intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo đề tài: Sự phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc (1954 - 1975)

Chia sẻ: Jack Sparrow | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:60

310
lượt xem
39
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo đề tài: Sự phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc (1954 - 1975) trình bày sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1954, sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1954 - 1960, sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong giai đoạn 1961 - 1975, một số nhận xét về cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1975.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo đề tài: Sự phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc (1954 - 1975)

  1. Đề bài: SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI MIỀN BẮC (1954 - 1975) MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................ I - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1954. ............................................................................................... 1. Khái quát cơ cấu kinh tế Miền Bắc trước cách mạng -Tháng Tám - 1945........................................................................ 2. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong giai đoạn 1945 - 1954 .................................................................................. 3. Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm về kinh tế trong giai đoạn tiếp theo ............................................................. 4. Tiểu kết ............................................................................. II - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1954 - 1960. ............................................................................................... 1. Khái quát cơ cấu kinh tế Miền Bắc thời kì 1954 - 1960 2. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc thời kì 1954 -1960 1.1. Cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong những năm 1954 - 1957 ........................................................................... 1.2. Cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong những năm 1958 - 1960 ........................................................................... 1
  2. 3.Thành tựu hạn chế và bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo ................................................................................... 4. Tiểu kết ......................................................................... III - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong giai đoạn 1961 - 1975 ..................................................................................... 1. . Khái quát về cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1961 - 1975 2. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1961 - 1975 .... 1.1. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1961 - 1964 .......... 1.2. Cơ cấu kinh tế trong giai đoạn 1964 - 1975 ........... 4. Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm.................... 5. Tiểu kết........................................................................... IV - Một số nhận xét về cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1975 .................................................................... 1. Đặc điểm sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc thời kì 1945 - 1975 ................................................................ 2. Đóng góp và hạn chế của cơ cấu kinh tế Miền Bắc 1954 - 1975 ........................................................................... 3. Bài học kinh nghiệm .................................................. V - Kết luận ..................................................................... TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. LỜI NÓI ĐẦU 2
  3. Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, chế độ kinh tế nước ta đã có những thay đổi sâu sắc. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và sự thành lập của nhà nước dân chủ nhân dân đã tạo những điều kiện để chúng ta cải biên nền kinh tế mang nặng tính chất thuộc địa và nửa phong kiến thành một nền kinh tế độc lập tự chủ. Nhiệm vụ kinh tế đó chưa được thực hiện được bao nhiêu thì dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến gian khổ và lâu dài chống bọn đế quốc xâm lược để bảo vệ nền độc lập mới giành được, để bảo vệ nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ. Trong tình hình như vậy mà phải chuyển nền kinh tế còn mang nhiều tàn tích thực dân phong kiến và rất thấp kém thành một nền kinh tế kháng chiến, một nền kinh tế có khả năng phục vụ cho nhu cầu to lớn của cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ Quốc, thật là một sự nghiệp vô cùng khó khăn , nhưng nhờ vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước dân chủ nhân dân kết hợp với lòng yêu nước cao độ, lòng hi sinh vô bờ bến và tinh thần phấn đấu tự lực cánh sinh của nhân dân cả nước, một nền kinh tế kháng chiến đã vững vàng như ý chí chiến đấu cứu nước của nhân dân ta, đã xây dựng được và lớn mạnh dần theo đà phát triển của cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước. Nền kinh tế được xây dựng lên trong thời kì khói lửa ấy, tuy không thể nói là phồn thịnh, nhưng đã đảm bảo được cho quân và dân ta có đủ cơm ăn áo mặc để theo đuổi cuộc đấu tranh vũ trang đến thắng lợi. Nền kinh tế kháng chiến không phải chie là một nền kinh tế dân tộc mà nó còn mang ngày càng nhiều tính chất dân chủ: Cuộc cách mạng ruộng đất đã được thực hiện từng bước ngay trong thời kỳ kháng chiến, một phần lớn ruộng đất trước đây tập trung trong tay bọn thực 3
  4. dân và phong kiến, lần lượt chuyển về tay dân cày, và cuối cùng, những đợt triệt để cải cách ruộng đất tiến hành trước và sau ngày hòa bình được lập lại đã hoàn toàn xóa bỏ những tàn tích phong kiến trong nền kinh tế miền Bắc nước ta. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta đã thu được tháng lợi to lớn, miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc phong kiến. Chính Đảng Mác - Lênin chủ trương cách mạng không ngừng. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành ở miền Bắc có ý nghĩa là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu. Nhiệm vụ cơ bản đặt ra trước mắt chúng ta là phải làm thế nào cải biến nền kinh tế có nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Vận dụng một cách sáng tạo, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ tình hình và đặc điểm cụ thể của nước ta kết hợp chặt chẽ với hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hùng cường, Đảng ta đã kiên quyết lãnh đạo nhân dân lao động đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội nói chung ở thời kỳ (1954 - 1960) nhất là biến đổi trong kinh tế ở thời kỳ này có vai trò và ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nói riêng và đối với cả nước nói chung, nó là giai đoạn mở đầu của sự nghiệp cách mạng mới ở miền Bắc - cách mạng xã hội chủ nghĩa và làm nhiệm vụ hậu phương lớn quyết định tiền tuyến miền Nam tiến tới 4
  5. thống nhất cả nước. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng như vậy, vấn đề này cần được nghiên cứu một cách sâu rộng hơn trong thời kỳ mới. I - Sự biến đổi cơ cấu kinh tế Miền Bắc trong thời kì 1945 - 1954. ........................................................................ 1. Khái quát cơ cấu kinh tế Miền Bắc trước cách mạng - Tháng Tám - 1945 Sau 80 năm bị đế quốc thống trị, Tháng Tám - 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước vùng lên làm cách mạng, giành được chính quyền trong cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sau khi làm cách mạng thành công, toàn dân ta phấn khởi bắt tay vào xây dựng đất nước, mở mang kinh tế. Song, trước cách mạng, đế quốc và phong kiến bóc lột nhân dân ta , nền kinh tế nước ta hết sức nghèo nàn, kiệt quệ. Tuy vậy, khi cách mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu thì với sự giúp đỡ của đế quốc Anh ngày /09/1945 thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa . Nhân dân tiếp tục phải bắt tay vào thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Do bối cảnh trong lịch sử như vậy nền kinh tế thời kì này là nền kinh tế kháng chiến với những đặc điểm nổi bật: kinh tế diến ra ở hai khu vực, khu vực tự do và vùng chiếm đóng. Trong vùng do Đảng và chính phủ tiếp quản, tức vùng tự do, có thể thấy hầu hết là những nơi hẻo lánh, kinh tế nhèo nàn hơn, giao thông đi lại khó khăn. Kinh tế ở đây là nền kinh tế đóng, bị phong tỏa, không có sự tiếp xúc với bên ngoài chứ không phải có chủ trương " bế 5
  6. quan tỏa cảng". Cho đến chiến dịch Biên Giới 1950, do những chiến dịch của địch, vùng kháng chiến bị cô lập hoàn toàn với bên ngoài. Vùng Pháp chiếm được, những ranh rới những cũng là chiến tuyến giữa ta và Pháp nên quan hệ kinh tế tại đây rất hạn chế. Do đó, có thể nói kinh tế kháng chiến là tự dựa vào bản thân là chính. Từ năm 1951, 1952, có quan hệ ngoại thương với Trung Quốc, nhưng không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế chung. Kinh tế chủ yếu là kinh tế tư nhân, nông nghiệp nằm trong tay nông dân với hình thức sản xuất nhỏ. Công nghiệp không nổi bật, chủ yếu là công nghiệp quốc phòng, phần lớn là sản xuất tiểu thủ công và thủ công để cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho đời sống. Thương nghiệp cũng nằm trong tay những người buôn bán nhỏ là chính. kinh tế mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Thị trường còn kém phát triển. Những thị trấn và phố xá không có vai trò quan trọng lắm về kinh tế. Mậu dịch quốc doanh từ khi thành lập cho tới khi kết thúc chiến tranh chủ yếu chỉ cung cấp cho khu vực nhà nước, chưa có khả năng cung cấp cho toàn dân. Thị trường bên ngoài gần như không có (trừ việc mua bán một số yếu phẩm cần thiết cho kháng chiến từ vùng Pháp chuyển ra). Thị trường nhỏ bé, và chủ yếu chỉ là thị trường thôn quê truyền thống. Đã thế, vùng kháng chiến dân không đông, nhu cầu rất thấp. Tùy theo các chiến dịch, dân số vùng kháng chiến xê xích trong vòng 5,7,10 triệu người. Phấn lớn dan cư đã quen sống khổ, cầu không lớn, sức mua rất kém. Như vậy, do chính sách cai trị của thực dân Pháp, cùng với tác động của chiến tranh làm cho kinh tế miền Bắc kiệt quệ. Cơ cấu kinh tế miền Bắc là sản xuất nông nghiệp lạc hậu; sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún; công nghiệp hầu hư không đáng kể. Cơ sở hạ tầng cực kỳ nghèo nàn. 6
  7. Với chiến thắng Đông -Xuân (1953- 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã buộc thực dân Pháp phải ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, rút quân về nước, lập lại hòa bình trên cơ sở thừa nhận những chủ quyền chủ yếu của ba dân tộc Đông Dương, kết thúc thắng lợi sự nghiệp chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Do so sánh lực lượng và tình hình chính trị thế giới phức tạp lúc đó, theo hiệp định Giơ-ne-vơ đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền Nam-Bắc với hai chế đọ chính trị khác nhau: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội (NCXH), còn miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và các lực lượng tay sai thống trị. Sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân trên cả nước còn chưa hoàn thành. Nhân dân miền Bắc vừa phải lo hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, vừa phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiên tới thực hiện thống nhất nước nhà. Do đó, ngay khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc bắt tay ngay vào tiếp quản, thực hiện cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Lợi dụng 300 ngày chuyển quân tập kết theo quy định của hiệp định Giơ-ne-vơ, thực dân Pháp phối hợp với đế quốc Mỹ ra sức phá hoại miền Bắc. Chúng cài lại gián điệp, đốt phá kho tàng, phá hoại những công trình công cộng, những di tích lịch sử và văn hóa (như phá chùa Một Cột, cầu Phủ Lạng Thương, nhà máy điện Uông Bí...). Chúng vơ vét tài sản, vật tư, tháo rỡ máy móc thiết bị, mang theo hoặc hủy hoại hồ sơ, tài liệu hòng gây khó khăn cho ta trong việc kiểm kê, điều hành công việc và hoạt động này. Chúng đóng cửa nhà máy, hãng buôn, công sở, trường học làm cho sinh hoạt ở thành phố, thị xã bị 7
  8. ngừng trệ. Chúng còn tung tin xuyên tạc, bôi nhọ chế độ miền Bắc, bịa đặt tin "chính phủ Việt Nam cấm đạo", " chúa đã vào Nam ".....để ra sức lôi kéo, dụ dỗ, cưỡng bức gần một triệu đồng bào công giáo di cư vào Nam. Chúng ra sức lôi kéo các chuyên ra vào Nam. Lợi dụng nếp sống lạc hậu, mê tín dị đoan của đồng bào miền núi, chúng bịa ra việc " xưng vua ", " đón vua ", xúi giục đồng bào chống lại chính sách của chính phủ, bỏ sản xuất, gây mất trật tự an ninh. Nhân dân miền Bắc nhất là nhân dân các vùng sắp giải phóng, đã tiến hành các cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại âm mưu trên của địch. Phong trào đấu tranh bảo vệ máy móc, tài sản của công nhân đã diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi. Hàng nghìn cán bộ đảng viên và các đoàn thể quần chúng đac lăn lộn, đi sâu vào từng gia đình ở thành phố, thị xã, nông thôn để vận động quần chúng chống địch cướp phá tài sản, vận động binh lính người địch trong quân đội " liên hiệp Pháp " trở về với gia đình và chống địch cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam. Miền Bắc lần lượt được giải phóng. Việc tiếp quản vùng mới giải phóng, nhất là các thành thị hoàn toàn tốt đẹp. Ngày 16/5/1955 toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi đảo Cát Bà, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Sau khi tiếp quản xong574000 , dân số miền Bắc thay đổi không đáng kể so với thời kỳ trước (13.574.000 người) . Nhưng kinh tế thì lại gặp rất nhiều khó khăn. Hồ Chủ Tịch đã nói về cảnh tượng của miền Bắc lúc đó như sau: " chiến tranh xâm lược của bọn thực dân đã làm cho kinh tế nước ta kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày cấy, các công trình thủy lợi đều bị phá hủy, 1/4 số trâu bò bị bắn giết. Hàng chục vạn nóc nhà, hàng trăm thị trấn lớn nhỏ bị đốt trụi. Số nhà máy đã ít ỏi lại đều bị giặc tàn phá, máy 8
  9. móc bị tháo rỡ mang đi, sản xuất bị bế tắc. Đường xá, cầu cống, xe cộ phần lớn bị phá hoại. Ở thành phố, hàng chục vạn công nhân thất nghiệp. Nạn đói đe dọa khắp nơi ". Trong nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nặng nề: 1.430.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng vạn trâu bò bị giết hại, nông cụ bị đốt hủy, 8 công trình thủ nông lớn và nhiều công trình thủy nông vừa và nhỏ bị phá hủy. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất rất thấp. Kỹ thuật canh tác thô sơ, thiên tai nặng nề. Sức kéo chủ yếu là trâu bò, nhưng thiếu nghiêm trọng do hàng vạn trâu bò bị giết trong chiến tranh. Những đồng bào công giáo bị dụ dỗ cưỡng ép di cư vào Nam đã để lại hàng chục nghìn ha ruộng đất bị bỏ hoang. Trên 1 triệu người bị đói, làng mạc bị đốt phá trơ trụi, xơ xác....Nông dân miền Bắc lúc này chỉ còn lại là một nền kinh tế sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu. Và trên thực tế nông nghiệp miền Bắc đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong sản xuất. Trong nông nghiệp, phần lớn nhà máy xí nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Tại Hà Nội, Hải Phòng, khi ta vào tiếp quản chỉ có nhà máy điện và nhà máy nước hoạt động. Sản lượng mỏ than Hồng Gai chỉ còn 986.000 tấn, giảm 40% so với năm 1939. Vài năm sau khi tiếp quản giá trị sản lượng công nghiệp còn rất thấp, chiếm chưa đầy 10% tổng số giá trị sản lượng công nông nghiệp. Trong giao thông vận tải mạch máu của nền kinh tế bị phá hủy nghiêm trọng. Hàng nghìn km đường sắt bị tàn phá, chỉ còn hơn 100 km tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng hoạt động; 3.500 cầu cống bị 9
  10. phá hủy, phương tiện vận tải thiếu thốn, việc giao lưu giữa các vùng gặp nhiều khó khăn. Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ, nâng giá lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Nhà nước mới chỉ nắm được 40,5% khối lượng hàng hóa bán buôn và 22,5% hàng bán lẻ. Sản xuất ngừng trệ, lưu thông phân phối khó khăn, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. II - Hoàn cảnh lịch sử. Năm 1954, hiệp định Giơnevơ bị đế quốc Mỹ phá hoại, cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc của Việt Nam bắt đầu. Từ vĩ tuyến 17 trở ra bắc (miền Bắc) Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân. Miền Bắc là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam thực hiện kháng chiến chống Mỹ. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai xây dựng nền kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa với yêu cầu trước mắt là phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới. Kinh tế - xã hội hai miền Nam, Bắc trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh. 10
  11. Riêng về tình hình miền Bắc, thời kỳ này miền Bắc phấn đấu thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất đất nước. Sau khi tiếp quản miền Bắc, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bắt tay ngay vào xây dựng chế độ mới. Miền Bắc trong quá trình khôi phục, phát triển kinh tế đã tiến hành các kế hoạch ba năm lần thứ nhất (1955 - 1957), ba năm lần thứ hai (1959 - 1960) và năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã đưa kinh tế Miền Bắc bước vào một giai đoạn phát triển mới, từ một cơ cấu với nhiều thành phần kinh tế và tương ứng với nó có nhiều tầng lớp, giai cấp xã hội khác nhau thành một xã hội dựa trên nền tảng cơ cấu kinh tế toàn dân và tập thể, với hai giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Cơ cấu này chỉ thay đổi về tỷ lệ, thay đổi về cấu trúc trong thời kỳ Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc kể từ cuối năm 1964 . Chiến tranh và mô hình xây dựng miền Bắc tạo nên một cơ cấu kinh tế - xã hội đơn giản và phát triển không bình thường dưới ảnh hưởng của chiến tranh chống Mỹ, thống nhất nước nhà. Để hiểu hơn về sự phát triển kinh tế Việt Nam (1945 - 1975), chúng ta sẽ tìm hiểu từng giai đoạn nhỏ: giai đoạn (1945 - 1954) và giai đoạn (1954 - 1960) và (1961 - 1975). Từ đây, ta sẽ thấy được những khía cạnh cơ bản nhất, nổi bật nhất trong sự phát triển kinh tế miền Bắc từ khi nước ta giành được độc lập từ tay thực dân Pháp, đến Đại thắng mùa xuân 1975. Trọn ven một khúc tráng ca về lịch sử kháng chiến chống xâm lược và xây dựng đất nước (1945 - 1975) II - Vài nét về kinh tế - xã hội miền Bắc khi tiếp quản. Sau tháng 7/1954, miền Bắc có 13 triệu người trong đó có khoảng 12 triệu sống ở vùng nông thôn và gần 1 triệu người khác cư trú ở địa bàn đô thị. Vung đồng bằng Bắc Bộ có dân số đông nhất, hơn tám triệu người. Cư dân thành thị sống tập trung ở Hà Nội và Hải Phòng. Miền Bắc cũng có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, nhưng đông nhất vẫn là người Kinh chiếm 85% dân số, cư trú tập trung đông nhất ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng khu IV, sau đó là các dân tộc khác như Tày, Mường, Thái, Nùng... 11
  12. Về mật độ dân số miền Bắc trong khoảng thời gian này, theo như khảo sát thì là khoảng 85 người trên 1km2 . Nơi có mật độ dân số cao nhất là đồng bằng Bắc Bộ , trên 400 người trên 1 km. Trong khi đó ở các vùng miền núi, ví dụ điển hình nhất là các tỉnh thuộc vùng Việt Bắc, Tây Bắc dân cư thưa thớt: Bắc Cạn có 16 người trên 1 km2, khu tự trị Thái Mèo chỉ có 13 người trên 1km2. Về lực lượng công nhân ở miền bắc, bên cạnh lực lượng làm việc trong các xí nghiệp của Pháp, còn có một lực lượng khá đông đảo sản xuất trong khu vực của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa . Lực lượng công nhân, viên chức đã tăng đáng kể sau khi cách mạng Tháng Tám thành công và dần phát triển theo thời gian. Đến thời điểm đó nước ta đã có những lực lượng sản xuất thuộc các ngành nghề khác nhau, cùng cố gắng vì một ngày mai độc lập và thống nhất đất nước. Như vậy, tình hình kinh tế miền Bắc cũng đã có những thuận lợi và khó khăn nhất định, điều đó đòi hỏi sự đồng lòng góp sức của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế. Đó là cơ sở vững chắc nhất cho miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đồng thời làm nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam làm nhiệm vụ trực tiếp kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có thể nói việc "tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà". Còn cách mạng Miền Nam thì "trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở Miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng Miền Nam". IV - Đặc điểm và những yếu tố tác động đến sự phát triển của cơ cấu kinh tế - xã hội Miền Bắc (1954 - 1975). Trong quá trình phát triển của cơ cấu kinh tế - xã hội, Miền Bắc đã chịu những tác động khá sâu sắc của nhưng vấn đề mang tính lịch sử, do sự áp bóc lột của bọn thực dân, phong kiến, do chiến tranh.... và còn nhiều những vấn đề mới nảy sinh đòi hỏi sự cân nhắc và tìm một hướng đi đúng đắn cho cách mạng Việt Nam thời kì này. 12
  13. Thứ nhất là do chính sách cai trị của thực dân Pháp đã ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Qua những chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp đã để lại hậu quả nặng nề cho quá trình phát riển đất nước, đặc biệt là sự thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội nước ta. Nước ta chịu sự chi phối của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn còn tàn dư của chế độ phong kiến lạc hậu ở thôn quê, chúng dựa vào nhau tồn tại để bóc lột nhân dân ta, làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển không bình thường. Phương thức bóc lột triệt để kết hợp giữa tư bản với phong kiến càng làm cho kinh tế rơi vào bế tắc, lạc hậu, kém phát triển. Kinh tế Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế Pháp, bị Pháp chèn ép, kìm hãm. Chính sách " chia để trị" với sự phân chia làm ba miền với ba chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tuy nhiên, ba vùng đó không thoát khỏi quỹ đạo của một xứ thuộc địa, phụ thuộc. Khai thác Việt Nam, Pháp sẵn sàng chia mối lợi.Pháp và sau đó là Nhật nhay vào Việt Nam thay nhau bóc lột nhân dân ta để phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa của chúng. Do hậu quả của những chính sách cai trị của Pháp, nền kinh tế Việt Nam vốn đã lạc hậu , nghèo nàn lại càng lạc hậu hơn so với thời đại. Những hậu quả về chính trị - xã hội do chính sách này gây ra thậm chí cho đến ngày nay vẫn chưa khắc phục hết. Thứ hai, chiến tranh ảnh hưởng đến các nhân tố kinh tế - xã hội nước ta. Sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước ta giành được độc lập, Pháp vẫn ngoan cố trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng luôn có những chiến lược chống phá nhà nước ta. Ở vùng tam chiếm, địch tiến hành xây dựng những cơ sở kinh tế phục vụ chiến tranh trên quy mô lớn. Ở vùng giải phóng, Pháp ra sức phá hoại nền kinh tế của ta nhằm hạn chế sức người, sức của của nhân dân ta vùng giải phóng. Về phía ta, Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách kinh tế thời chiến, tự cấp, tự túc đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm phục vụ kháng chiến lâu dài. Đối với vùng kinh tế địch hậu, thực hiện chủ trương bao vây, kiềm chế đên khai thác đúng mức nhằm phục vụ yêu cầu cao nhất là giải phóng dân tộc. 13
  14. Như vậy, những chính sách thời chiến của cả hai bên. Phía Pháp là '' đốt sạch, phá sạch, cướp sạch" và cả "tiêu thổ kháng chiến" trước khi bộ đội rút quân đã ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước. Thứ ba, do hai thể chế kinh tế - xã hội đối lập cùng tồn tại. Hai thể chế đó là: một bên thuộc vùng địch hậu với cơ cấu kinh tế - xã hội thuộc địa nửa phong kiến, từng phát triển không bình thường. Một bên là kinh tế - xã hội của một xã hội có dân chủ, vừa xây dựng vừa chiến đấu. Hai thể chế này đối lập, đấu tranh quyết liệt để phủ định lẫn nhau. Như vậy, những yếu tố trên đây là những yếu tố cơ bản đã tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn đất nước bị chia cắt làm hai miền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cam go, ác liệt. Về các đặc điểm của miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ta có thể thấy những đặc điểm lớn sau. Đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Có đặc điểm này cũng bởi thực hiện một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo tất yếu sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là một bước quá độ để tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội đáp ứng yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta. Con đường đi từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có sự tích cực, giúp nhân dân tránh được sự áo bức bóc lột của tư bản, nhưng điều khó khăn đó là con đường phát triển chậm hơn, đúng như VI Lênin đã nói, một nước lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội thì có "vô vàn khó khăn không thể lường trước được". Đó là những khó khăn về kinh tế, VI lê nin cũng nói, chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của nền kinh tế đại công nghiệp do chủ nghĩa tư bản sinh ra. Nhưng miền Bắc lại chưa có. Hơn nữa, việc thiếu kinh nghiệm và thiếu năng lực quản lý cũng là một khó khăn lớn của miền Bắc. Một điều nữa đó là quan điểm tư tưởng, thói quen, cách nghĩ, cách làm của những người sản xuất nhỏ tồn tại nặng nề trong tư tưởng của cán bộ và nhân dân ta, không dễ gì thay đổi được. 14
  15. Đặc điểm thứ hai, đó là đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền; miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam bị thực dân, phong kiến và tư sản mại bản thống trị; hai miền đối lập nhau, trong khi ở miền Nam những mâu thuẫn cơ bản gay gắt tới mức nổ ra chiến tranh. Sự chuyển biến của cuộc đặc điểm này đã mau chóng dẫn đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ đó đặt ra nhiêm vụ hàng đầu cho cách mạng cả nước là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tình hình cho đến tận năm 1975 chúng ta mới có thể chấm dứt do việc thực hiện thàng công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc , giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đặc điểm thứ ba, đó là phe xã hội chủ nghĩa, đó là một thuận lợi rất lớn cho cách mạng nước ta. Tuy trong giai đoạn sau, sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có mặt tác động tiêu cực và gây khó khăn cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nhưng nhìn chung, sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa đã giúp ích rất nhiều cho cách mạng nước ta cả về vật chất lẫn tinh thần. Tóm lại, trong cả quá trình phát triển của cách mạng, có thể thấy rằng sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa thuận lợi cho ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa ở miền Bắc. Sự giúp đỡ này của các nước xã hội chủ nghĩa rất to lớn và hiệu quả, là hậu phương đáng tin cậy của Việt Nam để tiến hành cuộc chiến đấu ở cả hai đầu tiền tuyến. IV - Những yếu tố tác động đến sự phát triển của cơ cấu kinh tế - xã hội Miền Bắc (1954 - 1975). Trong quá trình phát triển của cơ cấu kinh tế - xã hội, Miền Bắc đã chịu những tác động khá sâu sắc của nhưng vấn đề mang tính lịch sử, do sự áp bóc lột của bọn thực dân, phong kiến, do chiến tranh.... và còn nhiều những vấn đề mới nảy sinh đòi hỏi sự cân nhắc và tìm một hướng đi đúng đắn cho cách mạng Việt Nam thời kì này. Thứ nhất là do chính sách cai trị của thực dân Pháp đã ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Qua những chính sách cai 15
  16. trị hà khắc của thực dân Pháp đã để lại hậu quả nặng nề cho quá trình phát riển đất nước, đặc biệt là sự thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội nước ta. Nước ta chịu sự chi phối của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn còn tàn dư của chế độ phong kiến lạc hậu ở thôn quê, chúng dựa vào nhau tồn tại để bóc lột nhân dân ta, làm cho nền kinh tế Việt Nam phát triển không bình thường. Phương thức bóc lột triệt để kết hợp giữa tư bản với phong kiến càng làm cho kinh tế rơi vào bế tắc, lạc hậu, kém phát triển. Kinh tế Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào nền kinh tế Pháp, bị Pháp chèn ép, kìm hãm. Chính sách " chia để trị" với sự phân chia làm ba miền với ba chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Tuy nhiên, ba vùng đó không thoát khỏi quỹ đạo của một xứ thuộc địa, phụ thuộc. Khai thác Việt Nam, Pháp sẵn sàng chia mối lợi.Pháp và sau đó là Nhật nhay vào Việt Nam thay nhau bóc lột nhân dân ta để phục vụ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa của chúng. Do hậu quả của những chính sách cai trị của Pháp, nền kinh tế Việt Nam vốn đã lạc hậu , nghèo nàn lại càng lạc hậu hơn so với thời đại. Những hậu quả về chính trị - xã hội do chính sách này gây ra thậm chí cho đến ngày nay vẫn chưa khắc phục hết. Thứ hai, chiến tranh ảnh hưởng đến các nhân tố kinh tế - xã hội nước ta. Sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước ta giành được độc lập, Pháp vẫn ngoan cố trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Chúng luôn có những chiến lược chống phá nhà nước ta. Ở vùng tam chiếm, địch tiến hành xây dựng những cơ sở kinh tế phục vụ chiến tranh trên quy mô lớn. Ở vùng giải phóng, Pháp ra sức phá hoại nền kinh tế của ta nhằm hạn chế sức người, sức của của nhân dân ta vùng giải phóng. Về phía ta, Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách kinh tế thời chiến, tự cấp, tự túc đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm phục vụ kháng chiến lâu dài. Đối với vùng kinh tế địch hậu, thực hiện chủ trương bao vây, kiềm chế đên khai thác đúng mức nhằm phục vụ yêu cầu cao nhất là giải phóng dân tộc. 16
  17. Như vậy, những chính sách thời chiến của cả hai bên. Phía Pháp là '' đốt sạch, phá sạch, cướp sạch" và cả "tiêu thổ kháng chiến" trước khi bộ đội rút quân đã ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước. Thứ ba, do hai thể chế kinh tế - xã hội đối lập cùng tồn tại. Hai thể chế đó là: một bên thuộc vùng địch hậu với cơ cấu kinh tế - xã hội thuộc địa nửa phong kiến, từng phát triển không bình thường. Một bên là kinh tế - xã hội của một xã hội có dân chủ, vừa xây dựng vừa chiến đấu. Hai thể chế này đối lập, đấu tranh quyết liệt để phủ định lẫn nhau. Như vậy, những yếu tố trên đây là những yếu tố cơ bản đã tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn đất nước bị chia cắt làm hai miền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cam go, ác liệt. V - Sự phát triển kinh tế - xã hội miền bắc trong giai đoạn (1954 - 1960). 1. Hoàn cảnh lịch sử. Từ tháng 7/ 1954, đất nước tạm thời chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm dấu mốc phân giới. Miền Bắc, từ phía bắc từ vỹ tuyến 17 trở ra bắc thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, miền Nam do đối phương kiểm soát và theo Hiệp định, đến năm 1956, hai miền sẽ thực hiện tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Chính sách cai trị của thực dân Pháp cùng với tác động của chiến tranh làm cho nền kinh tế miền Bắc kiệt quệ. Cơ cấu kinh tế miền bắc là sản xuất nông nghiệp, lạc hậu; sản xuất nông nghiệp nhỏ, manh mún; công nghiệp hầu như không đáng kể. Cơ sở hạ tầng cực kỳ nghèo nàn. Vài năm sau khi tiếp quản miền Bắc, giá trị sản lượng công nghiệp còn rất thấp, chiếm chưa đầy 10% tổng giá trị sản lượng công - nông nghiệp . Thời kỳ này miền bắc tiếp quản vùng giải phóng, hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế ở miền Bắc. Trong thời kỳ này, chiúng ta phải hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong lúc miền Bắc đã bước vòa thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta đã tạo được một số cơ sở bước đầu cho xã hội mới tức là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chia 17
  18. ruộng đất cho nông dân để sau đó tổ chức nông dân lại. Chúng ta đã phát triển kinh tế quốc doanh, đã tiếp quản một số xí nghiệp, nông trường.....từ trong tay địch xây dựng thành xí nghiệp quốc doanh. Đây là thời kỳ hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đồng thời làm một số việc bước đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn sau, thời kỳ 1958 - 1960 là thời kỳ cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện nhiệm vụ do Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương đề ra, trong đó lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa làm trọng tâm. Chúng ta đã tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp và đã hoàn thành hợp tác hóa bậc thấp vào năm 1960, đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với thương nghiệp nhỏ, đối với thủ công nghiệp... 2. Nội dung của sự phát triển. Thứ nhất, là về kinh tế. Sau khi tiếp quản miền Bắc, nhiệm vụ của kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955 - 1957) là khôi phục kinh tế, với chỉ tiêu đạt các định mức trước chiến tranh. Sau đó, trong kế hoạch 3 năm lần thứ 2 (1958 - 1960) là phát triển kinh tế bằng xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Thực hiện khôi phục kinh tế , đầu tiên miền Bắc tiến hành cải cách ruộng đất, khôi phục và phát triển kinh tế nông nghiệp. Thực hiện chỉ thị của Đảng tiến hành: " tăng cường công tác tư tưởng trong Đảng, động viên toàn Đảng hoàn thành nhiệm vụ trước mắt; trong các nhiệm vụ này, nhiệm vụ có quan hệ nhiều nhất đến công tác tổ chức là cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế. Chính trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ ấy, chủ yếu là trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất mà tiếp tục nâng cao cán bộ và chỉnh đốn Đảng ở nông thôn. Mặt khác, phải tăng cường quản lý cán bộ, phải chấn chỉnh biên chế vào bộ máy nhà nước , dần dần quy định những chế độ làm việc cho thích hợp với đòi hỏi của nhu cầu công tác, thích hợp với tình hình mới". Nhiệm vụ khôi phục kinh tế nông nghiệp được coi là chủ yếu và tiến hành đồng thời, song song với cải cách ruộng đất. Mục đích của cải cách ruộng đất là 18
  19. xóa bỏ quan hệ địa chủ - tá điền, đưa ruộng đất về tay nông dân. Qua 5 đợt cải cách ruộng đất, nhà nước đã trưng thu, trưng mua, tịch thu 810.000 ha ruộng đất để chia cho hai triệu hộ nông dân. Sở hữu nhỏ về ruộng đất nông nghiệp trong thời kỳ này đã phát huy tác dụng khôi phục kinh tế. Quan trọng không kém đó là khôi phục, phát triển nông nghiệp. Đây được coi là nhiệm vụ hàng đầu tronh hai kế hoạch 3 năm lần thứ nhất và lần thứ 2. Trong 6 năm đó, vốn đầu tư vào nông nghiệp chiếm khoảng 11 - 12 % tổng số vốn đầu tư của nhà nước cho mọi ngành. Trong đầu tư nông nghiệp, phần dành cho thủy lợi luôn chiếm trên 90% số vốn đầu tư cho nông nghiệp. Phần đầu tư trực tiếp cho nông dân sản xuất không đáng kể. " Sản xuất nông nghiệp là mấu chốt của việc khôi phục kinh tế quốc dân, mấu chốt của toàn bộ công tác kinh tế tài chính của chúng ta, sản xuất nông nghiệp liên quan đến đời sống của nông dân , tới đại đa số nhân dân nước ta. Trong khu vực không sản xuất vật chất, vốn đầu tư tập trung vào hành chính, văn hóa giáo dục và bảo vệ sức khỏe. Ba bộ phận này chiếm hơn 2/3 tổng số vốn đầu tư cho khu vực không sản xuất. Sau ba năm khôi phục kinh tế, đến năm 1957, mọi chỉ tiêu của kinh tế miền Bắc đã bằng hoặc vượt mức năm 1939 - thời điểm kinh tế Việt Nam phát triển nhất trước chiến tranh. Trong sự biến đổi chung của kinh tế - xã hội ở thời kỳ hòa bình, cơ cấu kinh tế miền Bắc đã bắt đầu đổi khác. Cơ cấu giá trị sản lượng : Giá trị sản lượng của các ngành kinh tế then chốt của miền Bắc trong những năm 1954 - 1960 là công nghiệp và nông nghiệp, nhưng trong đó tỷ trọng nông nghiệp giảm dần hàng năm. Giá trị tổng sản lượng ngành nông nghiệp giảm trên 10% và gía trị sản lượng công nghiệp tăng 10%. Sản lượng đạt được ở các ngành trên không nằm trong tay một số ít người sở hữu lớn mà nằm trong tay hàng chục triệu người tiểu sản xuất, vừa cải thiện được đời sống của đại đa số nhân dân, tăng cường lực lượng sản xuất vừa tạo điều kiện cho thị trường hàng hóa nội địa phát triển. Về sự tăng trưởng của ngành công nghiệp. Sự biến đổi của ngành này tạo nên diện mạo mới cho kinh tế miền Bắc sau ngày giải phóng. Sự biến đổi này 19
  20. không chỉ thể hiện trong tỷ trọng của kinh tế công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân mà còn thể hiện ở ngay bản thân cơ cấu kinh tế công nghiệp. Ngành công nghiệp bao gồm ngành kinh tế công nghiệp cơ khí hiện đại lẫn tiểu thủ công nghiệp. Sau mấy năm xây dựng, cơ cấu sản lượng công nghiệp thay đổi theo hướng giá trị sản lượng công nghiệp tăng, thủ công nghiệp giảm. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển các ngành công nghiệp, đến năm 1960, giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt giá trị tổng sản lượng ngành thủ công nghiệp. Đây là cột mốc đánh dấu sự biến đổi của cơ cấu kinh tế miền Bắc nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng. Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp gắn chặt với vai trò của ngành công nghiệp quốc doanh. Tỷ trọng của công nghiệp quốc doanh trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp ngày càng lớn. Đến năm 1960, công nghiệp quốc doanh đã đóng vai trò chủ đạo, xương sống của công nghiệp miền bắc. Chủ trương của nhà nước là khôi phục công nghiệp nhẹ trước đồng thời củng cố và phát triển các cơ sở công nghiệp nặng trong phạm vi cần thiết và có khả năng. Về cơ cấu thu nhập: giữa giá trị sản lượng với thu nhập quốc dân ngày càng liên quan hữu cơ đến nhau. Cơ cấu thu nhập của nền kinh tế miền Bắc cũng thay đổi cùng với tến trình xây dựng miền Bắc trong những năm đầu sau giải phóng. Cơ cấu thu nhập của kinh tế miền bắc không chỉ mang tính thuần túy nông nghiệp như trước. Cơ cấu GDP của miền Bắc cho thấy tỷ trọng của ngành công nghiệp và thương nghiệp, dịch vụ cao hơn trước. Cơ cấu sở hữu: Sau tháng 7 - 1954, miền Bắc có nhiều thành phần kinh tế: kinh tế tư bản tư doanh, kinh tế cá thể, kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể. Hai thành phần kinh tế sau cùng được coi là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Kinh tế xã hội chủ nghĩa trong thời gian đầu bao gồm các ở thời bộ phận chủ yếu là ngành thương nghiệp quốc doanh, các cơ sở sản xuất quốc phòng, các hợp tác xã sản xuất. Nhìn chung ở thời kỳ khôi phục kinh tế, tỷ trọng sản lượng, tỷ trọng sản lượng công nghiệp quốc doanh chiếm dưới 10%. Trong 3 năm khôi phục kinh tế, vai trò của thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể được củng cố thêm một bước quan trọng. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0