intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

115
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở Việt Nam hiện nay, về lí luận, người bị hại trong tố tụng hình sự là cá nhân hay có thể vừa là cá nhân vừa là cơ quan, tổ chức vẫn còn là vấn đề đang được tranh luận giữa các nhà nghiên cứu pháp luật và những người áp dụng pháp luật. Trong giới nghiên cứu luật học vẫn còn tồn tại hai quan điểm khác nhau về người bị hại: Quan điểm thứ nhất, người bị hại chỉ có thể là cá nhân, tức chỉ có thể là con người cụ thể, giống như...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam "

  1. nghiªn cøu - trao ®æi Ts. Vò gia l©m * 1. Ở Việt Nam hiện nay, về lí luận, do tội phạm gây ra”.(2) Tuy nhiên, những người người bị hại trong tố tụng hình sự là cá nhân có quan điểm như vậy hiện nay không nhiều. hay có thể vừa là cá nhân vừa là cơ quan, tổ Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ chức vẫn còn là vấn đề đang được tranh luận nhất và cho rằng pháp luật hiện hành xác giữa các nhà nghiên cứu pháp luật và những định người bị hại chỉ có thể là cá nhân là người áp dụng pháp luật. Trong giới nghiên hoàn toàn hợp lí, vì các lí do sau: cứu luật học vẫn còn tồn tại hai quan điểm Thứ nhất, từ “người” mà nhà làm luật sử khác nhau về người bị hại: dụng ở đây dùng để chỉ con người cụ thể với Quan điểm thứ nhất, người bị hại chỉ có tư cách là một thực thể tự nhiên và một thực thể là cá nhân, tức chỉ có thể là con người cụ thể xã hội. Thiệt hại mà tội phạm gây ra cho thể, giống như khái niệm chủ thể của tội họ có thể là thiệt hại về thể chất, tinh thần, phạm trong luật hình sự hay khái niệm bị tài sản, trong đó thể chất là yếu tố không thể can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự. Ví dụ: tách rời cá nhân. Vì vậy, không thể đánh quan điểm khoa học của Trường Đại học đồng “người” với tư cách này với các đối Luật Hà Nội cho rằng: “Luật tố tụng hình sự tượng khác không được gọi là “người”, đó là nước ta chỉ coi người bị hại là công dân, các cơ quan, tổ chức. pháp nhân hay tổ chức xã hội không được Thứ hai, thiệt hại mà tội phạm gây ra cho coi là người bị hại. Thể chất, tinh thần, tài cơ quan, tổ chức chỉ có thể là thiệt hại về vật sản của họ phải là đối tượng của tội phạm. chất, tinh thần vì thể chất là cái vốn gắn liền Thiệt hại mà người bị hại phải chịu phải là với con người cụ thể. Việc thay đổi tư cách thiệt hại thực tế, nếu thể chất, tinh thần, tài tham gia tố tụng của họ từ tư cách nguyên sản của một người chưa bị thiệt hại do tội đơn dân sự có yêu cầu bồi thường thiệt hại phạm gây ra thì người đó không được coi là sang tư cách người bị hại liệu có chính xác người bị hại”.(1) Quan điểm này dựa trên khi chúng ta sử dụng chữ “người” để chỉ các quy định của pháp luật thực định, mang tính đối tượng khác không phải là cá nhân, “con truyền thống, là quan điểm được thừa nhận người” theo đúng nghĩa của từ đó. Nếu làm rộng rãi từ trước tới nay. như vậy liệu có giúp đảm bảo tốt hơn quyền Quan điểm thứ hai, ngoài cá nhân, người lợi của các cơ quan, tổ chức này hay không? bị hại còn có thể là pháp nhân, cơ quan, tổ Theo chúng tôi, trong trường hợp bị thiệt hại chức. “Người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ * Giảng viên chính Khoa pháp luật hình sự chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản Trường Đại học Luật Hà Nội T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011 29
