Bài tiểu luận: Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
lượt xem 53
download
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một tư tưởng nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ đạo quá trình đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này mời các bạn tham khảo "Bài tiểu luận: Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh".
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài tiểu luận: Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 NỘI DUNG .......................................................................................................... 2 I. TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH.................................................. 2 1. Nguồn gốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh ....................................... 2 2. Khái niệm và những nội dung chủ yếu của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh....................................................................................................... 12 II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...........24 1. Xây dựng chế độ chính trị phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu quan trọng thể hiện tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội. .......24 2. Mục tiêu phát triển kinh tế, giải phóng sức sản xuất, tạo ra của cải vật chất dồi dào nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân ............25 3. Xây dựng xã hội mới có sự phát triển cao về văn hóa, đạo đức, công bằng và văn minh.................................................................................. 26 MỞ ĐẦU Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một tư tưởng nổi bật trong hệ thống tư tưởng của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ đạo quá trình đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống tự do,
- ấm no, hạnh phúc cho đồng bào. Tư tưởng đó phản ánh khát vọng độc lập, tự đo, hoà bình của dân tộc Việt Nam, nâng cao lên một chất lượng mới tư tưởng lấy đại nghĩa để thắng hung tàn của dân tộc ta, thực sự động viên, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của nhân dân vào cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ mới, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam. Nghiên cứu tưởng nhân văn Hồ Chí Minh phù hợp với tư tưởng nhân văn thời đại là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, đã thu hút các lực lượng tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh, cũng như các cuộc chiến tranh yêu nước nhằm giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do của nhân dân ta, chống các đế quốc to xâm lược. Chính tư tưởng nhân văn của Người đã phân hoá, cô lập cao độ kẻ thù, làm suy yếu chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, làm cho nhân dân ta thêm bạn bớt thù. Thắng lợi của các cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta mang đậm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã có những cống hiến lớn lao, góp phần phát triển phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, cho quyền được sống và mưu cầu tự do, hạnh phúc cho mỗi dân tộc và mỗi con người. Đồng thời làm rõ ý nghĩa thực tiễn và cấp bách trong việc khẳng định tính chân lý và tất thắng của con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn cho dân tộc ta, vạch trần sự xuyên tạc, bóp méo tính nhân văn cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước của nhân dân ta do Người và Đảng ta lãnh đạo. NỘI DUNG I. TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH 1. Nguồn gốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh Tư tưởng nhân văn (hay chủ nghĩa nhân văn) là một khái niệm để chỉ giá trị, tinh thần chung của nhân loại. Trong cuộc sống, con người luôn có khát vọng vươn tới cái đẹp, muốn được tự do và hạnh phúc. Song điều đó lại bị chi phối 2
- bởi điều kiện lịch sử, chính trị xã hội của từng quốc gia (dân tộc), của từng thời đại. Hơn nữa, tư tưởng nhân văn là vấn đề về con ngườì, mà con người lại là trung tâm của mọi thời đại. Các giai cấp khác nhau giải quyết về vấn đề con người khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, tư tưởng nhân văn là hệ thống quan điểm lý luận về con người theo nghĩa rộng. Xuất phát từ sự tôn trọng giá trị nhân phẩm con người, thương yêu con người, tin vào sức sáng tạo vô biên của con người, coi quyền của con người được phát triển tự do, hạnh phúc và lợi ích của con người là tiêu chuẩn đánh giá các quan hệ xã hội, tư tưởng nhân văn, nhất là tư tưởng nhân văn cộng sản, chủ trương phát triển mọi khả năng của con người và xã hội, thừa nhận các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo trong quan hệ giữa con người với nhau. Thực ra, khái niệm tư tưởng nhân văn không phải đã có ngay từ buổi bình minh của loài người. Lúc bấy giờ, con người còn sống thành bầy đàn rồi sau đó thành thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Mọi người sống, lao động tự nguyện theo chế độ tập thể. Mọi thành viên gái cũng như trai đều có quyền bình đẳng như nhau. Xã hội càng phát triển, con người càng bị phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Đời sống vật chất tinh thần giữa các tầng lớp dân cư càng cách xa nhau, giai cấp ra đời: kẻ đi áp bức bóc lột và người bị áp bức bóc lột. "Xã hội văn minh" đã xuất hiện với những nghịch cảnh, kể thì hưởng thụ phè phỡn, người thị quằn quại trong đói rét, chết chóc. Cùng với cuộc đấu tranh để chinh phục tự nhiên trong lao động sản xuất, con người lại phải đương đầu với các cuộc xung đột xã hội giữa kẻ đi áp bức, bóc lột với người bị áp ức, bóc lột. Tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người đối với cuộc sống và xã hội in đậm dấu ấn giai cấp (địa vị xã hội) và biến đổi không ngừng trong cuộc đấu tranh giai cấp triền miên đó. Cũng từ đây trong nhân dân lao động thưòng nảy sinh những ước muốn giải phóng mọi nỗi khổ đau đè nặng lên mình, cùng những ước mơ về một xã hội lý tưởng, vua thánh tôi hiền, mọi người sống với nhau hoà thuận, gần gũi thương yêu, đoàn kết giúp đỡ nhau. Những khát vọng về cuộc sống tự do và hạnh phúc như vậy của con người, khi con người đã đạt đến một cuộc sống vật chất nhất định, có một trình độ tư duy nào đó đủ nhận thức về vai trò và giá trị của con người, trở thành những giá trị nhân văn. Và như chúng ta đều biết, kể từ khi xã hội có giai cấp, các giá trị nhân văn ấy trước hết và cơ bản là của nhân dân lao động, của tầng lớp người bị áp bức, bóc lột. Tuy nhiên, chúng ta không hoàn toàn phủ nhận những nhân vật cá biệt trong các giai cấp bóc lột cũng biểu thị lòng thương yêu con người, nhiều khi rất sâu đậm và nồng hậu, tố cáo mãnh liệt xã hội đương thời và bệnh vực nhân dân lao động và những người bị áp bức bóc lột, cùng tiếng nói với nhân dân lao động. Nhưng đó chỉ là sự đồng cảm cảnh ngộ với người bị thống trị, bóc lột người nghèo, là thái độ đồng tình của kể đứng trên ngó xuống và mong ước cải thiện chính sách thống trị hà khắc của chế độ xã hội, chữ ít khi đòi lật đổi chế độ đương thời. 3
- Khi xã hội tư bản ra đời, khái niệm tư tưởng nhân văn với tư cách là một trào lưu tư tưởng xã hội mới hoàn chỉnh những quan điểm triết học, chính trị, đạo đức lấy con người làm trung tâm. Khác với chế độ phong kiến, khi thế giới tinh thần do tôn giáo thống trị coi con người trước hết là một sinh vật tinh thần, khuyên con người cam chịu mọi thiếu thốn và đau khổ về thể xác ở trần thế để hy vọng một tương lai thanh thản, hạnh phúc ở thiên đường hư ảo thì khuynh hướng mới của xã hội tư bản chủ nghĩa đòi phải trả lại con người cho tự nhiên để tự do phát triển, coi việc tận hưởng mọi hạnh phúc trần tục là sự phát triển toàn diện của tính người. Biểu thị ý muốn hiểu biết và sáng tạo; khát vọng chân lý và tự do; sự công bằng, bình đẳng và bác ái; lòng tin ở con người, tư tưởng nhân văn tư sản buổi hưng thịnh phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động đã góp phần giải phóng sức sản xuất, phát triển văn hoá, khoa học, tạo điều kiện cho sự tiến bộ xã hội. Nhưng tư tưởng nhân văn tư sản dần dần bị bộc lộ những hạn chế không thể khắc phục bởi quan hệ sản xuất tư hữu tư bản và chủ nghĩa cá nhân tư sản. Con người mà tư tưởng nhân văn tư sản tôn thờ, đặt vào vị trí trung tâm chính là con người tư sản. Đó là con người ích kỷ, ngày càng thoái hoá sa đoạ trong cái xã hội mà mọi giá trị đều đo bằng lợi nhuận và tiền bạc. Tư tưởng nhân văn tư sản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc chủ yếu là phản ánh sự bóc lột nhân dân lao động, cá lớn nuốt cá bé, cướp bóc, thôn tính xâm lược các quốc gia dân tộc khác. Nó sản sinh ra nhiều thứ "lý luận về con người" chống lại con người hoặc làm cho con người càng mất tin tưởng ở con người, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc là thủ đoạn chính của những tội ác vô nhân đạo, phản nhân văn trên quy mô ngày càng lớn đối với các dân tộc, con người và loài người tiến bộ mà ai cũng biết; là kẻ gây ra các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia dân tộc phục thuộc, là hai cuộc chiến tranh thế giới nhằm chia lại quyền lợi của chúng. Tư tưởng nhân văn tư sản thực chất chỉ là chủ nghĩa cá nhân tư sản, là cái "đạo làm người" của giai cấp tư sản chà đạp lên quyền sống của đông đảo nhân dân lao động. Đối lập với tư tưởng nhân văn tư sản (phản nhân văn) là tư tưởng nhân văn cộng sản. Từ khi những "bóng ma cộng sản" ra đời, nhất là từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại giành được thắng lợi, tạo nên bước ngoặt lịch sử đối với loài người, tư tưởng nhân văn cộng sản xuất hiện và phát triển, phản ánh quyền lợi và những giá trị tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở quan điểm cho rằng, bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, do vậy, muốn giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát triển hoàn mỹ phải thay đổi những quan hệ kìm hãm, trói buộc con người. Nghĩa là xoá bỏ quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị, xoá bỏ quan hệ người bóc lột người, thiểu số thống trị đa số; tạo lập quan hệ bình đẳng, tự do giữa con người với con người, tạo lập hệ thống những quan hệ xã hội mới tốt đẹp. Trong toàn bộ các quan hệ xã hội ấy, quan hệ sản xuất giữ vị trí chi phối. Nó là quan hệ kinh 4
- tế cơ bản của hình thái xã hội. Muốn xoá bỏ quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế, những điều kiện kinh tế xã hội của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trói buộc, kìm hãm sự phát triển của con người thì phải làm cách mạng, phải có cương lĩnh cách mạng và khoa học nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế bóc lột, thống trị của thiểu số tư sản để giải phóng con người, thật sự làm cho hoàn cảnh hợp với tính người. Trong xã hội tư sản, lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư hữu tư bản chủ nghĩa nguồn gốc của mọi sự đau khổ của người lao động là giai cấp công nhân cách mạng. Chỉ có họ mới làm được cuộc cách mạng vì lợi ích của chính mình và cũng vì lợi ích của tất cả mọi người lao động trong xã hội, của toàn nhân loại và xây dựng một xã hội mới, trong đó sự tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho sự tự do phát triển của tất cả mọi người. Đó chính là tư tưởng nhân văn cách mạng, tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp công nhân của những người cộng sản, là đỉnh cao của tư tưởng nhân văn hiện nay trong xã hội hiện đại. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn cộng sản được vận dụng vào điều kiện của dân tộc Việt Nam: một dân tộc bị thực dân, đế quốc đô hộ phải đứng lên để tự giải phóng mình không thể không kế thừa những giá trị đó. Để xác định bản chất, nội dung của một tư tưởng, một sự vật hay hiện tượng nào đó của tự nhiên hay xã hội, cần nắm vững nguồn gốc của nó. Trên đây chúng tôi đã phác hoạ một số điểm chính của quá trình phát triển tư tưởng nhân văn trong lịch sử mà tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thạc dòng tư tưởng nhân văn cách mạng, tư tưởng nhân văn cộng sản nhằm làm sáng tỏ phần nào nguồn gốc tư tưởng nhân văn của Người. Tuynhiên, sẽ không đầy đủ nếu không kể đến những yếu tố sau đây trong nguồn tốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Một là, lòng nhân ái trong đời sống của gia đình và quê hương. Từ buổi đầu thiếu thời, Nguyễn Sinh Cung Hồ Chí Minh đã sống trong một gia đình nhà nho nghèo, mọi người đều có lòng nhân ái, thương người, thương dân, yêu nước, có tâm huyết với nền độc lập, tự do của dân tộc, không chịu khuất phục chế độ thống trị bóc lột, áp bức của bọn phong kiến và thực dân. Đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với Người là thân mẫu và thân phụ. Bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu Hồ Chí Minh là người phụ nữ nông thôn cần mẫn, đảm đang, thương yêu chồng con vô hạn, nhân hậu với bà con làng xóm. Những đức tính quý báu đó của bà đã có tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng quyết định đến tâm hồn đa cảm, giàu tình thương người của Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh), có thể nói đó là những sợi tơ dệt nên nhân cách của Người thời thơ ấu. Ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ Hồ Chí Minh đã thể hiện một quan diểm yêu nước, thương dân sâu sắc. Tuy học rộng, hiểu biết nhiều, đã đỗ đạt cao (phó bảng) nhưng ông từ chối ra làm quan vì triều đình phong kiến làm tay sai cho giặc. Khi bị thực dân thúc ép nhiều lần buộc phải ra làm quan ông tìm cách không hợp tác với bọn họ. Ông thường nói: quan trường là nô lệ trong những người nô 5
- lệ, lại càng nô lệ hơn. Cũng như một số nhà nho tiến bộ, quan điểm "trung quân ái quốc" của ông đã đổi khác. Ông phủ nhận thuyết trung quân của nhà nho và cho rằng trung quân bây giờ không phải mù quáng phục tùng triều đình phong kiến mà phải thương dân, ái quốc là ái dân, ông hô hào cải cách duy tân, chủ trương lấy dân chúng làm hậu thuẫn cho các phong trào cải cách chính trị xã hội. Và có lòng nhân ái, thương dân thực sự, khi ra làm quan ông luôn đứng về phía nhân dân, che chở người nghèo, trừng trị bọn hách dịch và nhữhg tên sâu mọt áp bức dân lành. Dù ở đâu, bất cứ ở cương vị nào, ông vẫn thông cảm với dân nghèo, luôn giành những tình cảm ưu ái nhất cho những trẻ mồ côi, cho những gia đình gặp cảnh éo le, neo đơn, góa bụa, cho những người bị bọn địa chủ, phong kiến và thực dân, đế quốc đẩy vào điêu đứng, khổ ải, lầm than. Chính tấm lòng thương dân, thương người nghèo khổ và thái độ căm ghét thực dân phong kiến của ông đã nhen nhóm ngọn lửa yêu nước, tình thương đồng bào bị đọa đày trong tâm hồn trẻ tuổi của Nguyễn Tất Thành. Ảnh hưởng của ông đối với Hồ Chí Minh không chỉ ở tầm lòng thương dân, yêu nước mà điều quan trọng hơn là ông đã hướng cho các con mình trong đó có Người vào con đường lao động và học tập để biết "đạo lý làm người". Điều thức thời nhất của ông Nguyễn Sinh Sắc là đã hướng cho các con mình chuyển từ học Hán văn sang học Pháp văn và tạo những điều kiện cần thiết để Nguyễn Tất Thành đi theo con đường, tiếp xúc với nền văn minh mới trên con đường cứu nước, cứu dân sau nay. Quê hương Nghệ Tĩnh là một vùng quê nghèo khổ vì thiên tai khắc nghiệt đối với con người. Đây là cái túi của lụt lội, bão tố và gió Lào của miền Trung bộ Việt Nam. Người dân xứ Nghệ luôn phải vật lộn, chiến đấu gian khổ với thiên nhiên. Họ cần cù lao động, thức khuya dậy sớm, một nắng hai sương mới biến sỏi đá thành cơm. Từ xa xưa trong lịch sử, Nghệ Tĩnh đã từng là chiến trường chống các loại giặc ngoại xâm và các cuộc nội chiến do các tập đoàn phong kiến gây ra. Vào đầu thế kỷ này, cũng như nhiều vùng nông thôn khác trên đất nước ta, Nghệ Tĩnh chịu sự áp bức, bóc lột rất hà khắc của bọn thực dân phong kiến. Đời sống kinh tế xã hội càng trở nên cực khổ hơn. Trong cuộc vật lộn với thiên tai và địch họa người dân xứ Nghệ sớm biết yêu thương, đùm bọc, hợp quần, cấu kết với nhau và kiên cường đấu tranh để giữ vững sự tồn tại của mình. Tình thương yêu, lòng vị tha, sẵn sàng hy sinh cho người khác, cho gia đình, làng xóm, phản ánh mối quan hệ đời sống cộng đồng đó của quê hương đã góp phần tạo nên trong con người Bác tình cảm yêu người lao động, coi trọng tình làng nghĩa xóm, sống với nhau có tình có nghĩa và những đức tính tốt đẹp khác. Hồ Chí Minh thời niên thiếu đã khâm phục tinh thần chống giặc Pháp của các khởi nghĩa Phan Đình Phùng Cao Thắng, đã thấm thía nỗi lo nước thương dân của các bậc cha chú như Vương thúc Quí, Phan Bội Châu... Những tầm gương nghĩa liệt của họ đã hun đúc từ buổi bình minh của Bác Hồ lòng yêu nước thiết tha và chí hướng đi tìm con đường cứu dân, cứu nước sau này. 6
- Nghệ Tính còn là một vùng có nhiều di tích lịch sử và nhân vật lịch sử của hầu hết các triều đại. Đây cũng là xứ sở của nền văn hoá độc đáo, là đất khoa bảng, sĩ phu, là quê hương của hát dặm, hát phường vải, phường nón và thơ ca, từ ca vè dân gian đến những vần thơ mang nặng tình người của Nguyễn Du, những câu thơ "dậy sóng" của Phan Bội Châu phản ánh khát vọng độc lập tự do và ý chí đấu tranh chống cường bạo của quần chúng nhân dân. Môi trường lịch sử văn hoá đó đã nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Sinh Cung càng giàu thêm tình người, tình thân ái và lòng yêu quê hương đất nước. Cần khẳng định rằng, đời sống đầy lòng nhân ái của gia đình và quê hương xứ Nghệ đã nhen nhóm trong Nguyễn Tất Thành những tình cảm thương người, thương dân, yên nước để sau này rực sáng thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Hai là, truyền thống nhân ái Đến tuổi trưởng thành, Nguyễn Tất Thành Hồ Chí Minh vượt lũy tre làng, ra bắc vào nam, mở rộng tầm nhìn, tiếp nhận nhiều giá trị tinh thần quý báu của dân tộc, tiêu biểu là lòng yên nước, tinh thần quật cường của nhân dân ta và truyền thống nhân ái sâu bền của dân tộc Việt Nam được kết tinh từ hàng nghìn năm nay. Tư tưởng nhân văn Việt Nam, tiêu biểu là lòng nhân ái, là giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam; lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân, coi người ta là hoa của đất... truyền thống nhân ái đó được nảy sinh từ đời sống cố kết cộng đồng lâu đời của dân tộc ta trong lao động sản xuất, đấu tranh chống thiên tai địch hoạ. Từ xa xưa, dân tộc ta chủ yếu sống trên các lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam. Đây là vùng đất phì nhiêu, màu mỡ, nhưng là vùng nhiều bão lụt dữ dội. Các trận lụt lớn làm chết người, xóm làng xơ xác tiêu điều. Còn bão thì phá hoại mùa màng, đưa nước mặn vào ruộng, làm sập nhà đổ cây. Đó là mối đe doạ thường xuyên đối với nhân dân ta. Mặt khác, để phát triển sản xuất, khắc phục thiên tai, công tác trị thuỷ đóng vai trò hết sức quan trọng. Muốn vậy, con người Việt Nam từ xa xưa đã hiệp tác rộng rãi và lâu dài không chỉ trong một làng mà nhiều làng, không chỉ một vùng mà nhiều vùng để đắp đê chống lũ, ngăn nước mặn vào ruộng... Lịch sử mở nước của dân tộc ta gắn với công cuộc khai hoang lấn biển, lập làng, cải tạo đất thau chua rửa mặn. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và những thử thách ngặt nghèo của cuộc sống đã làm nảy sinh trong mỗi người dân Việt Nam ý thức thương yêu, đùm bọc, liên kết hiệp đoàn, chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ để duy trì sự tồn tại và phát triển đất nước, xóm làng quê hương. Tình cảm tốt đẹp đó ngày càng phát triển, trở thành một lối sống vị tha, nhân ái của dân tộc, lối sống "nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng". Trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta đã phải liên tiếp đương đầu trực diện nhiều đội quân xâm lược. Nhân dân ta đã sống trong kiếp nô lệ dưới ách thống trị nghìn năm của phong kiến phương bắc và gần trăm năm của thực dân, đế quốc. Chính sách bóc lột, thống trị tàn bạo và hung ác của quân xâm lược, sự bóc lột 7
- thậm tệ của bọn vua, quan phong kiến, địa chủ và cảnh nội chiến "nồi da nấu thịt" của các tập đoàn phong kiến giành quyền bính đã đẩy nhân dân ta, dân tộc ta đến bờ vực của sự diệt vong. Có áp bức thì có đấu tranh. Khi bị tước hết mọi quyền sống, bị đẩy vào cảnh đói nghèo, lầm than, bị chà đạp thể xác, bị vùi dập về tinh thần nhân dân lao động nước ta từ xưa đến nay đã không chỉ than thân trách phận mà đã đoàn kết đứng lên đấu tranh giành quyền sống, quyền độc lập, tự do cho dân tộc và đất nước mình. Nhân dân ta hiểu rất rõ rằng quyền sống của mình trước hết là sự mất còn của cộng đồng dân tộc, của mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên. Vì thế đối với dân tộc ta, đạo lý làm người là phải xả thân vì tình làng nghĩa nước. Yêu nước là phải cứu nước, là nhân đạo, thương người và muốn nhân đạo, thương người phải yêu nước và cứu nước. Yêu nước, thưong nòi gắn bó chặt chẽ không thể cắt rời trong khái niệm nhân ái của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Một nét đặc trưng của lòng nhân ái Việt Nam là lấy thiện trị ác, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo, là đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại. Nét đặc trưng đó chứa đựng lòng khoan dung độ lượng, một nội dung nhân văn cao cả của dân tộc ta. Rất đáng tự hào, một dân tộc chịu nhiều đau khổ, mất mát do chiến tranh gây ra, một dân tộc đã lập nhiều chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm, dập tắt nhiều cuồng vọng của những tên đế quốc hùng mạnh nhưng lại là một dân tộc rất yêu hoà bình, nhân ái, một dân tộc rất đỗi nhân hậu, khoan hoà, không hề say máu, không nuôi hận thù. Điều đó được thể hiện ở ý chí hoà bình mãnh liệt vang lên từ rất lớn trong đời sống của dân tộc ta. Nhiều người Việt Nam biết chuyện Thạch Sanh tài trí và nhân hậu xua tan quân xâm lược chỉ bằng tiếng đàn thần và khi chúng chịu lui quân đã sẵn lòng đãi chúng một bữa cơm no nê bằng chiếc niêu kỳ diệu đã phản ánh tinh thần yêu chuộng hoà bình, truyền thống nhân ái, nhân văn của dân tộc Việt Nam. Các vị chiến tướng đời Lý từng nói: "Chỉ có cái ý chí phân biệt quốc thổ chứ không phân biệt chúng dân, phải quét sạch cái bản thỉu, hôi tanh để ca thuở đẹp, hướng hội lành... Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân... Chớ có mang lòng sợ hãi" [21]. Vua tôi nhà Trần, nhà Lê đánh thắng giặc vẫn mở lượng hiếu sinh, chẳng những để cho địch rút lui an toàn về nước mà còn cấp cho chúng lương thực, thuyền và ngựa, một cử chỉ cao thượng tuyệt vời. Sau đó ba thế kỷ ý chí ấy lại một lần nữa vang vọng trong lời hịch của Tây Sơn: "Một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đá gần"[21]. Lòng nhân ái Việt Nam, bên cạnh sự yêu mến nhân dân mình, Tổ quốc mình, nhân dân ta cũng rất tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ của dân tộc kháh. Chúng ta không đi xâm lược ai nhưng cũng đồng thời rất kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc mình. Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã nâng cao và phát triển truyền thống nhân ái ấy thành tình đồng chí, nghĩa đồng bào, tình nghĩa năm châu bốn bốn biển một nhà, Hồ Chí Minh rất trân trọng truyền thống nhân ái đó và thường xuyên bồi dưỡng lòng yêu nước, thương nòi theo tinh thần mới, "ái quốc là ái dân", yêu 8
