cao vì phải chịu một  khoản thuế nhập khẩu từ nước ngoài về IV. KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC 1. ĐIỂM MẠNH: Ngành dệt may Việt Nam có thể  tận dụng một số  điểm mạnh. Trước hết, trang  thiết bị của ngành may mặc đã được đổi mới và hiện đại hoá đến 90%. Các sản phẩm  đã có chất lượng ngày một tốt hơn, và được nhiều thị  trường khó tính như  Hoa Kỳ,   EU, và Nhật Bản chấp nhận. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được mối quan hệ  gắn bó  chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Bản thân   các doanh nghiệp Việt Nam cũng được bạn hàng đánh giá là có lợi thế về chi phí lao  động, kỹ năng và tay nghề may tốt. Nhóm thực hiện: Nhóm 1  16
  17. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương Cuối cùng, Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội,  có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc   Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế  giới cũng mở  rộng tiếp   cận thị  trường cho hàng xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng.   Đầu tư  trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn thể  hiện được xu hướng tăng trong   giai đoạn 2000­2007, mặc dù có giảm mạnh trong năm 2008. 2. ĐIỂM YẾU Tuy vậy, ngành dệt may vẫn còn những điểm yếu nhất định. May xuất khẩu phần  lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ  lệ làm  hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Trong khi đó, ngành dệt và công nghiệp phụ  trợ  còn yếu, phát triển chưa tương  xứng với ngành may, không đủ  nguồn nguyên phụ  liệu đạt chất lượng xuất khẩu để  cung cấp cho ngành may, do đó giá trị gia tăng không cao. Như đã phân tích ở trên, tính   theo giá so sánh, giá trị sản phẩm của ngành dệt luôn tăng chậm hơn so với giá trị sản   Nhóm thực hiện: Nhóm 1  17
  18. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương phẩm của ngành may mặc, cho thấy sự phụ thuộc của ngành may mặc đối với nguyên  phụ liệu nhập khẩu. Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn  đầu tư th ấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ  đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể  cung  ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị  trường gặp vấn đề, các doanh  nghiệp dệt may sẽ  gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị  trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu,  trong việc chuyển đổi định hướng sang thị  trường nội  địa trong thời điểm các thị  trường xuất khẩu chính như  Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế  chính là những  dẫn chứng tiêu biểu. Mặt khác, kỹ  năng quản lý sản xuất và kỹ  thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản,  năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng.Năng lực tiếp thị còn hạn chế,  phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của mình, chưa  xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp. 3. CƠ HỘI Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để  phát triển xuất khẩu trong thời  kỳ  hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước  đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ  hội và nguồn lực mới cho  các doanh nghiệp dệt may về  cả  tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ  sản xuất, kinh   nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển. Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu  vực và kinh tế  thế  giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị  trường tốt hơn cho hàng dệt   may. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và  thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ  song phương (như  Hiệp định đối tác thương mại Việt – Nhật) và đa phương (như  các hiệp định trong  khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN­Úc­Niu Dilân, v.v). Nhóm thực hiện: Nhóm 1  18
  19. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế  đã tạo được   sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, và mở  ra những thị  trường mới và các quan hệ  hợp tác mới. Hơn nữa, bản thân thị  trường nội địa có dân số  84 triệu dân với mức   sống ngày càng được nâng cao thu hút sự  quan tâm của các nhà đầu tư  và các doanh   nhân. 4. THÁCH THỨC Tuy vậy, ngành dệt may của Việt Nam cũng đang phải đương đầu với những thách  thức không nhỏ. Một mặt, xuất phát điểm của dệt may Việt Nam còn thấp,  công   nghiệp phụ trợ chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia   công cao, năng lực cạnh tranh còn yếu hơn các nước trong khu vực và trên thế giới... là  thách thức khi hội nhập kinh tế toàn cầu. Mặt khác, môi trường chính sách còn chưa thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý  của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn chỉnh, trong khi năng lực của các cán bộ  xây dựng và thực thi chính sách, cũng như  các cán bộ  tham gia xúc tiến thương mại   còn yếu, đặc biệt là hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, và kỹ năng. Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng khá nhiều các rào cản v ề kỹ thuật, vệ  sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ  giá nhằm bảo hộ  sản xuất  trong nước. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn có quy mô nhỏ và vừa, không đủ tiềm   lực để  theo đuổi các vụ  kiện chống bán phá giá, dẫn đến thua thiệt trong các tranh  chấp thương mại. Các rào cản thương mại trên đã được vận dụng ngày càng linh hoạt  và tinh vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế  toàn cầu. V.GIẢI PHÁP CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ­ Về phía các doanh nghiệp dệt may: đầu tư  đổi mới thiết bị, công nghệ  theo hướng  tiếp cận với công nghệ  cao nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao  động. Đầu tư  mạnh  vào việc xây dựng và quảng bá thương hiệu doanh nghiệp và  Nhóm thực hiện: Nhóm 1  19
  20. Bài tiểu luận                                                                           GVHD: Đinh Thị Lan  Hương thương hiệu sản phẩm như là một biện pháp kích cầu, phải coi  thị trường trong nước  là bàn đạp để ra thị trường nước ngoài. ­ Doanh nghiệp cũng cần đầu tư cho khâu thiết kế mẫu mã. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã nhìn nhận và đánh giá được tầm quan trọng  của thị  trường nội địa và đã có  những bước đi ban đầu mạnh mẽ  để  chiếm lấy thị  trường này. Vì vậy các doanh nghiệp dệt may phải thực hiện các vấn đề sau: ­ Kích thích tiêu dùng nội địa. ­ Đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng và khả  năng cung  ứng sản phẩm cho thị  trường nội địa.  ­ Thúc đẩy các ngành sản xuất phụ  trợ cho ngành dệt may  phát triển, tiến đến giảm  dần việc nhập khẩu nguyên phụ  liệu  tránh bị  phụ  thuộc vào nguyên phụ  liệu nhập   khẩu ­  Để thành công trong việc chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa, ngành dệt may  cần có những biện pháp sau:  ­ Về phía ngành dệt may: Tích cực đầu tư vào các vùng trồng bông, đầu tư thêm các  nhà máy kéo sợi chất lượng cao để nâng dần tỉ lệ nội địa hóa, hạ giá thành sản phẩm.   Cần điều chỉnh cơ cấu sản xuất sản phẩm thích hợp với nhu cầu trong nước. ­ Doanh nghiệp cũng cần đầu tư cho khâu thiết kế mẫu mã. Nhóm thực hiện: Nhóm 1  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1