  2. nghiªn cøu - trao ®æi do tội phạm gây ra, việc nguyên đơn dân sự tụng và phương diện luật thực định hiện nay, hoặc người bị hại có bảo vệ được quyền và “người bị hại” được hiểu thống nhất là khái lợi ích hợp pháp của mình hay không, phụ niệm dùng để chỉ con người cụ thể, cá nhân thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: họ có bị tội phạm gây thiệt hại trực tiếp về thể được tạo điều kiện để thực hiện các quyền tố chất, tinh thần hoặc tài sản chứ không thể là tụng của mình hay không, việc áp dụng pháp pháp nhân hay cơ quan, tổ chức. luật để giải quyết những vấn đề liên quan 2. Quyền của người bị hại, người đại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ có diện hợp pháp của họ được quy định tại đúng đắn, khách quan không, phán quyết của khoản 2 Điều 51 BLTTHS đã tương đối cụ toà án liên quan đến quyền lợi của họ có thể và phù hợp với mục đích tham gia tố tụng được thi hành nghiêm chỉnh, kịp thời của họ. Tuy nhiên, vẫn có vấn đề cần xác không…? chứ không phải chỉ phụ thuộc vào định rõ là trong trường hợp nào thì có người tư cách tham gia tố tụng của họ. Vì vậy, việc đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia cho rằng nên coi các cơ quan, tổ chức bị tố tụng. Người đại diện hợp pháp của người thiệt hại trực tiếp về tài sản hoặc tinh thần là bị hại trong tố tụng hình sự là đại diện theo người bị hại trong vụ án hình sự thực sự pháp luật, người này xuất hiện trong ba không chính xác và cần thiết. trường hợp cụ thể khi: người bị hại là người Thứ ba, trên phương diện khái niệm chưa thành niên; người bị hại là người có pháp lí tố tụng thì hiện nay, “người bị hại” là nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; người khái niệm đã được ghi nhận tương đối thống bị hại trong vụ án chết. Trong các trường hợp nhất trong nhiều văn bản khác nhau. Cụ thể, này, việc tham gia tố tụng của người đại diện trong Từ điển tiếng Việt, người bị hại được hợp pháp của người bị hại là bắt buộc, họ có xác định là: “Người bị thiệt hại về thể chất, các quyền giống quyền của người bị hại, các vật chất hoặc tinh thần do tội phạm gây quyền này được thực hiện độc lập, phù hợp ra”;(3) trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật mục đích tham gia tố tụng của họ là nhằm bảo học pháp lí, người bị hại được xác định là vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị “Người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hại. Tuy nhiên, nếu quy định như tiêu đề của hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị khoản 2 Điều 51 BLTTHS “người bị hại hoặc hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội người đại diện hợp pháp của họ có quyền…” làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc nếu xét về ngữ nghĩa, lại phải hiểu là trong về tài sản chứ không thể là pháp nhân”.(4) trường hợp vụ án có sự tham gia của người Thứ tư, trên phương diện pháp luật thực đại diện hợp pháp của người bị hại thì chỉ một định, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) của trong hai người (người này hoặc người kia nước ta quy định về khái niệm người bị hại chứ không phải cả hai) có các quyền quy định tại khoản 1 Điều 51 như sau: “Người bị hại tại khoản 2 điều này. Như vậy là chưa hợp lí, là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, vì mặc dù việc tham gia tố tụng của những tài sản do hành vi phạm tội gây ra”. người này đều có chung mục đích bảo vệ Như vậy, cả trên phương diện pháp lí tố quyền lợi của người bị hại nhưng các tư cách 30 T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011
  3. nghiªn cøu - trao ®æi tố tụng đó lại có tính độc lập tương đối. Do diện hợp pháp của họ có quyền buộc tội bị đối tượng được bảo vệ có những hạn chế nhất cáo ngay sau luận tội của kiểm sát viên. Do định về khả năng độc lập trong việc thực hiện đó, để đảm bảo quyền lợi của người bị hại, các hành vi tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cần bổ sung khoản 2 Điều 191 BLTTHS hợp pháp của mình nên cần phải có người đại theo hướng đối với vụ án khởi tố theo yêu diện hợp pháp. Tuy nhiên, cho dù có người cầu, nếu người bị hại, đại diện hợp pháp của đại diện hợp pháp thì người bị hại vẫn có người bị hại vắng mặt có lí do chính đáng thì quyền độc lập của mình với tư cách tố tụng toà án phải hoãn phiên toà. Toà án chỉ xét xử đã được pháp luật xác định. Vì vậy, cần thay vắng mặt của họ trong trường hợp họ cố tình từ “hoặc” bằng cách thêm từ “và” hay dấu không đến theo giấy triệu tập hoặc đã yêu “phẩy” vào sau cụm từ “người bị hại” trong cầu toà án xét xử vắng mặt. quy định tại tiêu đề của khoản 2 Điều 51 Thực tế hiện nay có trường hợp phạm tội BLTTHS mới chính xác. ít nghiêm trọng, gây hậu quả không lớn khi BLTTHS quy định trường hợp vụ án xảy ra thường ít khi khởi tố, điều tra vì nhiều khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc vụ người bị hại, người đại diện hợp pháp của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người bị hại không muốn giải quyết công người chưa thành niên hoặc người có nhược khai vụ việc này bằng thủ tục tố tụng vì sợ điểm về tâm thần, thể chất, người bị hại hoặc ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm người đại diện hợp pháp của họ có quyền của mình hoặc vì giữa người bị hại và người buộc tội bị cáo tại phiên toà, quy định này là gây thiệt hại có mối quan hệ đặc biệt như hợp lí, giúp người bị hại và người đại diện quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và hợp pháp của họ trực tiếp bảo vệ quan điểm gia đình, quan hệ công tác, hoặc tốn kém buộc tội nêu trong yêu cầu khởi tố của mình. thời gian và chi phí hay trong nhiều trường Vì vậy, tại phiên toà xét xử, họ cần phải có hợp ngưòi bị hại chỉ quan tâm đến việc bồi mặt và vị trí của họ nên được đặt tương thường về dân sự v.v.. Ví dụ: các hành vi cấu đương với vị trí của kiểm sát viên thực hành thành tội phạm quy định tại khoản 1 các điều quyền công tố tại phiên toà, vì quyền buộc như Điều 107 Bộ luật hình sự (BLHS) tội tội bị cáo để bảo vệ quan điểm trong yêu cầu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khởi tố của mình cũng giống như quyền của khoẻ của người khác trong khi thi hành công kiểm sát viên luận tội để bảo vệ cáo trạng vụ; Điều 110 BLHS tội hành hạ người khác; vậy. Do đó, cần quy định sự có mặt của họ Điều 142 BLHS tội sử dụng trái phép tài sản; tại phiên toà là bắt buộc và toà án phải hoãn Điều 145 BLHS tội vô ý gây thiệt hại phiên toà nếu người bị hại, đại diện hợp nghiêm trọng tài sản; Điều 202 BLHS tội vi pháp của người này vắng mặt có lí do chính phạm quy định về điều khiển phương tiện đáng. Tuy nhiên, toà án có thể xét xử nếu họ giao thông đường bộ trong trường hợp không vắng mặt không có lí do chính đáng hoặc họ gây thiệt hại đến tính mạng hoặc thiệt hại yêu cầu xét xử vắng mặt. Nên quy định tại nghiêm trọng đến sức khoẻ người khác. Đối phiên toà xét xử, người bị hại hoặc người đại với các trường hợp này, cũng nên quy định T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011 31
  4. nghiªn cøu - trao ®æi chỉ khởi tố vụ án khi người bị hại hoặc đại án cấp phúc thẩm không chỉ trong phạm vi diện hợp pháp của người này yêu cầu. Vì hình phạt và bồi thường mà còn mở rộng ra những lí do trên, chúng tôi kiến nghị, sửa các vấn đề khác ngoài phạm vi mà người bị đổi, bổ sung khoản 1 Điều 105 BLTTHS theo hại, người đại diện hợp pháp của họ được hướng mở rộng phạm vi các tội phạm khởi kháng cáo như tội danh, khung hình phạt, tố theo yêu cầu của người bị hại, nhất là đối việc áp dụng án treo… mặc dù xét trên với một số tội phạm xâm phạm sở hữu, xâm phương diện bảo đảm quyền lợi của người bị phạm sức khoẻ của công dân đã nêu trên… hại là phù hợp với quy định của Điều 231 Về phạm vi quyền kháng cáo bản án, BLTTHS nhưng lại mâu thuẫn với quy định quyết định sơ thẩm và hiệu lực của kháng cáo tại Điều 51 Bộ luật này. Do không thống nhất của người bị hại, người đại diện hợp pháp của về căn cứ pháp lí như vậy nên điều đó nếu đối họ, hiện nay còn có sự chưa thống nhất trong chiếu quy định tại Điều 51 Bộ luật này thì các quy định của BLTTHS. Khoản 4 Điều 51 quy định tại Điều 249 nói trên làm ảnh hưởng BLTTHS quy định: “Người bị hại, người đại đến sự ổn định của các phần của bản án sơ diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo thẩm đã có hiệu lực pháp luật vì pháp luật bản án, quyết định của toà án về phần bồi không cho kháng cáo. thường cũng như về hình phạt đối với bị Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi, cáo”. Quy định này được hiểu là người bị hại, bổ sung quy định tại Điều 51 BLTTHS về người đại diện hợp pháp của họ chỉ được phạm vi quyền kháng cáo của người bị hại, kháng cáo phần bồi thường về dân sự và về người đại diện hợp pháp của họ (nếu có) đối hình phạt mà toà án đã áp dụng bao gồm loại với mọi vấn đề có liên quan đến quyền và lợi hình phạt, mức hình phạt mà không được ích hợp pháp của người bị hại cho thống nhất kháng cáo yêu cầu đổi tội danh khác hoặc với các quy định khác có liên quan như quy kháng cáo về việc toà án cho bị cáo hưởng án định tại Điều 231 BLTTHS về những người treo, áp dụng biện pháp tư pháp v.v.. Tuy có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, phù hợp nhiên, nếu theo quy định tại đoạn 1 Điều 231 với quy định về quyền sửa, huỷ bản án sơ BLTTHS “… người bị hại, người đại diện thẩm của toà án cấp phúc thẩm không chỉ tại hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án, Điều 249 BLTTHS mà còn phù hợp với quy quyết định của toà án” thì phải hiểu là người định về quyền huỷ bản án sơ thẩm quy định bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có tại Điều 250, 251 Bộ luật này. Có thể sửa quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định đổi, bổ sung khoản 4 Điều 51 BLTTHS theo sơ thẩm. Rõ ràng, Điều 231 đã mở rộng phạm hướng quy định cụ thể cho người bị hại, vi kháng cáo của người bị hại, người đại diện người đại diện hợp pháp của họ có quyền hợp pháp của họ so với quy định tại khoản 2 kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định của toà Điều 51 nói trên. Như vậy, đã có mâu thuẫn án nếu xét thấy quyết định của toà án cấp sơ giữa hai điều luật này khi quy định về cùng thẩm chưa chính xác, ảnh hưởng đến quyền vấn đề cụ thể. Trong khi đó, Điều 249 và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người BLTTHS quy định quyền sửa bản án của toà mà mình đại diện. 32 T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011
  5. nghiªn cøu - trao ®æi 3. Về nghĩa vụ của người bị hại, khoản 4 họ. Nếu chúng ta cho rằng việc khoản 4 Điều Điều 51 BLTTHS quy định như sau: Người 51 quy định người bị hại phải có mặt theo bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm quan điều tra, viện kiểm sát, toà án; nếu từ sát, toà án đồng nghĩa với việc họ có nghĩa vụ chối khai báo mà không có lí do chính đáng khai báo thì rõ ràng là không có cơ sở. Bởi vì, thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo việc phải có mặt theo giấy triệu tập không thể Điều 308 BLHS. đồng thời bao hàm nghĩa vụ phải khai báo. Chúng tôi cho rằng BLTTHS không quy Cho nên, nếu buộc người bị hại phải chịu định người bị hại có nghĩa vụ khai báo trách nhiệm hình sự về hành vi từ chối khai nhưng lại quy định người bị hại có thể phải báo khi không có quy định nghĩa vụ khai báo chịu trách nhiệm hình sự về việc từ chối khai của họ là không có căn cứ pháp lí. báo không có lí do chính đáng là chưa hợp lí, Thứ hai, cũng theo lẽ tự nhiên, người bị vì những lí do sau: hại là người bị thiệt hại bởi hành vi phạm tội Thứ nhất, theo lẽ thông thường thì chỉ gây ra nên họ luôn mong muốn người gây khi một người đã được xác định phải làm (có thiệt hại phải bị trừng trị, thiệt hại của họ phải nghĩa vụ làm) việc gì đó mà không làm hoặc nhanh chóng được khắc phục và bồi thường làm không đúng theo quy định, dẫn đến hậu nên họ thường tích cực cộng tác với cơ quan quả xấu thì họ mới phải chịu chế tài vì đã vi tiến hành tố tụng trong việc khai báo. Tuy phạm nghĩa vụ. Chẳng hạn, Điều 55 BLTTHS nhiên, thực tế cho thấy có trường hợp người quy định người làm chứng có nghĩa vụ khai bị hại lại thiếu hợp tác trong việc khai báo, báo trung thực những gì mà mình biết về vụ thậm chí tìm cách trốn tránh để không phải án và trước khi lấy lời khai trong giai đoạn đến cơ quan điều tra hoặc đến phiên toà để điều tra hoặc khi xét hỏi người này tại phiên khai báo và việc này cũng ít nhiều gây ra toà, các cơ quan có thẩm quyền đã giải thích những khó khăn cho việc giải quyết vụ án. cho họ biết về nghĩa vụ này. Vì vậy, nếu người Mặc dù vậy, cũng khó có thể bắt họ phải chịu làm chứng cố tình khai báo gian dối, họ mới hình thức trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc phải chịu trách nhiệm hình sự. Khoản 3 Điều (trách nhiệm hình sự) như quy định hiện nay 50 BLTTHS quy định: “Bị cáo phải có mặt được. Bởi vì, xét cho cùng nếu họ từ chối theo giấy triệu tập của toà án; trong trường khai báo trong bất cứ trường hợp nào cũng hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì chính là việc họ đã mất đi cơ hội để có thể có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã”. trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp Theo quy định này, vì bị cáo có nghĩa vụ có của bản thân mình hoặc người mà mình đại mặt khi được toà án triệu tập nên bị cáo vắng diện. Ngay cả bị cáo là người đã thực hiện mặt không có lí do chính đáng mới phải chịu hành vi phạm tội bị đưa ra toà để xét xử, luật trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ cũng không quy định trách nhiệm phải khai này. Tuy nhiên, đối với người bị hại thì lại báo và khai báo trung thực mà chỉ khuyến chưa có quy định về nghĩa vụ phải khai báo khích, động viên bị cáo khai báo thành khẩn mà việc khai báo được quy định là quyền của bằng việc quy định một tình tiết giảm nhẹ tại T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011 33
  6. nghiªn cøu - trao ®æi điểm d khoản 1 Điều 46 BLHS để áp dụng một ghi nhận nào về việc truy cứu trách cho trường hợp này.(5) Nếu bị cáo không chịu nhiệm hình sự đối với người bị hại về hành khai báo hoặc khai báo gian dối thì hậu quả vi từ chối khai báo. Mặt khác, đối với hành của nó cũng khiến cho việc giải quyết vụ án vi này, việc hiểu như thế nào là từ chối khai gặp khó khăn giống như trường hợp người bị báo có lí do chính đáng (không bị xử lí hình hại từ chối việc khai báo vậy. Tuy nhiên, sự) với từ chối khai báo không có lí do chính trong trường hợp này BLTTHS cũng không đáng (bị xử lí hình sự) cho đến nay cũng quy định cho bị cáo phải chịu bất kì hình thức chưa có văn bản nào giải thích chính thức cả. trách nhiệm pháp lí nào. Chính vì vậy, quy định này càng trở nên Thứ ba, lí do khiến người bị hại, người không có tính khả thi. đại diện hợp pháp của người bị hại từ chối Từ những lí do trên, chúng tôi kiến nghị khai báo hoặc không có mặt khi được triệu bỏ quy định tại khoản 4 Điều 51 BLTTHS đoạn tập có thể nằm ngoài ý muốn chủ quan của có nội dung là “… nếu từ chối khai báo mà họ. Chẳng hạn, có vụ án bị can, bị cáo nhận không có lí do chính đáng có thể phải chịu thức được hậu quả pháp lí xấu mà mình có trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS”. thể phải chịu nếu bị phát hiện, xử lí nên đã đe Mặt khác, khi nghiên cứu về địa vị pháp doạ, cưỡng ép người bị hại không được tố giác lí của người bị hại và người đại diện hợp tội phạm, không khai báo với cơ quan tiến pháp của họ, chúng tôi thấy BLTTHS hiện hành tố tụng. Thậm chí, có trường hợp người hành quy định quyền của người đại diện hợp bị hại đã làm đơn yêu cầu khởi tố nhưng sau pháp của người bị hại nhưng không quy định đó do bị đe doạ, hành hung… đã phải đến cơ nghĩa vụ cho họ cũng chưa hợp lí. Hiến pháp quan tiến hành tố tụng để rút yêu cầu khởi tố quy định quyền của công dân bao giờ cũng của mình. Có trường hợp sau khi khai báo các gắn liền với nghĩa vụ của công dân nên về tình tiết giúp chứng minh hành vi phạm tội của nguyên tắc lập pháp, nếu một người được bị can, do bị đe doạ nhiều lần và vì quá lo sợ quy định có quyền thì họ đồng thời cũng có cho tính mạng của mình hoặc của người thân nghĩa vụ tương ứng. Do đó, chúng tôi đề nên người bị hại đã thay đổi lời khai theo nghị quy định bổ sung nghĩa vụ của người hướng có lợi cho người phạm tội… Trong tất đại diện hợp pháp của người bị hại để có cơ cả các tình huống nêu trên, việc người bị hại, sở pháp lí buộc họ có trách nhiệm hơn trong người đại diện hợp pháp của người bị hại từ việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chối, trốn tránh khai báo hoặc không có mặt của người bị hại. Nên quy định sự có mặt khi được triệu tập có thể được xem là sự lựa của họ tại phiên toà là quyền và nghĩa vụ, chọn bất đắc dĩ. Trong trường hợp này có thể nếu họ vắng mặt có lí do chính đáng thì phải coi như họ đã phải hi sinh lợi ích trước mắt có hoãn phiên toà, nếu đã được triệu tập hợp lệ thể là không lớn để bảo vệ lợi ích mà họ cho mà vắng mặt không có lí do chính đáng thì là lớn và là lợi ích lâu dài hơn. toà án vẫn tiến hành xét xử. Thứ tư, khảo sát thực tiễn thi hành BLHS 4. Nghiên cứu quy định về quyền hạn của trong nhiều năm qua, chúng tôi chưa thấy toà án cấp phúc thẩm khi xét xử lại vụ án mà 34 T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011
  7. nghiªn cøu - trao ®æi bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị nếu có kháng cáo của đại diện hợp pháp của kháng cáo, kháng nghị, chúng tôi thấy rằng người bị hại theo hướng không có lợi cho bị quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm theo cáo về phần hình sự thì dù kháng cáo đó có hướng không có lợi cho bị cáo theo kháng căn cứ, toà án cấp phúc thẩm cũng không cáo của người bị hại tại BLTTHS là chưa chấp nhận để sửa bản án sơ thẩm theo hướng đảm bảo tối đa hiệu lực kháng cáo của người bất lợi cho bị cáo (có lợi cho người bị hại). bị hại, người đại diện hợp pháp của họ (nếu Như vậy, hiệu lực của kháng cáo quy định có) đối với bản án, quyết định của toà án cấp cho những người này tại BLTTHS chưa được sơ thẩm. Đoạn 1 Điều 231 BLTTHS ghi rõ: đảm bảo thực hiện đầy đủ, dẫn đến tình trạng “… người bị hại, người đại diện hợp pháp không đảm bảo tối đa quyền lợi của người bị của họ có quyền kháng cáo bản án, quyết hại trong vụ án. Đồng thời, biến quy định về định của toà án”. Theo đó, trong vụ án có sự quyền kháng cáo của người đại diện hợp pháp tham gia của người đại diện hợp pháp của của người bị hại trở thành hình thức. Đây là người bị hại, cả người bị hại và người đại một trong các hạn chế về lập pháp cần phải diện hợp pháp của họ đều có quyền kháng được khắc phục. Theo chúng tôi, để đảm bảo cáo bản án, quyết định sơ thẩm với phạm vi sự thống nhất giữa các điều 51, 59, 231 và kháng cáo hoàn toàn độc lập, không lệ thuộc khoản 3 Điều 249 BLTTHS, đảm bảo hiệu vào ý chí của nhau. Bất kì ai kháng cáo thì lực kháng cáo của người tham gia tố tụng, kháng cáo đó đều làm bản án, quyết định sơ khoản 3 Điều 249 Bộ luật này cần phải bổ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và phải được sung một lí do (cơ sở) nữa để xem xét, sửa án xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Đoạn 1 của sơ thẩm theo hướng tăng nặng cả về phần điều luật này cũng thống nhất với quy định tại hình sự và dân sự, đó là: khi có kháng cáo có điểm e khoản 2 Điều 51 BLTTHS, quy định căn cứ của người đại diện hợp pháp (đại diện tại điểm này cũng không hạn chế quyền theo pháp luật) của người bị hại. kháng cáo của người đại diện hợp pháp của Phạm vi quyền kháng cáo của người bị người bị hại chỉ trong phạm vi quyết định bồi hại, đại diện hợp pháp của họ không chỉ giới thường thiệt hại của bản án. Do đó, khi có hạn trong việc yêu cầu tăng hình phạt, áp kháng cáo của người đại diện hợp pháp của dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn hoặc người bị hại, mọi yêu cầu nêu trong kháng tăng mức bồi thường thiệt hại mà còn có thể cáo đối với bản án, quyết định đều phải được có yêu cầu toà án cấp phúc thẩm kết tội bị cáo toà án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết tại được toà án cấp sơ thẩm tuyên vô tội; áp dụng phiên toà. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản hình phạt đối với bị cáo được toà án cấp sơ 3 Điều 249 BLTTHS, cơ sở để toà án cấp thẩm miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng hình phạt; yêu cầu tăng hình phạt tù đối với bị tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về cáo được hưởng án treo và không cho bị cáo tội nặng hơn chỉ là khi kháng nghị của viện hưởng án treo hoặc không yêu cầu tăng hình kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại có phạt tù nhưng lại yêu cầu không cho bị cáo yêu cầu. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc hưởng án treo như bản án sơ thẩm đã tuyên T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011 35
  8. nghiªn cøu - trao ®æi v.v.. Trong những trường hợp này, nếu yêu Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều cầu của họ có căn cứ thì theo quy định tại 51 về các nội dung cơ bản sau: khoản 3 Điều 249 BLTTHS hiện hành, toà án - Bổ sung tiêu chí xác định tư cách người cấp phúc thẩm cũng không có cơ sở pháp lí bị hại theo hướng giúp phân biệt rõ tư cách để sửa án sơ thẩm. Như vậy, sẽ không đạt người bị hại với tư cách nguyên đơn dân sự được mục đích của xét xử phúc thẩm là kịp để tránh việc hiểu và thực hiện không thống thời sửa chữa những sai lầm, thiếu sót của toà nhất và chính xác trong thực tiễn. Các tiêu án cấp sơ thẩm. Đồng thời, không đảm bảo chí đó là: chỉ cá nhân bị thiệt hại do tội phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gây ra mới tham gia tố tụng với tư cách gia tố tụng nói chung và người bị hại nói người bị hại để phân biệt với các đối tượng riêng. Hiện nay, về giới hạn của việc kháng khác không phải là cá nhân bị tội phạm gây cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm của ra thiệt hại; thiệt hại mà tội phạm gây ra cho người bị hại, người đại diện hợp pháp của cá nhân đó phải là thiệt hại trực tiếp để phân người bị hại, đã được Hội đồng thẩm phán biệt với các cá nhân khác cũng bị thiệt hại về Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn như vật chất do tội phạm gây ra. sau: “... Người bị hại, người đại diện hợp - Bổ sung vào khoản 1 Điều 51 BLTTHS pháp (đại diện theo pháp luật) của người bị điều kiện về hình thức để xác định tư cách hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc của người bị hại: người bị hại phải là người trong trường hợp người bị hại là người chưa được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. thành niên, người có nhược điểm về tâm thần - Sửa đổi, bổ sung tiêu đề của khoản 2 hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ Điều 51 BLTTHS theo hướng trong vụ án có bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng sự tham gia của người bị hại và người đại có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu diện hợp pháp của họ thì cả hai người này hơn tình trạng của bị cáo… ”.(6) Để hiện thực đều có quyền như nhau. hoá quyền kháng cáo này, cần sửa đổi, bổ - Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 51 sung quy định của khoản 3 Điều 249 BLTTHS BLTTHS theo hướng mở rộng phạm vi theo hướng quy định quyền sửa bản án sơ quyền kháng cáo của người bị hại, người đại thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo cả diện hợp pháp của người bị hại đối với toàn khi có kháng cáo của người đại diện hợp pháp bộ bản án, quyết định sơ thẩm. của họ. Có như vậy, việc nhận thức mới được - Bỏ đoạn quy định tại khoản 4 Điều 51 thống nhất và nhờ đó có thể đảm bảo tối đa BLTTHS quy định nghĩa vụ của người bị hại quyền kháng cáo của người bị hại hoặc người có nội dung là “… nếu từ chối khai báo mà đại diện hợp pháp (nếu có) của họ. không có lí do chính đáng có thể phải chịu 5. Dựa vào những phân tích, lí giải và kết trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS”. luận nêu trên chúng tôi đề xuất hoàn thiện - Bổ sung nghĩa vụ của người đại diện một số quy định của BLTTHS về người bị hại hợp pháp của người bị hại để có cơ sở pháp nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp lí buộc họ có trách nhiệm hơn trong việc bảo pháp của họ trong tố tụng hình sự như sau: vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người 36 T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011
  9. nghiªn cøu - trao ®æi bị hại. Cần quy định theo hướng người đại khởi tố vụ án, chứ không phải là hoặc người diện hợp pháp của người bị hại có nghĩa vụ này hoặc người kia như quy định hiện hành. có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều Thứ ba, bổ sung khoản 1 Điều 191 tra, viện kiểm sát, toà án; phải sử dụng mọi BLTTHS quy định sự có mặt của người bị biện pháp luật định để bảo vệ quyền và lợi hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người ích hợp pháp của người bị hại. đại diện hợp pháp của họ theo hướng vừa là Thứ hai, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều quyền vừa là nghĩa vụ. Đối với vụ án khởi tố 105 BLTTHS quy định về khởi tố vụ án theo theo yêu cầu, nếu người bị hại, đại diện hợp yêu cầu của người bị hại theo hướng mở pháp của người bị hại vắng mặt có lí do rộng phạm vi các tội phạm khởi tố theo yêu chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Toà án cầu, chủ yếu đối với các tội phạm xâm phạm chỉ xét xử vắng mặt của họ trong trường hợp sở hữu, xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân họ cố tình không đến theo giấy triệu tập hoặc phẩm của công dân (đã nêu và phân tích ở đã yêu cầu toà án xét xử vắng mặt. trên) và tội mới được bổ sung trong luật sủa Thứ tư, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 249 đổi, bổ sung một số điều của BLHS ngày BLTTHS đoạn quy định về quyền sửa bản án 19/6/2009 là tội xâm phạm quyền tác giả và sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo, các quyền khác quy định tại Điều 170a. mở rộng phạm vi thực hiện quyền sửa bản án Đồng thời đưa Điều 131 BLHS ra khỏi quy sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo cả định của Điều 105 BLTTHS vì Điều này đã trong trường hợp có kháng cáo của người đại bị luật nói trên bãi bỏ. Ngoài ra, với việc quy diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu nhằm định quyền yêu cầu khởi tố cho người đại đảm bảo tối đa quyền kháng cáo của người bị diện hợp pháp của người bị hại là người hại, người đại diện hợp pháp hoặc người bảo chưa thành niên, người có nhược điểm về vệ quyền lợi của người bị hại./. tâm thần, thể chất thì nội dung điều luật hiện hành đã vượt quá phạm vi tên điều luật xác (1).Xem: Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr. 128. định. Do vậy, cần sửa đổi tiêu đề của điều (2).Xem: Lê Tiến Châu,“Người bị hại trong tố tụng luật từ “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lí, số 1(38)/2007. người bị hại” thành “Khởi tố vụ án theo yêu (3).Xem: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, năm cầu” cho phù hợp với nội dung của nó. Bên 2004, tr. 698. (4).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải cạnh đó, để bảo đảm triệt để quyền lợi của thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà người bị hại, nên bỏ từ “hoặc” trong đoạn Nội, 1999, tr. 198. “... chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của (5). Điểm d khoản 1 Điều 46 BLHS quy định tình tiết người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành của người bị hại là người chưa thành niên, khẩn khai báo, ăn năn, hối cải. (6).Xem: Tiểu mục 1.3 Phần I Nghị quyết số người có...” của khoản 1 Điều 105 và thay 05/2005/NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 của Hội đồng vào đó bằng dấu “phẩy” để xác định rằng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp trong trường hợp này cả người bị hại và đại dụng một số quy định tại Phần thứ tư “Xét xử phúc diện hợp pháp của họ đều có quyền yêu cầu thẩm” của BLTTHS năm 2003. T¹p chÝ luËt häc sè 11/2011 37
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2