Đề bài: Bàn về hám danh và hám lợi<br />
Bài làm<br />
Nguyễn Công Trứ (17781858), một ông quan to của triều Nguyễn, nhà thơ kiệt xuất của <br />
đất nước ta trong thế kỉ XIX từng nói về vị thế của kẻ sĩ, của đấng nam nhi giữa cõi đời <br />
là “Phải có danh gì với núi sóng”; nếu “Không công danh thời nát với cỏ cây“.<br />
Chỉ có phường giá áo túi cơm, còn hầu như ai cũng muốn lập thân, cũng muốn làm nên <br />
công danh sự nghiệp. Tuy vậy, động lực của mỗi người một khác. Có người hiểu danh, <br />
nhưng có kẻ lại hám danh, háo danh.<br />
Kính yêu và biết ơn cha mẹ, hết lòng săn sóc cha mẹ là hiếu thảo. Siêng năng, chăm chỉ <br />
học hành là hiếu học. Hiếu thảo, hiếu học đều mang hàm nghĩa đẹp, tốt.<br />
Trái lại, hiếu danh (có tư tưởng ham danh vọng, tiếng tăm), hiếu chiến (thích gây chiến, <br />
đánh nhau), hiếu sắc (mê thích gái đẹp), hiếu sát (thích chém giết), hiếu thắng (thích hơn <br />
người), hiếu sự (thích bày chuyện phiền phức),... đều mang nghĩa xấu.<br />
Còn “hám” nghĩa là gì? Hám là ham, muốn đến mức không còn biết phân biệt đáng với <br />
không đáng, nên với không nên, gần như mang tính bản năng; như hám của, hám danh, cá <br />
đói tham mồi,...<br />
Chữ “háo” gần nghĩa với chữ “hám”. Hám nghĩa là rất ham, rất thích đến mức hầu như <br />
không còn nghĩa gì khác, thật đáng chê trách; như háo danh, háo sắc, háo của, háo <br />
chuyện,... Vì “khát” mà “háo”<br />
Trong cuộc sống, ta thường bắt gặp nhan nhản đủ mọi loại người hiếu danh và hám <br />
danh. Những việc làm “ồn ào” của họ gây ra nhiều khó chịu cho nhiều người. Danh <br />
thường gắn liền với lợi; hám danh xét cho cùng là hám lợi. Có danh, có chức quyền nên <br />
mới có nhiều lợi lộc, bạc vàng. Những kẻ hiếu danh, hám danh, về tài thì hạn chế, về <br />
đức thì lèm nhèm, méo mó; còn lòng tham thì vô độ.<br />
Kẻ hiếu danh và hám danh không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào như xài bằng giả, sử dụng <br />
bằng giả, chạy khen thưởng, chạy chức, ra sức lũng đoạn đục khoét tiền của nhà nước, <br />
móc túi của dân. Vì hám danh, háo danh, hễ thấy lợi, thấy vàng, thấy đôla thì lao vào như <br />
con bạc khát nước, con thiêu thân lao vào ánh đèn. Chẳng có tài cán gì, đức độ gì những <br />
kẻ hám danh, hám lợi dùng đủ mọi trò ma quái để đánh lừa đồng loại. Bản chất, bản tính <br />
“Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê” nhưng chúng đóng kịch rất giỏi về sự trong sạch, về <br />
cần kiệm liêm chính,... để lừa bịp đồng loại.<br />
Một Phó bí thư tỉnh uỷ nọ lấy của công mấy nghìn đôla để mua bằng giả; bằng “Tiến <br />
sĩ” ngoại rởm bỏ túi chi trong vòng sáu tháng, thật, “nhanh hơn tên lửa”. Một Trưởng ban <br />
tuyên giáo tỉnh uỷ kia tạo dựng mọi giấy tờ giả, biên bản giả để kiếm cái Huân chương <br />
lao động hòng đeo lên ngực cho oai! Một Chủ tịch huyện sao “ăn đất khoẻ” rứa! Bộ mặt <br />
kẻ hám lợi bị vạch mặt, tay bị còng, bị đẩy vào nhà đá mà ngồi “bóc lịch” những năm dài! <br />
Và còn bao quan chức hám danh, hám lợi, làm xằng làm bậy mà chưa bị vạch mặt!<br />
“Trời mưa mau tối, nói dối mau cùng”, “giấu đầu hở đuôi", “một lời nói dối sám hối chín <br />
ngày”, “tham thì chết”,... là những câu tục ngữ nói lên cái hậu quả bi thảm của thói nói <br />
dối bịp bợm của kẻ hám danh, hám lợi.<br />
Chạy chức, chạy quyền vì hám danh, hám lợi. Ngày xưa, bọn lí dịch quan lại cố chạy vạy <br />
thầy thợ, cố lo lót quan trên để được cái Cửa phẩm, cái mềđay, thế là vênh vang mày <br />
mặt! Bọn cán bộ biến chất ngày nay, hoặc chạy chức, chạy bằng giả, chạy khen thưởng, <br />
để tiến thân mà nghễu nghện với đời, mà vinh thân phù gia. Lũ ấy đều đáng khinh bỉ.<br />
Thế gian rất công bằng, sáng suốt. Người có tài đức lập nên công danh sẽ được nhân dân <br />
ngưỡng mộ, tôn vinh. Ngô Bảo Châu, sinh năm 1972, năm 2010, tròn 38 tuổi đã nhận giải <br />
thưởng Fields được xem là giải “Nobel Toán học” Anh đã được nhân dân ta và báo chí <br />
ngợi ca, Đảng và Nhà nước trọng vọng. Anh đã làm rạng rỡ đất nước và dân tộc.<br />
Phải tu thân, rèn trí, luyện đức để lập nên công danh, sự nghiệp. Hám danh, hám lợi, tha <br />
hoá về lối sống, về nhân cách sẽ bị đồng loại khinh bỉ. Hai chữ “xuất xử” là phương <br />
châm ứng xử của ông cha, của những bậc hiền tài. Gặp thời thì đem tài năng ra giúp vua, <br />
giúp nước, lập công danh. Không gặp thời thì lui về mái nhà gianh, với suối rừng, làm <br />
bạn với trăng thanh, gió mát. Xưa, Nguyễn Trãi đã lui về Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm <br />
đã dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân. Đâu có chuyện chữa năm sinh, để mua chức, <br />
bán quyền, không chịu về hưu! Người có tài đức mới biết lẽ “xuất xử”. Còn bọn hám <br />
danh, hám lợi sao mà biết được! Nhân cách như lợn sề, tâm địa như sói, cầy thì làm sao <br />
mà biết hổ thẹn?<br />
Xã hội, đất nước ngày một đổi mới. Người người ra sức làm ăn, kinh doanh để làm giàu, <br />
góp phần làm cho đất nước phú cường, nhân dân được yên vui hạnh phúc. Trong hoàn <br />
cảnh ấy, trong xu thế đi lên của lịch sử, bàn luận về chuyện hám danh, hám lợi để rút ra <br />
bài học làm người, để mỗi chúng ta phấn đấu, tu dưỡng mà sống tốt đẹp hơn thật là lí <br />
thú.<br />