- nước và yêu chủ nghĩa xã hội là một ; chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người nói: "nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa Mác Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là chủ nghĩa Mác Lênin được" [17, tr.661 662]. Ba là, truyền thống nhân ái trong nền văn minh phương Đông và phương Tây chính là yếu tố làm cho tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính quốc tế, tính thời đại. Đúng như V.I.Lênin nói: "Người cộng sản phải làm giàu cho mình bằng mọi tinh hoa kiến thức nhân loại" [38, tr.21]. Ở đây cần phân tích ảnh hưởng Nho giáo đối với tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Nho giáo là vốn tri thức Người tiếp nhận từ thời thơ ấu cho đến năm 13, 14 tuổi, thời kỳ quyết định sự hình thành nhân cách con người. Nhưng Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã tiếp nhận Nho giáo qua các nhà nho yêu nước, trong diện mạo hoàn chỉnh của một hệ thống tư tưởng chính trị đạo đức đã được Việt hoá. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành) không còn là một lý thuyết khô khan về tôn ti đẳng cấp mà là nỗi canh cánh "quốc gia hưng vong thất phu hữu trách", biểu hiện sinh động qua tấm lòng trăn trở của các sĩ phu trong vùng, những bạn hữu cùng chí hướng thường đàm đạo với thân phụ Người về lòng dân, vận nước. Sự tiếp thu Nho giáo của Hồ Chí Minh là nhằm vào mục đích phục vụ cách mạng, phục vụ công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào. Người rất trân trọng các giá trị tích cực trong học thuyết Nho giáo, gạn lọc lấy những yếu tố phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Chẳng hạn như Người đánh giá cao ý tưởng về xây dựng một xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng trong Khổng Mạnh. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng khái niệm "Nhân" của Nho giáo. Người chỉ rõ "Nhân" là cốt lõi của tất cả. Nhân vừa có nghĩa là "ái nhân" tức yêu thương con người, vừa có nghĩa "thương dân" tức yêu thương nhân dân". Hồ Chí Minh giải thích "Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào", và đã mở rộng khái niệm đó như Người nói: "Chữ người nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng bầu bạn; nghĩa là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người" [41, tr.223]. Trong đức "Nhân" lấy dân làm gốc còn có cả "Hoà" như Hồ Chí Minh thường nói "Nhân hoà" trong đạo "Hiếu hoà" mà nói chung trên cả thế giới là yêu hoà bình, hoặc là sự hoà thuận trong gia đình và sự hoà hảo giữa các dân tộc. Đó là nền tảng đạo đức của khối đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết quốc tế mà Hồ Chí Minh đã nêu lên trong chiến lược cách mạng của mình. Chữ "Nhân" trong Nho giáo được phát triển thành từ nhân chính tức là chính trị nhân nghĩa. Tư tưởng này nhấn mạnh pháp trị, là "chế dân chi sản" (dạy dân làm ăn no ấm để dân không làm loạn) và "Vương hà tất viết lợi hữu nhân nghĩa như dĩ hỉ" (Nhà vua cần gì nói đến lợi, có nhân nghĩa là đủ rồi). Như vậy, tư tưởng nhân chính và nhân nghĩa đã có mặt tích cực và phát triển. Theo tư tưởng 9
- đó là phải quan tâm đến người dân, tạo điều kiện cho người dân có sự ổn định về kinh tế và chính trị; trong quản lý xã hội coi trọng dân. Hồ Chí Minh đã phát triển nội dung của "nhân chính" xưa kia là đặt chính trị trên một nềng tảng triết học nhân nghĩa. Cho nên, ngay sau khi vừa mới nhận trọng trách Nhà nước do Quốc dân trao phó, Người đã nêu bật phương châm đó của "nhân chính" là làm sao để "đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đến lúc đã dự thảo sẵn bản Di chúc gửi lại mai sau, Người vẫn khẳng định với đời những điều hết sức giản dị rằng: "Đánh thắng giặc Mỹ rồi thì những việc chính của cách mạng là làm thế nào giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề ăn, mặc, ở đi lại, học hành, phòng và chữa bệnh... Tóm lại là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân [37, tr45]. Trong các bài nói, bài viết nhằm giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về đạo đức cách mạng, nói rộng ra trong 60 năm hoạt động cách mạng phong phú và sôi nổi của mình, Hồ Chí Minh đã nhiều lần vận dụng những câu chữ có liên quan đến những khái niệm và mệnh đề Nho giáo với một ý nghĩa mới. Ví như các câu "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" được Người nâng lên và lấy làm quan điểm "dân là gốc". Lợi ích của nhân dân là trước hết, thứ đến là lợi ích của quốc gia, cái lợi của vua là không đáng kể. Hồ Chí Minh thường nói nhiều đến Khổng Tử, bởi vì Khổng Tử đã đóng góp cho loài người không ít giá trị mà ngày nay không thể đánh giá cách nào hơn cách mà Nguyễn Ái Quốc đánh giá từ những năm 20 của thế kỷ này "Đức Khổng Tử vĩ đại đã khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo bình đẳng về của cải. Ngài nói tóm lại là nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở với một nền đại đồng trong thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng. Sự công bằng sẽ xoá bỏ nạn nghèo khổ" [37, tr211]. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển những giá trị tinh thần tinh túy của Nho giáo nói chung và của Khổng Tử nói riêng, để giáo dục cán bộ, nhân dân ta phải có lòng khoan dung, có tính chân thành, có tình tương ái và tương trợ. Còn ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng nhân văn của Người đến mức nào, đây là vấn đề khó bởi thành tựu nghiên cứu về điều này còn ít. Nhưng sự thật hiển nhiên là dân ta và cả dân Ấn Độ nữa coi Hồ Chí Minh như một đức Phật bởi tình thương bao la tha thiết của Bác đối với con người. Tình cảm đó không phải ngẫu nhiên. Phật giáo được truyền bá vào nước ta rất sớm. Giáo lý của đạo Phật nêu cao đức từ bi. A Di Đà, Quan âm và các nhà sáng lập khác của đạo Phật là những Đức Phật đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Các vị có biểu thị lòng cảm thông sâu sắc đối với số phận của chúng sinh và có thiện ý muốn giảm nhẹ hoặc xoá bỏ những nỗi đau khổ của con người trên trái đất này. Nhưng từ bi Phật giáo thì khuyên con người chịu khó tu hành, mong sự cứu vớt đau khổ ở một đời sống tưởng tượng trên niết bàn. Nhân dân ta tiếp thu những giá trị của đạo Phật: từ bi bác ái, làm điều thiện tránh điều ác nhưng không phải theo nghĩa thụ động mà phải đoàn kết đấu tranh 10
- trực diện nhằm hưng lợi, trừ hại, lo lợi ích thiết thực cho dân, cho nước chứ không phải cầu mong. Chính vì vậy các khái niệm đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn của Phật giáo khi vào Việt Nam được làm giàu thêm, sự thương người vốn có của người Việt Nam cũng được phát triển hơn bởi tinh thần đấu tranh chống lại những cái ác. Muốn có điều thiện không chỉ tránh cái ác mà quan trọng hơn là phải làm mất chỗ dựa của cái ác, tiêu diệt nguồn gốc sản sinh ra cái ác. Hồ Chí Minh hết sức trân trọng những giá trị nhân văn trong đạo Phật. Người đã biểu lộ điều đó trong bức thư gửi các Phật tử Việt Nam nhân ngày lễ Phật rằm tháng bảy năm 1947: "Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độ clập cho Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ"[11, tr.408]. Như vậy, những giá trị nhân văn trong nền văn hoá phương Đông kết hợp hài hoà, hữu cơ với văn hoá bản địa. Những khái niệm nhân và nghĩa, thiện và mỹ cũng như nhiều thành phần khác trong nền văn hoá Việt Nam đã dung hòa cả nền giáo hoá của Phật giáo và đạo Nho... trở thành văn hoá truyền thống của dân tộc. Những tinh hoa triết học, văn hoá xã hội phương Tây cũng góp phần làm phong phú tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Từ trong nền văn minh phương Tây, Hồ Chí Minh cảm nhận sâu sắc vai trò tiến bộ của văn hoá phục hưng ở Italia trong thời gian đi qua Thuỵ sĩ và Itali a. Người rất trân trọng cuộc Đại cách mạng Pháp 1789 với khẩu hiệu bất hủ tự do bình đẳng bác ái với " không khí dân chủ và thân mật của các câu lạc bộ Gia côbanh" mà Người nhắc tới như một nét đậm đà trong ký ức. Ra đi từ một nước thuộc địa, phong kiến sang phương Tây với ý thức tìm đường cứu nước, cứu dân, Người đã tìm hiểu và tiếp nhận các giá trị nhân văn ấy để làm công cụ, phương tiện giáo dục, giác ngộ quần chúng nhân dân, để tiến công kẻ thù coi đó như là hạt nhân của công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng con người ở Việt Nam. Hồ Chí Minh nghiên cứu kỹ Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1789. Người rất coi trọng lý tưởng độc lập, tự do của các văn kiện bất hủ đó. Việc trích dẫn văn bản của hai cuộc Cách mạng tư sản Pháp và Mỹ trong Tuyên ngôn độc lập (291945) không phải là sự ngẫu nhiên. Nhận định của một nhà nghiên cứu cho rằng, đây chính là sự thống nhất giữa giá trị chủ yếu của các dân tộc trên thế giới, là thành quả chung của nhân loại trong cuộc đấu tranh vì quyền của các dân tộc và quyền của con người chống lại các lực lượng áp bức dân tộc nhằm giải phóng con người. Tinh hoa văn học phương Tây, đặc biệt là trong kho tàng văn học Pháp lúc bấy giờ được Hồ Chí Minh nghiên cứu và khai thác khá kỹ, như các tác phẩm của W.Sếchpia, Ch.Đíchken, V.Huygô, E.Dôla... Điều quan trọng là thông qua các 11
- tác phẩm văn học này, Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy một chủ nghĩa nhân văn, một khát vọng tự do và một tinh thần chiến đấu không khoan nhượng chống chế độ nô dịch và sự áp bức bóc lột. Nhưng còn quan trọng hơn là từ sự tiếp nhận các tri thức đó, Người đã sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị nhân văn mới nhằm mục đích giải phóng con người như những bài đăng trên báo Người cùng khổ, sách " Bản án chế độ thực dân Pháp". Một điều cần nhấn mạnh rằng, trên cơ sở những nhân tố tư tưởng trên, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa MácLênin mà tư tưởng nhân văn mác xít là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hệ tư tưởng đó. Đây là bước ngoặt cơ bản đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng nhân văn của Người nói riêng. Truyền thống nhân ái Việt Nam và nhân loại được lý luận Mác Lênin soi sáng, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và con người Việt Nam được gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng vô sản thế giới. đó là cơ sở làm cho tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được định hình, quyết định bản chất tư tưởng nhân văn của Người thuộc hệ tư tưởng nhân văn cách mạng, tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp vô sản. Thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin mà tư tưởng cốt lõi là vấn đề con người, sự tự do và phát triển toàn diện của con người, lợi ích và hành phúc của con người gắn liền với cuộc đấu tranh và thắng lợi của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, sự khẳng định một chế độ xã hội tiến bộ về mặt lịch sử trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người đã giúp cho Hồ Chí Minh quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cứu dân phù hợp với quy luật lịch sử hiện đại. Ảnh hưởng sâu sắc và quyết định ấy thể hiện trong câu nói của Người: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hoà bình, hạnh phúc" [8, tr.115116]. 2. Khái niệm và những nội dung chủ yếu của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh Để tiến tới một khái niệm hoàn chỉnh, phản ánh được bản chất, cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, cần thống nhất một số khía cạnh. Đối với Hồ Chí Minh vấn đề hàng đầu và vấn đề quán xuyến suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình là vấn đề yêu thương, tôn trọng, tin tưởng con người và sự nghiệp giải phóng con người. Toàn bộ sức lực, tâm tư, tình cảm, trí tuệ và cả cuộc sống của Hồ Chí Minh đều tập trung vào mục đích đó. Con người trong quan điểm của Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng mà rất cụ thể. Đó là toàn thể nhân loại, là số đông các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động, trước hết là những người bị bóc lột đau khổ, bị nô lệ, đoạ đày của dân tộc mình và cả nhân loại cần lao bị áp bức không phân biệt chủng tộc và màu da. Từ đó, khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nêu như sau: "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là hệ thống những quan niệm, quan điểm của Hồ Chí Minh về con người và cách ứng xử của con người với bản thân, với 12
- người khác, với công việc và với các sự vật, hiện tượng trên thế giới vì con người, tiến tới giải phóng triệt để con người thấm đượm tinh thần dân tộc và quốc tế trong sáng, thủy chung. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là kết quả tổng hợp của quá trình kết tinh những giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có thể khái quát thành mấy điểm chủ yếu sau: Một là, quan niệm của Hồ Chí Minh về con người. Đó là lòng yêu thương và quý trọng con người gắn với lòng yêu dân, yêu nước nồng nàn. Biểu hiện nổi bật trong tư tưởng của Người về sự kế thừa "đạo lý làm người" của dân tộc Việt Nam. Từ xưa tới nay, khi xử thế với đời, những con người có đạo đức cao cả trong nhân dân ta thường hay lấy chữ "Nhân" làm gốc. Chữ nhân ở đây được hiểu theo nghĩa thương yêu người. Ông vua có nhân là ông vua biết thương yêu dân như con, kính trọng dân như trời, coi dân là ý trời. Ông quan có nhân là ông quan chẳng những không ép nạt dân mà trái lại còn bênh vực dân. Người dân có nhân là người sẵn lòng cứu nghèo, giúp khổ, giải hoạn nạn cho người khác mà không tiêc công, tiếc của, không cần trả ơn. Người ta thường nói: tu nhân tích đức là theo nghĩa như vậy [ 34, tr.252]. Trong xã hội phong kiến ở nước ta, các sĩ phu tiến bộ cũng rất coi trọng chữ "nhân". Khi giặc Nguyên xâm chiếm nước ta (năm 1285), Trần Quốc Tuấn đã nói với binh sĩ "ai nấy cần giữ phép tắc, đi đến đâu không được nhiễu dân mà phải đồng lòng hết sức đánh giặc. Ông bộc lộ lòng yêu nước, thương dân của mình "Ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa xé thịt, lột da quân giặc". Còn Nguyễn Trãi, trong một bức thư kêu gọi tướng giặc Vương Thông đầu hàng đã viết: "Nước Việt Nam, tuy xa xăm ở cõi lĩnh ngoại, nhưng vẫn có tiếng là một nước thi thư, những bậc tài trí đời nào cũng sẵn có. Bởi vậy, phàm những việc ta làm, hết thảy đều theo lễ nghĩa, trên ứng với trời, dưới thuận lòng người". Nguyễn Du đã bày tỏ lòng thương mười loại người xấu số của xã hội phong kiến thối nát trong bài Văn tế thập loại chúng sinh và xót xa cho thân phận con người bị vùi dập trong kiệt tác truyện Kiều. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu bật lý tưởng nhân đạo, có lòng tin và lòng ưu ái đặc biệt với những người nông dân Nam Bộ. Thông cảm nỗi tủi nhục của những người bị mất nước, cụ Phan Bội Châu đã bôn ba nhiều năm trời nơi hải ngoại để tìm một con đường cứu nước và biểu thị tấm lòng thương dân tha thiết trong các vần thơ gửi về nước kêu gọi các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh với giặc. Tình thương yêu những người bị chà đạp, bị đối xử tàn tệ trong xã hội phong kiến ác nghiệt, trong chế độ thực dân tàn bạo là yếu tố quan trọng làm cho họ có tấm lòng yêu quê hương đất nước. Tuy nhiên, do thế giới quan và nhân sinh quan bị hạn chế của thời đại lúc bấy giờ, lý tưởng nhân đạo, tư tưởng nhân văn của những sĩ phu yêu nước nói trên thiếu một cơ sở dân chủ vững chắc, phạm những thiếu sót rất cơ bản mà chúng tôi sẽ nói kỹ ở phần sau. 13
- Lần đầu tiên trong lịch sử ở nước ta, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, Hồ Chí Minh đã tỏ rõ là một nhà nhân văn vĩ đại đã có một lý tưởng rõ rệt về lòng nhân ái cộng sản. Lòng nhân ái, sự thương người, thương dân của Hồ Chí Minh đã đặt đúng vào những "người cùng khổ" nhất, xấu số nhất trong xã hội. Đó là những công nhân, những người nông dân và các tầng lớp lao động khác bị áp bức, bị bóc lột tận xương tuỷ ở nước ta và trên thế giới, không phân biệt chủng tộc màu da. Hễ ai bị khổ là Người thương. Tình thương đó của Hồ Chí Minh được biểu lộ từ những năm tháng nhỏ tuổi sống ở quê hương đất nước bị đô hộ bởi chính sách thực dân, trước cảnh đói nghèo, lầm than cơ cực, lam lũ, bị ức hiếp, bắn giết, tù đày của nhân dân ta. Những năm tháng ra nước ngoài hoạt động, Người đã từng chứng kiến cảnh người lao động bị bóc lột, bị đàn áp dã man. Tình thương của Người đối với những người lao động bao giờ cũng gắn liền với sự căn thù bọn thực dân, đế quốc tàn bạo, kẻ gây nên bao cảnh thống khổ đối với dân lành. Đến Mỹ, Hồ Chí Minh không bị choáng ngợp bởi tượng Thần Tự do đồ sộ và nhiều nhà chọc trời, mà lại rất chú ý đến nỗi cơ cực của người dân lao động da đen và da trắng, căm phẫn thủ đoạn tra tấn dã man của đảng 3K đối với người lao động da đen Mỹ theo kiều hành hình Lin sơ. Ở giữa Pari tráng lệ, Người không ca ngợi sự giàu sang của nó mà lại viết bài đăng báo Nhân đạo mô tả về cuộc sống điêu đứng của xóm nghèo, người nghèo. Đó là một biểu hiện tình thương yêu con người bao la của Hồ Chí Minh. Những năm sau chiến tranh của thế giới lần thứ nhất, Nguyễn ái Quốc là cây bút tố cáo mạnh mẽ tội ác chế độ thực dân và bênh vực quyền của các dân tộc bị áp bức giành lại nhân phẩm và tự do. Người nói nhiều đến cảnh khổ sở, bị bóc lột thậm tệ của người công nhân Ô da ca, một trong những trung tâm công nghiệp của nước Nhật. Người vạch rõ âm mưu và thủ đoạn dã man của CNĐQ và CNTD đối với nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Hình thù của nó là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu của giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính quốc, một vòi hút máu giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Sự có mặt và sự tác oai tác quái của nó trên trái đất này là cội nguồn của mọi thảm hoạ, mọi nỗi đau khổ đã trút lên đầu lên cổ nhân dân lao động ở các nước thuộc địa từ mấy thế kỷ nay. Hồ Chí Minh vạch trần tội ác của thực dân Pháp bóc lột nặng nền và tàn tệ người nông dân, người công nhân và nói chung là toàn thể dân tộc Việt Nam. Chúng bóc lột bằng "thuế máu", sưu cao, thuế nặng, bằng chính sách ngu dân và đặt ra bao nhiêu luật lệ vô tội vạ, rất khắc nghiệt cho phép các nhà cầm quyền hễ ngứa tay thì phạt vạ, tống tù và thảm sát đẫm máu người dân bản xứ. Người thông cảm tình cảnh đau khổ của những người nông dân Nam bộ, bị bọn thực dân và địa chủ cướp đoạt ruộng đất, bị thuế má nặng nề. Người tỏ lòng thương tiếc những gia đình có con em bị thực dân giết hại và viết: "Dù máu người Việt Nam nhuộn đỏ "đồng Mả ngụy" có phai đi với thời gian đi chăng nữa, thì vết thương 14
- lòng của những bà mẹ già, những người vợ goá, những đứa con côi không bao giờ hàn gắn được" [8, tr.377378]. Hồ Chí Minh rất lo lắng đến cảnh ngộ của những người phụ nữ và những em thiếu nhi. Người đã từng lên tiếng vạch trần hành động dã man của bọn thống trị đối với phụ nữ ở các nước thuộc địa: "Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược" [8, tr.435] của bọn người xâm lược. Người xót xa khi nhìn thấy các cháu bé dân tộc thiểu số ốm yếu xanh xao theo ngườì lớn vào chào Đại hội Quốc dân Tân Trào và nói với các đại biểu : Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho các cháu bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ mãi thế này. Trong cuộc đời Hồ Chí Minh, tình thương yêu của Người giành cho đồng bào đồng chí thật mênh mông. Người quan tâm không sót một ai với thái độ chân tình, cởi mở, gần gũi với mọi người và mọi người cũng dễ gần gũi với Người. Người sắp xếp cho mỗi người vị trí xứng đáng, phù hợp với khả năng của mình, lo lắng chu đáo cho mọi người về việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi vừa thương yêu, dìu dắt, thắm tình đồng bào, nghĩa đồng chí. Đối với những kẻ lầm đường lạc lối, Người cũng giành những tình thương. Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy nay biết hối cải. Người tỏ lòng bao dung độ lượng đối với tù binh bị bắt. Lòng thương người, thương dân của Hồ Chí Minh phản ánh lập trường của giai cấp công nhân nhằm đấu tranh xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ hình thức người bóc lột người, đem lại cuộc sống thật sự hạnh phúc, ấm no cho con người. Do đó lòng nhân ái, sự thương người của Bác là một động cơ lớn trong hoạt động cách mạng. Người quan tâm hết thảy, từ những việc lớn đến việc nhỏ có quan hệ tới con người, từ công cuộc đấu tranh, chiến đấu để giải phóng dân tộc, giải phóng con người thoát khỏi ách áp bức bóclột, xoá bỏ di sản nặng nề của CNTD, đế quốc và phong kiến, biến đổi và cải tạo nền kinh tế, văn hoá lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế, văn hoá tiên tiến đến những việc có liên quan đến đời sống thường ngày như tương cà mắm muối của nhân dân. Người nói: "Dân lấy ăn làm trời; nếu không có ăn là không có trời... Vì vậy chính sách của Đảng và chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và chính phủ có lỗi [14, tr.260]. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh coi trọng nhân cách con người, quý trọng những người lao động, coi con người không chỉ là sản phẩm của hoạt động tự nhiên và xã hội mà còn là sản phẩm của chính bản thân mình. Đối với Hồ Chí Minh, con người không chỉ tiếp thu mà còn sáng tạo. Quần chúng nhân dân lao động đóng vai trò là động lực của cách mạng, là chủ thể của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng cả chính mình. Vì thế, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh làm cho mỗi con người Việt Nam nhận thức được vait rò và sứ mệnh cao quý của mình. Hồ Chí Minh cho rằng, mọi việc đều do con người làm ra cả. Người quý trọng người lao động chân tay và trí óc, từ nông dân, công nhân, trí thức cho đến 15
- "anh bộ đội Cụ Hồ", từ trẻ đến già, từ đồng bào miền xuôi đến đồng bào miền núi, đồng bào trong nước và đồng bào ngoài nước. Người ân cần, chăm chút, khuyến khích, tôn trọng con người, rất coi trọng khả năng trí tuệ của mọi người. Hồ Chí Minh đã tập hợp động đảo nhân dân lao động, những người có tài có sức, có nhiệt tình ra gánh vác việc nước. Hai là, quan điểm của Hồ Chí Minh về cách ứng xử, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá của con người. Con người ở đây trước hết là những người lao động: công nhân, nông dân và trí thức cách mạng... và nói chung là quần chúng lao động. Niềm tin đó của Người hình thành từ những ngày niên thiếu và suốt quãng thời gian bôn ba nơi hải ngoại tìm đường cứu dân, cứu nước. Chính những năm tháng hoạt động ở nước ngoài đã tạo cho Hồ Chí Minh (lúc đó là Nguyễn Ái Quốc) niềm tin rằng: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến"[8, tr.10]. Theo Hồ Chí Minh, tin vào sức mạnh quần chúng nhân dân lao động là một phẩm chất cơ bản của người cách mạng và cũng là chỗ khác căn bản với các giai cấp bóc lột và các sĩ phu phong kiến ở nước ta. Chúng ta đều biết lịch sử xã hội loài người từ xưa đến nay là do bản thân quần chúng xây dựng nên và chính họ là động lực thúc đẩy lịch sử tiến lên không ngừng. Nhưng các giai cấp bóc lột vì lợi ích giai cấp của mình đã xoá nhoà, làm lu mờ vai trò của quần chúng trong lịch sử. Chúng coi quân chúng chỉ là một bầy ngu dại. Kể cả những nhà hiền triết trước đây, do địa vị và quan điểm giai cấp của bản thân họ và do sự hạn chế của lịch sử nên cũng không thấy đúng vai trò quần chúng. Họ cho rằng quân chúng là những người tiêu cực, bị động, chịu sự sai khiến của những nhân tài lỗi lạc. Họ tuyệt đối hoá, cường điệu vai trò của các cá nhân, anh hùng hào kiệt, còn vai trò của quần chúng thì bị bỏ quên, không nói tới. Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm nay đã khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân lao động. Nhân dân ta đã nêu cao tinh thần đấu tranh, đoàn kết chống ngoại xâm, chống áp bức xã hội và chống thiên tai. Nhân dân lao động là lực lượng quyết định sự mất còn của Tổ quốc, sự hưng vong của các triều đại; đó là một sự thật khách quan không phụ thuộc vào bất cứ ai. Sự nghiệp vẻ vang là do Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... lãnh đạo chính cũng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng dưới chế độ phong kiến, vai trò quần chúng nhân dân nước ta bị lu mờ, chính bản thân họ cũng không nhận thức được sức mạnh của mình. Là lực lượng có tác dụng quyết định sự biến đổi của lịch sử nhưng cuối cùng quần chúng vẫn bị áp bức, bị bóc lột, bị coi chỉ là những kẻ “thảo dân”. Dưới thời thực dân, đế quốc phương Tây xâm lược, nhiều nhà ái quốc có tâm huyết với nền độc lập tự do của Tổ quốc đã kêu gọi quần chúng đứng lên chống lại chúng giành độc lập nhưng họ quan niệm quần chúng chỉ là những người thụ động. Họ thiếu lòng tin vào khả năng quần chúng mình đứng lên tự 16
- giải phóng. Đó là một trong những nguyên nhân thất bại của các phong trào ái quốc trước đầy. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác Lênin, những người cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn vai trò của quần chúng, niềm tin vào sức mạnh và phẩm giá của họ càng mãnh liệt. Chẳng những Hồ Chí Minh hiểu: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [15, tr.701] mà còn chỉ cho Người thấy rõ cả những lực lượng cách mạng bảo đảm cho công cuộc giải phóng ấy thắng lợi. Lực lượng cách mạng ấy trên phạm vi toàn thế giới là "vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Lực lượng cách mạng ấy đối với từng nước có thể khác nhau nhưng bao giờ cũng lấy công nhân, nông dân làm lực lượng cơ bản, bao giờ cũng phải được đông đảo quần chúng tham gia. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, vai trò của quần chúng nhân dân lao động đã được hiểu đúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng tự mình giải phóng lấy mình, không có anh hùng hào kiệt nào có thể cứu vớt được quần chúng mà chính bản thân quần chúng được giác ngộ, được tổ chức, đoàn kết dưới sự lãnh đạo của một đảng tiên phong của giai cấp công nhân thì mới giải phóng cho mình được. Tin vào quần chúng, tin vào con người, Hồ Chí Minh đã nêu cao vai trò tích cực, chủ động sáng tạo của con người, của quần chúng. Người nói, cách mệnh là việc chung của cả dân chứ không phải của một, hai người, công nông là gốc của cách mạng. Muốn giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Người tự khẳng định, có dân là có tất cả. Nhưng để quần chúng có sức mạnh thực sự, Hồ Chí Minh nói phải "đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập" [8, tr.174]. Với những tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển đạo quân chính trị của cách mạng là điều cơ bản, có ý nghĩa quyết định" đối với cách mạng Việt Nam. Trong đội ngũ quân chính trị ấy, quần chúng được động viên và lôi cuốn mạnh mẽ, rộng rãi vào cuộc đấu tranh từ thấp lên cao, không ngừng giác ngộ chính trị, phát triển đội ngũ ngày càng lớn mạnh. Nhờ đó khi tình thế cách mạng xuất hiện, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã phát động quần chúng đứng lên đánh đổ ách thống trị của thực dân và phong kiến, chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến lên xây dựng chế độ mới. Trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới, quần chúng nhân dân cũng đã phát huy nhiệt tình cách mạng và tài năng sáng tạo của mình. Cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo đã chứng minh sức mạnh sáng tạo vĩ đại của nhân dân và dân tộc Việt Nam bằng những thắng lợi liên tiếp trong khởi nghĩa, trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh giữ nước và xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp của dân, do dân và vì dân hiện nay, đánh thắng cả CNTD, phong kiến, đánh Pháp, đuổi Nhật, đánh CNTD cũ, đánh bại CNTD mới, từng bước chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. 17
- Chính vì thấy được sức mạnh dời non, lấp biển của con người, của nhân dân, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên tin tưởng vào nhân dân, phát huy mọi năng lực của nhân dân. Bởi vì như Người nói "Thắng lợi của cách mạng là do sức phấn đấu hy sinh và trí thông minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách mạng" [18, tr.58]. Thành công của Đảng ta là ở chỗ Đảng ta tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của quần chúg nên đã tổ chức và phát huy được lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu một cách dũng cảm và thông minh dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác Lênin. Do đó, Người căn dặn phải đi sát nhân dân, dựa vào nhân dân để hoàn thành mọi nhiệm vụ của cách mạng. Người nói, phải nhớ dân là chủ, bao nhiêu lực lượng, bao nhiêu quyền hành là ở dân hết. Người cán bộ phải biết dân tốt, lúc họ hiểu thì việc gì khó mấy họ cũng làm được. Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong. Nhân dân ta rất thông minh. Quần chúng lao động có rất nhiều kinh nghiệm và sáng kiến. Lòng tin vào con người của Hồ Chí Minh vô cùng mãnh liệt và rộng lớn. Người tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người, dù ai đó có nhất thời bị lỗi lầm, dù nhỏ nhen thấp kém. Người nói, trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, đều dòng dõi của tổ tiên ta. Điều cốt yếu là phải có lòng khoan dung độ lượng. Người rất quan tâm đến việc giáo dục con người, biết khuyến khích cái tốt, khuyên con người làm điều thiện, đẩy lùi cái xấu, cái ác, nâng đỡ con người lên. Người từng chỉ rõ, trong con người ta bao giờ cũng có phần tốt và phần xấu. Người cách mạng phải giáo dục, cảm hoá họ để cho phần tốt của mỗi con người nảy nở phát triển như hoa mùa xuân và đẩy lùi phần xấu của mỗi con người. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như trong xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh không những đã tập hợp được một lực lượng cách mạng rộng lớn mà còn lôi kéo nhiều người tiến bộ ở các tầng lớp khác trong nước và ngoài nước ủng hộ đoàn kết với nhân dân chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Người có sức thu hút và cảm hoá rất lớn là do nhiều lẽ, chúng tôi đồng ý với luật sư Phan Anh cho rằng, "cái lẽ sâu xa nhất là từ lòng tha thiết tin yêu nhân dân, tin yêu con người và tin yêu cả loài người" tiến bộ. Lòng nhân ái của Hồ Chí Minh vừa là chủ động đấu tranh giải phóng con người. Chính điểm này đã làm cho Hồ Chí Minh, nhà hiền triết hành động và chiến đấu. Trong xã hội có đối kháng giai cấp và dân tộc, những người lao động chỉ có hành động, hành động đấu tranh cách mạng mới đem lại hạnh phúc cho mình. Dân tộc Việt Nam những năm dưới chế độ thực dân, đế quốc sống trong cảnh cực khổ không sao chịu đựng nổi. Độc lập, tự do, hạnh phúc và các quyền dân tộc sơ đẳng, các quyền con người tối thiểu nhất cũng bị chế độ thực dân tước đoạt. Muốn sống cuộc sống của con người phải làm cách mạng, kẻ thù không bao giờ để cho dân tộc ta được sống yên vui trong hoà bình. C.Mác nói, hạnh phúc là đấu tranh (đấu tranh chống lại mọi thế lực áp bức mình, để giải phóng con người và loài người TĐC giải thích 18
- thêm), khuất phục là sự đau khổ và quỵ luỵ, là tính xấu đáng gờm nhất. Ph.Ăngghen cũng nêu lên nguyên lý, giai cấp vô sản không chỉ là một giai cấp chịu khổ mà trước hết là giai cấp có sứ mệnh đánh đổ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới vì hạnh phúc con người. V.I.Lênin đã làm sáng tỏ hơn vai trò xây dựng xã hội mới, đó của những người vô sản và nhân dân lao động. Và nói chung, các nhà lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin luôn đánh giá cao vai trò lịch sử của quần chúng lao động là người sáng tạo ra xã hội mới bằng cách mạng. Cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức, bóc lột và chính trong cuộc đấu tranh tự giác cho một xã hội không có chế độ người bóc lột người, mỗi người đều có khả năng phát triển đầy đủ năng lực, phẩm chất của mình. Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng, là chiến sĩ cộng sản và là một nhà nhân văn lớn. Lý tưởng và quyết tâm của Người là chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Đó là điều khác cơ bản với các tư tưởng nhân văn trừu tượng, phi hiện thực và những tư tưởng thương người theo kiểu từ bi, bác ái, cầu xin của các tôn giáo. Các nhà tư tưởng trước đây trong xã hội cũng xuất phát từ động cơ trong sáng là muốn đem lại cho con người tự do, hạnh phúc, xây dựng một xã hội mọi người sống bình đẳng, no ấm, yên vui... nhưng lại đứng trên quan điểm duy tâm lịch sử, thổi phồng và cường điệu vai trò của tư tưởng, truyền thống con người trừu tượng, siêu giai cấp. Cho nên, họ dừng lại ở lòng thành thật thương yêu nhân quần ở "chính nghĩa vĩnh hằng", ở "lý trí muôn thủa", ở những ước mơ tốt đẹp mà không bao giờ trở thành hiện thực. Các tôn giáo thường nói đến từ bi, bác ái nhưng cắt nghĩa rằng kẻ giàu người nghèo là do trời, phật định đoạt thì làm sao có tư tưởng nhân văn chân chính. Trong các kinh phật, kinh thánh chứa đựng nhiều nội dung về cuộc đời, về số phận và lòng mong ước của con người về cuộc sống hạnh phúc nhưng lại khuyên con người hãy chịu đựng, hãy nhẫn nhục ở trần gian và mong siêu thoát ở nơi thiên đường hư ảo. Các thứ từ bi, bác ái của tôn giáo thường bị biến thành công cụ trong tay các giai cấp bóc lột dùng để đánh lạc hướng hay ru ngủ quần chúng lao động. Chịu ảnh hưởng nặng tư tưởng triết học của Khổng giáo, bên cạnh mặt tiến bộ như đã trình bày ở trên, các sĩ phu nước ta quan niệm về chữ "nhân" theo quan điểm phong kiến. Họ cũng biểu thị lòng thương dân tha thiết, đồng cam số phận người nghèo khổ, nhưng nhìn chung vẫn ở khía cạnh lòng thương hại, sự lo lắng của họ chủ yếu là lo cho số phận những người thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc hơn là quan tâm đến quyền lợi của những người bị đày đoạ và bị áp bức nhất. Nếu có đứng lên trị tội bọn vua quan phong kiến tàn ác, hay đấu tranh chống lại những thế lực khắc nghiệt chà đạp quyền sống của con người , họ vẫn bảo vệ chế độ phong kiến, duy trì trật tự xã hội ấy. Các quan niệm về "trung", "hiếu", "tiết", "nghĩa" của họ tuy có biến đổi theo tư tưởng bình dân và tinh thần dân tộc, nhưng về căn bản vẫn thuộc ý thức hệ phong kiến lạc hậu. Thí dụ, giá trị nhân văn trong tác phẩm Chinh phụng ngâm vẫn còn dừng lại ở mức độ than thở hoặc bất bình với chiến tranh làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi 19
- của tầng lớp thành niên quý tộc chứ chưa phải là những lời kêu gọi đánh đổ chế độ phong kiến thối nát, nguyên nhân gây ra các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Còn tư tưởng nhân văn tư sản có nói đến đấu tranh chống chế độ phong kiến và các thế lực tôn giáo khắc nghiệt, đòi giải phóng cá nhân con người nhưng thực chất cũng là bênh vực giai cấp tư sản, đề cao chủ nghĩa cá nhân, đàn áp bóc lột công nhân, nông dân và nhân dân lao động. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cũng khác với tư tưởng nhân văn trừu tượng của bọn xét lại, cơ hội, cải lương âm mưu đem chủ nghĩa nhân đạo tư sản hoà đồng với chủ nghĩa cộng sản nhằm xoá bỏ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp công nhân và những người lao động, lấy hạnh phúc của con người làm nguyên tắc cao nhất. Nhưng hạnh phúc của con người là gì nếu không phải là thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột của CNTD, CNĐQ, đem lại cho con người sự làm chủ toàn diện, mọi người cùng nhau lao động xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, yên vui trong tình thương và lẽ phải; ai nấy đều được phát triển đầy đủ nhân cách, sở trường và năng khiếu trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia đình và xã hội. Cho nên, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc, đấu tranh đòi tự do dân chủ, xây dựng và phát triển CNXH là tư tưởng nhân văn, là tư tưởng nhân đạo đích thực. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vì thế nhằm vào hành động và hướng quần chúng nhân dân lao động vào cuộc đấu tranh để biến những quan niệm, lý tưởng tốt đẹp, khát vọng và ước mơ giải phóng nghìn đời của mình thành hiện thực. Khát vọng giải phóng của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam càng thêm nung nấu và bùng cháy bởi ách đô hộ cực kỳ tàn bạo của bọn phong kiến, thực dân và đế quốc. Lúc bấy giờ, nhân dân Việt Nam ta điêu đứng trong cảnh ngộ mất nước, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hoá, bị đày đoạ trong đói rách và bệnh tật.Toàn xã hội Việt Nam, nhất là những người lao động, lâm vào số phận của kẻ nô lệ bi thảm, mọi quyền sống và quyền làm người bị chà đạp. Muốn sống phải đứng lên chiến đấu chống lại kẻ thù đang chà đạp nhân phẩm và các quyền thiêng liêng khác của con người. Lịch sử Việt Nam hơn 80 năm dưới ách ngoại xâm là lịch sử của những trận chiến đấu oai hùng cho công cuộc giải phóng dân tộc. Nhưng các cuộc chiến đấu đó của nhân dân lao động nước ta có được mục tiêu tự giải phóng rõ ràng và cao đẹp, tổ chức chặt chẽ và khoa học, biện pháp triệt để và có hiệu quả từ khi Hồ Chí Minh tìm con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn để biến ý chí giải phóng con người thành hiện thực. Khác với các sĩ phu yêu nước lớp trước ở chỗ Hồ Chí Minh đã gắn liền với tình cảm yêu nước, thương dân với hành động đấu tranh cứu nước, cứu dân. Trong hoàn cảnh nước mất, phải quyết tâm tìm đường cứu nước. Mọi suy nghĩ và việc làm của Người đều thể hiện tinh thần mong muốn cứu giúp đồng bào khỏi kiếp trâu ngựa. Người đã gắn ước mơ, hoài bão, khát vọng, lý tưởng giải 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập. Giá trị và bài học của nó đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên Trường đại học Kiến trúc hiện nay
30 p | 1081 | 229
-
Tiểu luận Những ưu đãi cho doanh nghiệp khi đầu tư vào khu kinh tế Nhơn Hội.
14 p | 858 | 179
-
Tiểu luận: Lòng đoàn kết, nhân nghĩa trong mỗi con người
30 p | 427 | 84
-
Đề tài: Phân tích tư tưởng quản trị nhân sự của người Nhật
38 p | 379 | 83
-
Bài thuyết trình tư tưởng Hồ Chí Minh
15 p | 675 | 81
-
Bài tiểu luận Tài chính tiền tệ: Lạm phát của Việt Nam từ 2004 đến nay - Nguyên nhân, hậu quả và biện pháp khắc phục
35 p | 462 | 64
-
Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một ...".
13 p | 827 | 64
-
Bài thảo luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Làm rõ phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
13 p | 1032 | 51
-
Bài tiểu luận: Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể
8 p | 536 | 37
-
Tiểu luận Quản trị nguồn nhân lực: Phân tích tư tưởng quản trị nhân sự của người Nhật
38 p | 146 | 35
-
Bài tiểu luận: Giải pháp hoàn thiện công tác marketing-mix của nhà máy sản xuất gạch không nung ép tại Công ty Cổ phần Đầu tư Nông nghiệp Sài Gòn Thành Đạt
65 p | 61 | 33
-
Bài thuyết trình bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phần I - CĐ Công thương TP. HCM
25 p | 199 | 20
-
Bài tiểu luận Quản lý công: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và sự vận dụng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay
32 p | 76 | 20
-
Bài tiểu luận kết thúc học phần: Quản lý dự án đầu tư
22 p | 69 | 18
-
Bài tiểu luận: Mục tiêu, nhiệm vụ, và tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
26 p | 149 | 15
-
Bài tiểu luận: Phân tích hiện tượng sống thử trong giới trẻ Việt Nam từ góc độ tâm lý học xã hội và đề xuất giải pháp
13 p | 41 | 3
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Tư tưởng nhân học xã hội trong Kinh Thánh
19 p | 43 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn