Báo cáo: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại
lượt xem 13
download
Từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, thu nhập quốc dân mỗi năm một tăng cao, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm một gia tăng, đồng thời nền kinh tế cũng hoạt động sôi động và khốc liệt hơn. Do đó để đứng vững trong nền kinh tế mang đầy tính cạnh tranh khốc liệt này là một điều hoàn toàn không hề đơn giản đối với một đơn vị kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại
- "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại"
- LỜI NÓI ĐẦU Từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, thu nhập quốc dân mỗi năm một tăng cao, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm một gia tăng, đồng thời nền kinh tế cũng hoạt động sôi động và khốc liệt hơn. Do đó để đứng vững trong nền kinh tế mang đầy tính cạnh tranh khốc liệt này là một điều ho àn toàn không hề đ ơn giản đối với một đơn vị kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đã quen với sự bao cấp của Nhà nước. Trước tình hình đó, nhiều doanh nghiệp đã không trụ nổi và đã bị phá sản. Nhưng bên cạnh đó vẫn có không ít các doanh nghiệp không chỉ đứng vững trong thị trường mà còn đưa ra được những biện pháp hữu hiệu làm tăng doanh thu hàng năm cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, góp phần thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, thúc đẩy sự tăng trưởng của nước nhà. Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại là một trong các doanh nghiệp đó. Đây là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong những năm qua Công ty đã luôn phát triển và tạo uy tín tốt với các bạn hàng trong và ngoài nước, và nhập khẩu đã góp phần không nhỏ vào sự thành công này của Công ty. Do anh thu bán hàng nhập khẩu hàng năm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của toàn Công ty (70%) do đó nhập khẩu là một lĩnh vực thực sự quan trọng của to àn Công ty. Đ ể đánh giá một cách chính xác tình hình và vai trò của hoạt động nhập khẩu của Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu em xin chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu (PROSIMEX) – Bộ Thương mại" làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
- Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà, người trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Em cũng xin cảm ơn các cô chú trong Công ty Prosimex, những người đã giúp đ ỡ em rất nhiều trong thời gian thực tập tại Công ty. Do hạn chế về khả năng bản thân và thời gian nghiên cứu nên chuyên đề này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn nữa. Hà nội ngày 31-5-2003 Sinh viên Chu Huy Phương
- CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CƠ SỞ VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU. I. KHÁI QUÁT V Ề HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 1.1. Khái niệm. N hập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu là ho ạt động kinh doanh buôn bán diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Nhập khẩu không chỉ là hoạt động buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có tổ chức bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu là thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay xu hướng liên kết to àn cầu và khu vực làm cho m ức độ ảnh hưởng, tác động của từng quốc gia đối với nhau và của từng khu vực kinh tế thế giới ngày một tăng. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia, vì vậy nó phức tạp hơn mua bán trong nước: Mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn; đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, thường là ngoại tệ mạnh; hàng hoá phải chuyển qua biên giới, cửa khẩu của quốc gia khác; hoạt động buôn bán phải tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như địa phương. Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là có được hiệu quả cao từ việc nhập khẩu vật tư hàng hoá... phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống trong nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển liên tục, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất ở trong nước, giải quyết sự khan hiếm ở thị trường nội địa. Mặt khác thông qua thị trường nhập khẩu đảm
- bảo sự phát triển ổn định những ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa đảm bảo nguyên liệu cho chúng, tạo những năng lực mới cho sản xuất, khai thác thế mạnh của quốc gia mình, kết hợp hài hoà có hiệu quả nhập khẩu và cán cân thanh toán. 1.2. Đặc điểm. N hập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia trên thế giới. Hoạt động buôn bán phát triển theo những tập quán thông lệ quốc tế, giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau. Thương mại quốc tế có quan hệ trực tiếp đến quan hệ chính trị các nước nhập khẩu và các nước xuất khẩu, vì vậy hoạt động nhập khẩu là cơ hội để doanh nghiệp của các nước khác nhau có mối quan hệ làm ăn lâu dài, nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia. Vì vậy nó thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách luật pháp của mỗi quốc gia. Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ như: Chính sách thuế, hạn ngạch, phụ thu,... và các văn bản pháp luật, các quy định danh mục hàng hoá được phép nhập khẩu. 2. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. N hập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đ ời sống trong nước. N hập khẩu là một nghiệp vụ của hoạt động ngoại thương. Nó là việc mua hàng hoá và d ịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước ho ặc tái sản xuất trong nước. Nhập khẩu thể hiện mối liên hệ không thể thiếu giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới. N hập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không thể sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu.
- Trong điều kiện kinh tế nước ta, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. - Bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối ổn định. - Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Ở đây nhập khẩu vừa thoả m ãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa phải đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động. - Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này được thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hàng hoá xuất khẩu Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là các nước nhập khẩu. - N hập khẩu tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, làm đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, quy cách, cho phép thoả mãn hơn nhu cầu trong nước. Đ ể phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu cần phải: - Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các hoạt động dưới sự quản lý của nhà nước. - Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu, nghĩa là không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bỏ qua mục đích kinh tế xã hội. - Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngo ài. Trong hoạt động cần phải chú ý tạo uy tín và không chỉ với các nước trong khu vực và với các nước khác trên thế gới trên cơ sở tôn trọng, b ình đẳng, cùng có lợi.
- 3. Các hình thức nhập khẩu: 3.1. Nhập khẩu uỷ thác. N hập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác được hưởng phần trăm thù lao do hai bên thoả thuận gọi là phí uỷ thác. Trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để tìm cách giao dịch với bạn hàng nước ngoài khi có tổn thất phát sinh. K hi nhận uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) phải lập hai hợp đồng: + Một hợp đồng nua bán hàng hoá với nước ngoại gọi là hợp đồng ngoại thương. + Một hợp đồng giữa hai bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác được gọi là hợp đồng nội thương. K hi tiến hàng nhận uỷ thác thì đại diện các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không đ ược tính doanh số, không phải tính thuế giá trị gia tăng (VAT). 3.2. Nhập khẩu tái xuất. Là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Nhưng hàng hoá nhập khẩu về này không được qua xử lý hay chế biến ở nước tái xuất. Như vậy nhập tái xuất luôn thu hút cùng ba nước tham gia là nước nhập khẩu, nước tái xuất và nước xuất khẩu.
- Hoạt động nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm sau đây: + Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng nhập và bạn hàng xuất, đảm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí đã bỏ ra để tiến hành hoạt động. + Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hợp đồng nhập khẩu là cơ sở để thực hiện hợp đồng xuất khẩu; không phải chịu thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng kinh doanh nhưng phải chịu thuế VAT. + Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp đ ược tính kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu. + H àng hoá không nhất thiết phải chuyển qua nước tái xuất m à có thể được chuyển thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu (nước thứ ba) còn gọi là phương thức chuyển khẩu nhưng tiền trả phải luôn do người tái xuất thu của người nhập khẩu, chỉ giữ lại phần chênh lệch giữa số tiền xuất khẩu và số tiền nhập khẩu. Ngoài ra nhiều khi người tái xuất còn thu đựoc nhiều lợi tức về tiền hàng do thu nhanh trả chậm. Đ ể đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín d ụng giáp lưng ( Back to Back L/C). 3.3. Nhập khẩu đổi hàng. N hập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán ở đây không phải bằng tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích ở đây không phải thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất đ ược hàng hoá, thu lãi từ hoạt động xuất khẩu. Hoạt động nhập khẩu đổi hàng có những đặc điểm sau đây:
- + Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng m à có thể tiến hành cùng đồng thời hoạt động nhập và xuất, do đó có thể thu lãi từ cả hai hoạt động này. + H àng hoá xuất nhập tương đương nhau về mặt giá trị, tính quý hiếm, giá cả và điều kiện giao hàng. + Bạn hàng bán cũng là bạn hàng mua. + Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập và kim ngạch xuất, doanh số tiêu thụ trên cả hàng hoá xuất và hàng hoá nhập. + Biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng có thể là: - Dùng thư tín dụng đối ứng (Recipocal Letter of Credit): Đây là một loại L/C mà trong nội dung của nó có điều chỉnh quy định: L/C này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim ngạch tương đương. - Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm. 3.4. Nhập khẩu tự doanh. Hoạt động nhập khẩu tự doanh là ho ạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong nước và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như quốc tế. Hoạt động nhập khẩu tự doanh có những đặc điểm sau đây: + Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải chịu trách nhiệm toàn bộ các hoạt động của mình. Vì thế nó đòi hỏi phải có sự xem xét kỹ lưỡng mọi vấn đề từ khâu nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra cho đến việc ký kết thực hiện hợp đồng, bán hàng thu tiền về... Trong hợp đồng này, doanh nghiệp phải tự bỏ vốn và phải cân nhắc các khoản thu chi đ ể đảm bảo kinh doanh có lãi.
- + Khi nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp xuất nhập khẩu đ ược tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính doanh số và chịu thuế giá trị gia tăng (VAT). + Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương để giao dịch với bên nước ngoài. Còn các hợp đồng bán hàng trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc bán với hình thức khác như bán buôn. 3.5. Nhập khẩu liên doanh. Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đ ề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đ ến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên (các bên) cùng phân chia lỗ lãi tuỳ theo trách nhiệm của mỗi bên. Hoạt động nhập khẩu liên doanh có những đặc điểm sau đây: + So với nhập khẩu tự doanh thì ở loại hình này các doanh nghiệp ít chịu rủi ro hơn b ởi vì mỗi doanh nghiệp tham gia liên doanh chỉ phải góp một phần vốn nhất định. Quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên chỉ được phân bổ dựa trên phần vốn góp đó. Rủi ro (nếu có) sẽ được san sẻ cho các bên và như thế các doanh nghiệp thành viên phải chịu phần rủi ro ít hơn. Việc phân chia chi phí, lỗ lãi sẽ được dựa trên phần vốn góp và các thoả thuận giữa các nước với nhau. + Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính doanh số trên giá trị hàng hoá nhập theo tỷ lệ vốn góp của mình đồng thời chịu mọi khoản thuế trên phần doanh số đó. + Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải lập ra hai hợp đồng: - Một hợp đồng ngoại thương mua hàng với nước ngo ài.
- - Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết là phải Nhà nước). Sự phân chia như trên đây là căn cứ vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể là mua bán thanh toán bằng hàng. Mua bán tiền-hàng là cách thông thường, truyền thống. Thanh toán bằng hàng (còn gọi là buôn bán đối lưu) là một hình thức còn tương đối mới mẻ với chúng ta và trong phạm vi ở đây cũng nên tìm hiểu hình thức này. 3.6. Một số hình thức khác. + Tạm xuất tái nhập (qua gia công sửa chữa ở nước ngoài). + N hận nguyên vật liệu, giao sản phẩm gia công quốc tế. + D ịch vụ kiểm tra và chuyển giao công nghệ mới (thuê chuyên gia). II. HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ. 1. Hiệu quả kinh doanh. 1.1. Khái niệm, bản chất hiệu quả kinh doanh. 1.1.1. Khái niệm: Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm hiệu quả kinh doanh. Có quan điểm cho rằng: "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng của một lượng hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trong giới hạn khả năng sản xuất của nó". Thực chất quan điểm này đã đề cập tới khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên góc độ này rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất làm cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên phương diện lý thuyết thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được trên giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
- Một số nhà quản trị học lại quan niệm hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó. Manfred Kuhn cho rằng: Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh. Q uan điểm khác lại cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào ho ạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định. Trong những hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau thì b ản chất của phạm trù hiệu quả và những yếu tố hợp thành phạm trù hiệu quả vận động theo những khuynh hướng khác nhau. Trong xã hội tư b ản, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và do vậy quyền lợi về kinh tế, chính trị... đều dành cho nhà tư bản. Chính vì thế việc phấn đấu tăng hiệu quả kinh doanh thực chất là đem lại lợi nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản nhằm nâng cao thu nhập cho họ, trong khi thu nhập của người lao động có thể thấp hơn nữa. Do vậy, việc tăng chất lượng sản phẩm không phải là để phục vụ trực tiếp người tiêu dùng mà để thu hút khách hàng nhằm bán được ngày càng nhiều hơn và qua đó thu được lợi nhuận lớn hơn. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phạm trù hiệu quả vốn tồn tại vì sản phẩm sản xuất xã hội sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Do các tài sản đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, toàn dân và tập thể, hơn nữa mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng khác mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục đích của nền sản xuất x ã hội chủ nghĩa là đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội nên bản chất của phạm trù hiệu quả cũng khác với tư bản chủ nghĩa.
- X ét trên bình diện các quan điểm kinh tế học khác nhau cũng có nhiều ý kiến khác nhau về hiểu như thế nào về hiệu quả kinh doanh. - Nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng: "Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá". Như vậy, hiệu quả được đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, có thể do tăng chi phí mở rộng sử dụng nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu quả. - Quan điểm nữa cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là tỷ lệ so sánh tương đối giữa kết quả và chi phí để đạt đ ược kết quả đó. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chưa phản ánh được hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này. - Quan điểm khác nữa lại cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội cho rằng quỹ tiêu dùng với ý nghĩa là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh". Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Nhưng khó khăn ở đây là phương tiện để đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn...) để đạt được mục tiêu xác định. Trình đ ộ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh gia trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra ở mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng các công thức chung nhất sau đây: K H=
- C Trong đó: H: Hiệu quả kinh doanh K: K ết quả đạt đ ược C: Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó. H iệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy cần phân đ ịnh sự khác nhau và mối liên hệ giữa "kết quả" và "hiệu quả". Bất kỳ hành đ ộng nào của con người nói chung và trong kinh doanh nói riêng đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích cụ thể nào đó, kết quả đạt được trong kinh doanh mà cụ thể là trong lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu thông mới chỉ đáp ứng đ ược phần nào tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, kết quả đó được tạo ra ở mức độ nào, với giá nào là vấn đề cần xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng của con người bao giờ cũng có xu hướng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm đ ược nhiều nhất. Vì vậy nên khi đánh giá hoạt động kinh doanh tức là đánh giá chất lượng của hoạt động kinh doanh tạo ra kết quả mà nó có được. N hư vậy, hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh: So sánh giữa đầu vào và đầu ra, so sánh giữa chi phí kinh doanh bỏ ra và kết quả kinh doanh thu được. Đứng trên góc độ xã hội, chi phí xem xét phải là chi phí xã hội, do có sự kết hợp của các yếu tố lao động, tư liệu lao động và đố i tượng lao động theo một tương quan cả về lượng và chất trong quá trình kinh doanh để tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn cho tiêu dùng.... Tóm lại, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động kinh doanh, trình độ nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào tốc độ biến động của từng nhân tố.
- 1.1.2. Bản chất. Từ khái niệm về hiệu quả nêu ở trên đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh doanh là phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội và nó chính là hiệu quả của lao động xã hội được xác định trong mối tương quan giữa lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội bỏ ra. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về không gian và thời qian, cả về mặt định tính và đ ịnh lượng. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ, chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản thân doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Trong thực tế kinh doanh, điều này dễ xảy ra khi con người khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và cả nguồn lao động. Không thể coi tăng thu giảm chi là có hiệu quả khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc các chi phí cải tạo môi trường, đảm bảo môi trường sinh thái, đầu tư cho giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực.... H iệu quả kinh doanh chỉ đ ược coi là đạt được một cách toàn diện khi ho ạt động của các bộ phận mang lại hiệu quả không ảnh hưởng đến hiệu quả chung ( về mặt định hướng là tăng thu giảm chi ). Điều đó có nghĩa là tiết kiệm tối đa các chi phí kinh doanh và khai thác các nguồn lực sẵn có làm sao đạt được kết quả lớn nhất. 1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh. 2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân. H iệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu được từ các ho ạt động thương m ại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả kinh doanh cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
- H iệu quả kinh tế - xã hội mà hoạt động kinh doanh đem lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. G iữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế x ã hội có quan hệ nhân q uả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiêp. Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ đóng góp vào hiệu quả chung của nền kinh tế. Ngược lại, tính hiệu quả của bộ máy kinh tế sẽ là tiền đề tích cực, là khung cơ sở cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt kết quả cao. Đó chính là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể. Tính hiệu quả của nền kinh tế xuất phát từ chính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và một nền kinh tế vận hành tốt là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và ngày một phát triển. V ì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo lợi ích riêng hài hoà với lợi ích chung. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, với vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế cần có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hoạt động đạt hiệu quả cao nhất trong khả năng có thể của mình. 2.2. Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp. Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi trường kinh doanh của nó nhằm giải quyết những vấn đề then chốt trong kinh doanh như: Kinh doanh cái gì? Kinh doanh cho ai? Kinh doanh như thế nào và chi phí bao nhiêu?... Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong những điều kiện riêng về tài nguyên, trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ
- tổ chức, quản lý lao động, quản lý kinh doanh mà Paul Samuelson gọi đó là "hộp đen" kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bằng khả năng của mình họ cung ứng cho xã hội những sản phẩm với chi phí cá biệt nhất định và nhà kinh doanh nào cũng muốn tiêu thụ hàng hoá của m ình với số lượng nhiều nhất. Tuy nhiên, thị trường hoạt động theo quy luật riêng của nó và mọi doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường là phải chấp nhận “luật chơi” đó. Một trong những quy luật thị trường tác động rõ nét nhất đến các chủ thể của nền kinh tế là quy luật giá trị. Thị trường chỉ chấp nhận mức hao phí trung bình xã hội cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá sản phẩm. Quy luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với mức chi phí cá biệt khác nhau trên một mặt bằng trao đổi chung, đó là giá cả thị trường. Suy đến cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội, nhưng đối với mỗi doanh nghiệp mà ta đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh thì chi phí lao động x ã hội đó lại được thể hiện dưới các dạng chi phí khác nhau: giá thành sản xuất, chi phí sản xuất Bản thân mỗi loại chi phí này lại đ ược phân chia một cánh tỷ mỷ hơn. V ì vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên, đồng thời cần thiết phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí hay nói cánh khác là đánh giá hiệu quả của chi phí bộ phận. 2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối. V iệc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích cơ bản: Một là, thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các dạng chi phí khác nhau trong hoạt động kinh doanh. H ai là, để phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó. Từ hai mục đích trên mà người ta phân chia hiệu quả kinh doanh ra làm hai loại:
- H iệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án kinh doanh cụ thể bằng cánh xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. H iệu quả tương đối được xác định bằng cánh so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau, hay chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. V iệc xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả tương đối (so sánh). Tuy vậy, có những chỉ tiêu hiệu quả tương đối được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tuyệt đối. Chẳng hạn, việc so sánh mức chi phí của các phương án khác nhau để chọn ra phương án có chi phí thấp nhất thực chất chỉ là sự so sánh mức chi phí của các phương án chứ không phải là việc so sánh mức hiệu quả tuyệt đối của các phương án. 2.4. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Căn cứ vào lợi ích nhận được trong các khoảng thời gian dài hay ngắn mà người ta phân chia thành hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong một thời gian ngắn. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong một thời gian d ài. Doanh nghiệp cần phải tiến hành các hoạt động kinh doanh sao cho nó mang lại cả lợi ích trước mắt cũng như lâu dài cho doanh nghiệp. Phải kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, không được chỉ vì lợi ích trước mắt mà làm thiệt hại đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp 2. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do đó quan điểm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp cũng dựa trên quan điểm hiệu quả kinh doanh nói chung, hay hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng hiệu quả kinh tế tính riêng cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hay nói cách khác nó phản
- ánh trình độ sử dụng nguồn nhân lực để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Từ khái niệm trên có thể đưa ra công thức đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu: - D ạng thuận: H iệu quả kinh doanh nhập khẩu = Kết quả đầu ra/Chi phí đầu vào Chỉ tiêu này biểu thị mỗi đ ơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao nhiêu đơn vị đầu ra. - D ạng nghịch: H iệu quả kinh doanh xuất khẩu = Chi phí đầu vào/K ết quả đầu ra Chỉ tiêu này cho biết để có một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn vị đầu vào. K ết quả đầu ra đ ược đo bằng các chỉ tiêu như giá trị tổng sản lượng, doanh thu thuần, lợi tức gộp... Yếu tố đầu vào bao gồm: lao động, đối tượng lao động, vốn kinh doanh... Bản chất của hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là nần cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm nguồn lực xã hội tính riêng cho hoạt động nhập khẩu. Đ ây là hai mặt của mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật tăng năng suất lao động và tiết kiệm thời gian. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả m ãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra, yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm nguồn lực, để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
- V ì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là phải đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của sự hy sinh công việc lựa chọn nào đó đã bỏ qua hay là giá trị của sự hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện hạot động kinh doanh này, chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thực sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương hướng kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng kinh doanh có hiệu quả hơn. 3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.1. Sự khan hiếm nguồn lực đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng. N hư chúng ta đã biết, trong thực tế mọi nguồn lực đưa vào sản xuất kinh doanh đều có giới hạn. Không có nguồn lực nào là vô tận, tất cả đều là hữu hạn. Chính vì thế, nếu chúng ta sử dụng nguồn nhân lực một cách lãng phí, không tiết kiệm thì chúng sẽ nhanh chóng trở nên cạn kiệt và biến mất. Trong khi đó, dân số thế giới ngày càng tăng làm cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn và không có giới hạn. Do vậy, nguồn lực, của cải đã khan hiếm nay lại càng khan hiếm hơn, trong điều kiện đó việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề hàng đầu đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Mọi doanh nghiệp khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải cân nhắc các phương án kinh doanh, xem phương án nào có hiệu quả hơn vì nguồn nhân lực của doanh nghiệp như vốn, lao động, kỹ thuật đưa vào sản xuất kinh doanh đều có giới hạn, nếu không tiết kiệm đầu vào chắc chắn doanh nghiệp sẽ đi tới thua lỗ, phá sản. Đối với doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu thì nguồn lực sử dụng là lượng ngoại tệ bỏ ra, thời gian và lao động. Nếu không biết sử
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo "Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam”
46 p | 922 | 455
-
Báo cáo: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng
0 p | 755 | 371
-
Đề tài "Một số giải pháp marketing nhằm hoàn thiện và nâng cao mức độ thỏa mãn khách hàng của Công ty TM-DV Tràng Thi"
71 p | 636 | 351
-
Báo cáo "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Cao su Sao vàng Hà Nội"
67 p | 482 | 233
-
Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ở Việt Nam
208 p | 719 | 213
-
Chuyên đề báo cáo: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty cơ điện Trần Phú
74 p | 501 | 196
-
Báo cáo "Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam”
30 p | 333 | 127
-
Luận văn tốt nghiệp “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty tư vấn đầu tư và xây dựng ”
51 p | 425 | 123
-
Báo cáo thực tập: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị nhân sự tại Công ty TNHH Dệt kim Minh Anh
54 p | 316 | 84
-
Báo cáo Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu xây dựng ở Công ty xây lắp vật tư kỹ thuật - Hà nội
74 p | 141 | 39
-
Báo cáo Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM
92 p | 191 | 35
-
Báo cáo Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở công ty 247
103 p | 201 | 34
-
Báo cáo tốt nghiệp: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bán hàng tại Công ty TNHH CKL (Việt Nam)
124 p | 52 | 24
-
Báo cáo Một số giải pháp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Dược Liệu Trung Ương I
86 p | 148 | 18
-
Báo cáo tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm may mặc vào thị trường Mỹ tại Công ty Cổ phần Dệt May Đầu tư Thương mại Thành Công - TS. Phạm Thị Hà
10 p | 127 | 16
-
Báo cáo tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam Chi nhánh Bình Dương
68 p | 33 | 16
-
Báo cáo Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng
125 p | 127 | 12
-
Báo cáo tốt nghiệp: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động kho tại công ty TNHH MTV Thương mại – Dịch vụ Xuân Oánh
70 p | 31 | 11
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn