Báo cáo Nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội
lượt xem 4
download
Nội dung của báo cáo này trình bày tổng quan về thông tin và nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội; thực trạng thông tin của đại biểu Quốc hội; một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin cho các đại biểu Quốc hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo Nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội
- Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Hà Nội, 2012 - 2013
- Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Chỉ đạo biên soạn Ban Công tác đại biểu Biên soạn Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử Hà Nội, 2012 - 2013 TTBD ĐBDC Báo cáo này được thực hiện với sự tài trợ của Quỹ Châu Á. Các phát hiện, giải thích và kết luận nêu trong báo cáo là của các tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Quỹ Châu Á.
- Báo cáo nghiên cứu 4 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Mục lục Các chữ viết tắt 5 Lời cảm ơn 6 I. Giới thiệu 7 1. Bối cảnh 7 2. Mục đích nghiên cứu 7 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 8 II. Tổng quan về thông tin và nhu cầu thông tin của đbqh 11 1. Vai trò của thông tin đối với hoạt động của ĐBQH 11 2. Quyền và trách nhiệm của các chủ thể 12 3. Nhu cầu thông tin của ĐBQH 14 III. Thực trạng thông tin của ĐBQH 25 1. Sự chủ động từ phía ĐBQH 25 2. Dung lượng thông tin cung cấp cho ĐBQH 27 3. Nội dung, tính chất thông tin được cung cấp 27 4. Thời gian cung cấp thông tin 29 5. Các hình thức cung cấp thông tin 30 6. Các nguồn thông tin của ĐBQH 31 7. Đáp ứng nhu cầu thông tin của ĐBQH theo các chức năng 40 IV. Một số kiến nghị 45 1. Sửa đổi khuôn khổ pháp lý 45 2. Thay đổi cách thức tổ chức việc cung cấp thông tin 47 3. Hoàn thiện tính chất, nội dung thông tin cần cung cấp 48 4. Hoàn thiện các hình thức cung cấp thông tin 50 5. Cải tiến việc cung cấp thông tin theo các chức năng 52 6. Nâng cao hiệu quả của các nguồn thông tin 53 7. Tăng cường năng lực, nhân lực về thông tin 54 Phụ lục 57 Danh mục tài liệu tham khảo 58 A. Văn kiện 58 B. Sách, báo, tạp chí 58
- Báo cáo nghiên cứu 5 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Các chữ viết tắt ĐBQH: Đại biểu Quốc hội ĐBKN: Đại biểu kiêm nhiệm ĐBCT: Đại biểu chuyên trách CBPVQH: Cán bộ phục vụ Quốc hội HĐDT và các UB: Hội đồng dân tộc và các ủy ban KT - XH: Kinh tế - xã hội NSNN: Ngân sách nhà nước TCXH: Tổ chức xã hội XHDS: Tổ chức dân sự UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hội Ủy ban VH, GD, TN, TN, NĐ: Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND: Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân VPQH: Văn phòng Quốc hội
- Báo cáo nghiên cứu 6 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Lời cảm ơn Để thực hiện được báo cáo này, chúng tôi chân thành cảm ơn sự góp ý sâu sắc của các ĐBQH, các chuyên gia về phương hướng, nội dung và kết quả nghiên cứu. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ rất quý giá của Quỹ Châu Á tại Việt Nam và DEPOCEN. Nếu không có những sự hỗ trợ này, chúng tôi không thể tiến hành và hoàn thành báo cáo nghiên cứu này. Những dẫn chứng, lập luận và phát hiện của báo cáo được dựa nhiều vào các nguồn tài liệu nghiên cứu sẵn có về cùng nội dung, khuôn khổ chính sách, pháp luật hiện hành; các cuộc tọa đàm, phỏng vấn sâu, và nhất là kết quả trả lời phiếu hỏi của các ĐBQH và cán bộ tham mưu, giúp việc trong Quốc hội. Nếu không có sự tham gia tích cực và sự giúp đỡ, sẵn sàng hợp tác của ĐBQH và cán bộ phục vụ trong việc tham gia các cuộc tọa đàm, trả lời phiếu hỏi, nghiên cứu này không thể được thực hiện được. Chúng tôi xin trân trọng cám ơn sự tham gia đó của các quý vị.
- Báo cáo nghiên cứu 7 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội I. Giới thiệu Phần này giới thiệu tóm tắt về bối cảnh thực hiện nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được áp dụng. 1. Bối cảnh Quốc hội thực hiện những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rất quan trọng gồm có: ban hành, sửa đổi Hiến pháp; ban hành luật, sửa đổi luật; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. ĐBQH có trọng trách quyết định những chính sách, quy định pháp luật tác động rất lớn đến lợi ích quốc gia và quyền lợi của cử tri, với khối lượng công việc to lớn, phức tạp. Tuy nhiên, “ĐBQH không phải là chuyên gia trong mọi lĩnh vực”, mà có trình độ học vấn, kinh nghiệm công tác khác nhau, đa số là đại biểu mới được bầu chưa có kinh nghiệm hoạt động nghị trường. Để hoàn thành nhiệm vụ, trọng trách trong điều kiện khó khăn, với nhiều thách thức to lớn, ĐBQH cần các thông tin rất đa dạng, vừa rộng, vừa chuyên sâu. ĐBQH có thể thu nhận thông tin từ nhiều nguồn: từ cử tri, từ các cơ quan tham mưu giúp việc của Quốc hội ở trung ương và địa phương; từ phía Chính phủ cung cấp theo yêu cầu; từ nguồn chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các trường đại học; các hiệp hội; doanh nghiệp; báo chí...; với những hình thức khác nhau. Để thu nhận thông tin phục vụ cho hoạt động ban hành chính sách, pháp luật và giám sát việc thực thi chính sách, đáp ứng các yêu cầu của cử tri, các ĐBQH có nhu cầu, ưu tiên khác nhau. Trong thời gian vừa qua, các cơ quan hữu quan đã cố gắng cải tiến việc cung cấp thông tin cho ĐBQH, với khối lượng nhiều hơn, hình thức đa dạng hơn, chất lượng thông tin có phần tốt hơn, góp phần hỗ trợ ĐBQH thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, như chính các ĐBQH phản ánh, vẫn còn những khoảng cách khá lớn giữa nhu cầu của ĐBQH về thông tin với thông tin mà đại biểu nhận được. Cần phải tiếp tục tìm kiếm những giải pháp, biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chất lượng thông tin phục vụ cho hoạt động của Quốc hội. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu này được thực hiện trong năm 2012 - 2013 để tìm hiểu nhu cầu, ưu tiên của ĐBQH về thông tin, thực trạng đáp ứng nhu cầu của đại biểu, phân tích những “khoảng trống” về thông tin dành cho ĐBQH, những nguyên nhân, đề xuất các kiến nghị để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của ĐBQH. 2. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ bối cảnh nói trên, báo cáo nghiên cứu này có các mục tiêu chính sau đây: yy Tìm hiểu, đánh giá nhu cầu thông tin của ĐBQH phục vụ cho hoạt động của mình ở Quốc hội, chẳng hạn như: ĐBQH cần thông tin gì, ưu tiên gì về thông tin, từ những nguồn nào; nguồn thông tin nào được đại biểu đánh giá cao; đại biểu muốn được cung cấp thông tin dưới dạng nào v.v…
- Báo cáo nghiên cứu 8 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội yy Tìm hiểu thực trạng đại biểu thu nhận thông tin, đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ cho hoạt động đại biểu hiện nay: bằng cách nào; do ai cung cấp; từ những nguồn nào; chất lượng thông tin v.v… Từ đó xác định khoảng cách giữa nhu cầu thông tin của ĐBQH với thực trạng thông tin mà đại biểu nhận được. yy Đề xuất các kiến nghị liên quan đến việc đáp ứng các nhu cầu thông tin của ĐBQH, bao gồm kiến nghị về khuôn khổ pháp lý, các nội dung cần chú trọng trong từng lĩnh vực hoạt động, các nguồn thông tin cần chú ý, cách thức tổ chức cung cấp thông tin. 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Đối tượng của nghiên cứu này chủ yếu là các ĐBQH khóa XIII. Bên cạnh đó, một số hoạt động nghiên cứu hướng tới ĐBQH các khóa trước và cán bộ phục vụ ĐBQH ở trung ương và địa phương. Nghiên cứu này áp dụng các phương pháp sau đây: yy Nghiên cứu tài liệu (desk study): nghiên cứu các tài liệu sẵn có về cùng nội dung; yy Tọa đàm nhóm nhỏ: tổ chức một số cuộc tọa đàm nhóm nhỏ với ĐBQH và cán bộ phục vụ về các nội dung nghiên cứu; yy Phỏng vấn sâu: phỏng vấn sâu một số ĐBQH về các nội dung nghiên cứu; yy Điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi: bảng hỏi được thiết kế, gửi cho ĐBQH và cán bộ phục vụ ĐBQH điền và gửi lại; yy Tham vấn các bên liên quan: nhóm nghiên cứu xin ý kiến góp ý của một số ĐBQH và chuyên gia về một số sản phẩm của nghiên cứu như bảng hỏi, báo cáo nghiên cứu. 1. Nghiên cứu tài liệu: Nhóm nghiên cứu tập hợp, tổng hợp, phân tích các tư liệu, tài liệu sẵn có về nhu cầu, ưu tiên về thông tin của ĐBQH gồm có: các quy định pháp luật liên quan; các tài liệu chính thức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; các bài viết, báo cáo nghiên cứu, kết quả của các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học; phiếu yêu cầu thông tin của ĐBQH ở các kỳ họp v.v… Nhóm nghiên cứu cũng tìm hiểu thực tiễn ở một số nước, các bài viết, các tài liệu của các chuyên gia nước ngoài, của nghị viện các nước về nhu cầu thông tin của nghị sỹ, cách thức đáp ứng nhu cầu đó ở các nước. 2. Tọa đàm nhóm nhỏ: Cán bộ của Trung tâm đã cùng với các chuyên gia tiến hành bốn cuộc tọa đàm nhóm nhỏ theo các nội dung trọng tâm, mỗi cuộc khoảng 10-30 ĐBQH và cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND một số tỉnh. Những người tham dự các cuộc tọa đàm trao đổi về các nội dung như: yêu cầu, nhu cầu về thông tin của ĐBQH theo vai trò, chức năng, nhiệm vụ; thực trạng tiếp nhận thông tin của ĐBQH; đề xuất, kiến nghị về việc cung cấp thông tin cho ĐBQH… 3. Bảng hỏi: Từ kết quả tổng quan tài liệu thu được cũng như tọa đàm nhóm nhỏ, nhóm nghiên cứu đã thiết kế hai bảng hỏi dành cho ĐBQH và cán bộ phục vụ ĐBQH. Hai bảng hỏi
- Báo cáo nghiên cứu 9 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội này có quan hệ mật thiết với nhau, được sử dụng để khảo sát ý kiến của 2 nhóm đối tượng trên về cùng một vấn đề được quan tâm, với mục đích là kết quả khảo sát sẽ phản ánh được thực trạng và nhu cầu được cung cấp thông tin hiện nay của ĐBQH, cũng như những mong muốn, đánh giá và góp ý của cả 2 nhóm đối tượng để cải thiện được những vấn đề còn tồn tại. Sau khi hoàn thành chi tiết, Bảng hỏi đã được gửi đến trực tiếp các ĐBQH và cán bộ phục vụ. Cụ thể, đối với ĐBQH, số phiếu khảo sát phát ra là 459, và số phiếu thu về là 274. Thành phần ĐBQH tham gia khảo sát tương đối giống với tỷ lệ của toàn thể ĐBQH khóa XIII, mẫu khảo sát thu được đảm bảo tính đại diện, và các kết quả trả lời là có tính tin cậy cao. Bảng 1. Thành phần của ĐBQH trong khảo sát này % trên tổng số % trên tổng số Thông tin chung về ĐBQH phiếu khảo sát ĐBQH khóa XIII ĐBQH Dân tộc Kinh 83,9% 94,4% ĐBQH theo tôn giáo 3,6% 1,2% ĐBQH có trình độ học vấn trên ĐH 42,3% 45,6% ĐBQH có trình độ học vấn ĐH 55,5% 52,6% ĐBQH nhiệm kỳ đầu 67,5% 66,6% ĐBQH nhiệm kỳ thứ 2 trở lên 32,5% 33,4% Về phía cán bộ phục vụ, số phiếu phát ra là 1053 và số phiếu thu về là 557 phiếu. Trong số này, đa phần các cán bộ gửi lại phiếu hỏi thuộc Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND các tỉnh/thành phố. Bảng hỏi được làm sạch, nhập dữ liệu theo đúng quy trình, kỹ thuật; sau đó được phân tích kết quả. Bảng 2. Phân bổ nơi công tác và ngạch công chức của CBPVQH Số lượng Tỷ lệ Nơi công tác Vụ, đơn vị thuộc VPQH 94 18,1% VP Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh/thành 422 81,5% Ngạch công chức Chuyên viên cao cấp hoặc tương đương 16 3,1% Chuyên viên chính hoặc tương đương 176 34% Chuyên viên hoặc tương đương 310 60% Nhân viên 9 1,7% Cán sự 4 0,8%
- Báo cáo nghiên cứu 10 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 4. Phỏng vấn sâu: Nhóm nghiên cứu chuẩn bị những nội dung, câu hỏi cần thiết, lựa chọn một số ĐBQH, chuyên gia và gặp phỏng vấn sâu từng người về các nội dung nghiên cứu, chủ yếu để đối chiếu và tìm hiểu thêm những nội dung chưa được làm rõ qua các hoạt động trước đó.
- Báo cáo nghiên cứu 11 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội II. Tổng quan về thông tin và nhu cầu thông tin của đbqh Phần này trình bày tổng quan về thông tin và nhu cầu thông tin của ĐBQH, với các nội dung lớn gồm: vai trò của thông tin đối với ĐBQH; khuôn khổ chính sách, pháp luật liên quan đến thông tin cho ĐBQH; quyền và trách nhiệm của các bên trong việc yêu cầu và cung cấp thông tin phục vụ hoạt động ở Quốc hội; quan niệm về nhu cầu thông tin của ĐBQH; nhu cầu thông tin của ĐBQH trên các phương diện dung lượng, tính chất thông tin, thời hạn, các hình thức, các nguồn cung cấp thông tin. 1. Vai trò của thông tin đối với hoạt động của ĐBQH Để có thể tham gia vào việc quyết định các quyết sách để giải quyết được các vấn đề của cuộc sống đặt ra, ĐBQH phải sử dụng nhiều công sức, trí tuệ để thu thập và xử lý một khối lượng thông tin rất lớn. Trong khi nghề kinh doanh coi thông tin là tiền bạc thì đại biểu lại coi đó là “nguyên liệu” cơ bản nhất để thực hiện nhiệm vụ đại biểu trong hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Như một ĐBQH phát biểu, “thông tin giúp cho ĐBQH tự tin, chủ động, mạnh dạn hơn trong các hoạt động tại nghị trường; hoặc như một ĐBQH khác nhấn mạnh, cần thông tin để “nói cho đúng, trúng”1. Nhiều ĐBQH khác trên các diễn đàn khác nhau cũng có những nhận xét tương tự. Đặc biệt, hoạt động xử lý thông tin (bởi các chủ thể khác nhau) có những ý nghĩa sau đối với ĐBQH: yy Hoạt động xử lý thông tin giúp đại biểu định hướng, chọn lọc và tìm kiếm được thông tin cần một cách nhanh chóng, chính xác trong khối lượng thông tin khổng lồ. yy Hoạt động xử lý thông tin một bước giúp đại biểu rút ngắn, tiết kiệm được thời gian để thu nhận được nhiều hơn, có thời gian “nghiền ngẫm” thông tin thấu đáo, kỹ càng hơn trước khí tham gia thảo luận, quyết định chính sách, pháp luật. yy Hoạt động xử lý thông tin giúp đại biểu đánh giá thông tin để có thể chọn lọc được những thông tin mới nhất, đầy đủ nhất, phù hợp nhất với nhu cầu hoạt động của đại biểu tại Quốc hội và các cơ quan Quốc hội. yy Trên cơ sở tổng hợp, phân tích thông tin, hoạt động xử lý thông tin còn cung cấp cho đại biểu những thông tin mang tính chất dự báo, như: xu hướng phát triển của vấn đề, xu hướng triển khai vấn đề,… Hơn nữa, tầm quan trọng của thông tin chuyên sâu đối với ĐBQH là rất lớn. Lâu nay nhiều đại biểu qua các nhiệm kỳ phát biểu ý kiến về tình trạng có những vấn đề chuyên sâu, đại biểu thường nắm không vững, thiếu thông tin, thiếu thời gian nghiên cứu thì làm sao mà quyết được và nhấn mạnh đến vai trò của các chuyên gia trong tất cả các hoạt động. Đại biểu sẽ đơn độc trong hoạt động lập pháp, giám sát nếu thiếu các điều kiện hỗ trợ. “Thời gian là vàng bạc”, nhất là trong điều kiện đa số đại biểu kiêm nhiệm như hiện nay, các chuyên gia không chỉ san sẻ gánh nặng chuyên môn, mà còn bù đắp rất nhiều cho sự thiếu thời gian của đại biểu. 1 Tọa đàm với các ĐBQH, An Giang, ngày 13/8/2012.
- Báo cáo nghiên cứu 12 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Đối với nguồn lực chuyên gia bên ngoài Quốc hội, các nhà khoa học có thể tham gia vào bất kỳ một giai đoạn nào của quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, từ việc tham gia phân tích chính sách, đến việc trực tiếp soạn thảo, tham gia đánh giá, thẩm định… Sự tham gia của các nhà khoa học là sự hỗ trợ những luận cứ khoa học cho các ĐBQH trong khi xem xét, thông qua các đạo luật. Đặc biệt là khi xem xét những văn bản có liên quan đến các vấn đề chuyên môn sâu thuộc các lĩnh vực khác nhau. 2. Quyền và trách nhiệm của các chủ thể Hiến pháp, một số văn bản quy phạm pháp luật như: Luật tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nội quy kỳ họp, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH... đã có những quy định liên quan đến việc cung cấp thông tin cho ĐBQH. Trước hết, theo quy định, ĐBQH có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan, cả ở trong và ngoài Quốc hội cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, các văn bản hiện hành quy định ĐBQH được cung cấp những báo cáo, tài liệu có liên quan đến kỳ họp, hoạt động ở các cơ quan của Quốc hội. Theo quy định, ĐBQH kiêm nhiệm phải dành 1/3 thời gian làm nhiệm vụ đại biểu. Tuy nhiên thời gian đó là chưa đủ, đó là chưa nói tới khoảng thời gian giữa hai kỳ họp, số đại biểu này đều phải tập trung vào công tác chính, công tác chuyên môn, thậm chí ngay cả trong kỳ họp đại biểu kiêm nhiệm cũng không dành hết thời gian cho hoạt động của Quốc hội. Các ĐBQH chưa có bộ máy giúp việc riêng, vì vậy, nhiều công việc về thu thập, xử lý thông tin phục vụ cho hoạt động của Quốc hội các đại biểu thường phải tự làm. Thực trạng này đòi hỏi công tác, hoạt động thông tin phải có những hình thức thích hợp giúp cho Đại biểu Quốc hội thu thập, tích lũy thông tin. Từ phương diện cơ quan tham mưu, phục vụ, khuôn khổ pháp luật về công tác thông tin của VPQH đã chuyển từ “nhiệm vụ” (được quy định tại Điều 1 NQ 02 - NQ/UBTVQH9) thành “chức năng” (được quy định tại Điều 1 NQ 417), kéo theo sự thay đổi cơ bản về yêu cầu công tác thông tin đối với VPQH. Nếu là nhiệm vụ thì về cơ bản là do cấp trên giao, còn nếu là chức năng thì về cơ bản là “tự thân vận động”, phải chủ động trong công việc2. Tại kỳ họp giữa năm 2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 27/2012/QH13 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trong đó có một điều riêng (Điều 8) về công tác bảo đảm điều kiện hoạt động của Quốc hội với nhiều nội dung trực tiếp về cung cấp thông tin cho ĐBQH (xem thêm trong hộp dưới đây). Bên cạnh đó, trong các điều khoản khác cũng có khá nhiều quy định liên quan đến công tác thông tin phục vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH. 2 Bùi Ngọc Thanh, Về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.
- Báo cáo nghiên cứu 13 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Hộp 1: Trích Điều 8, Nghị quyết số 27/2012/QH13 2. Cung cấp đầy đủ thông tin về việc chuẩn bị các dự án, đề án, báo cáo trình Quốc hội cho đại biểu Quốc hội; tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm thông qua truyền hình trực tuyến từ trụ sở Quốc hội đến các khu vực và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tổ chức Thư viện Quốc hội, cổng thông tin điện tử Quốc hội để chuyển tải kịp thời thông tin phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội; chuẩn bị điều kiện, cơ sở vật chất - kỹ thuật nâng cao chất lượng Quốc hội điện tử. 3. [...] ban hành chế độ thuê chuyên gia, cung cấp thông tin phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội [...]. 4. Kiện toàn bộ máy cơ quan tham mưu, giúp việc theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng; có sự liên thông, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm không chồng chéo và phân tán nguồn lực. Tổng kết hoạt động của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, xây dựng cơ chế hoạt động hiệu quả, bảo đảm liên thông, gắn kết với Văn phòng Quốc hội trong việc phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội tại Đoàn đại biểu Quốc hội. Trong hoạt động lập pháp, VPQH cần phải giúp cơ quan thẩm tra nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến chuyên gia, lấy ý kiến đại diện các đối tượng được điều chỉnh của mỗi luật và ý kiến nhân dân. Để các hoạt động giám sát có kết quả thiết thực, VPQH phải xây dựng chương trình, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch, điều hòa hoạt động theo địa phương và ngành, lĩnh vực; thông báo cho bộ, ngành, địa phương; tổ chức đoàn giám sát và phục vụ từng cuộc giám sát; tham mưu lựa chọn chuyên đề, xây dựng báo cáo giám sát, thẩm định báo cáo của Chính phủ hoặc bộ, ngành; tập hợp các chất vấn, tham mưu lựa chọn người trả lời, theo dõi các phiên họp và kết thúc có tính tổng hợp các phiên chất vấn. VPQH phải phục vụ Quốc hội quyết định khá nhiều vấn đề trọng đại của đất nước như: nhân sự cấp cao trong bộ máy nhà nước; các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hàng năm và 5 năm; phê chuẩn các điều ước quốc tế, quyết định chủ trương đầu tư các Dự án công trình quan trọng quốc gia... Ngoài ra, còn có công tác dân nguyện cũng đòi hỏi nhiều thông tin để mỗi năm tiếp hàng ngàn lượt người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị; tiếp nhận, xử lý (nghiên cứu, phân loại, chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết) khoảng 17.000 đơn, thư của công dân. Bên cạnh đó, từ năm 2008, Viện Nghiên cứu lập pháp cũng được thành lập với tư cách là cơ quan thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội, có chức năng tổ chức thông tin khoa học để hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Để thực hiện nhiệm vụ này, Viện NCLP triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, công tác cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin3. 3 Hoàng Văn Tú, Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.
- Báo cáo nghiên cứu 14 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Văn phòng đoàn ĐBQH & HĐND với tư cách là cơ quan giúp việc, phục vụ các ĐBQH ở địa phương cũng có trách nhiệm tương tự, theo mảng công việc nói trên4. Đó là: xử lý thông tin bước đầu cho đại biểu, tham mưu cho Đoàn ĐBQH trong việc nghiên cứu, đóng góp ý kiến, lấy ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh; thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về các nội dung trong chương trình giám sát, trong tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo… Hình 1: Khối lượng công việc CBPVQH đảm nhận Ít việc 1% Quá tải 8% Vừa phải 37% Nhiều việc 54% Với trách nhiệm, nhiệm vụ như trên, với khối lượng công việc được giao, để đáp ứng được yêu cầu thông tin cho các đại biểu, 54,6% cán bộ đã phản hồi cho rằng họ đang làm “nhiều việc”, 36,7% cho rằng công việc được giao là mức độ “vừa phải”, 7,8% đưa ý kiến “quá tải”, và chỉ 0,9% cho rằng họ “ít việc” (xem hình trên đây). Liên quan đến phân phối quỹ thời gian cho công việc, công tác xử lý thông tin được các CBPVQH đưa lên hàng đầu, trung bình mỗi cán bộ dành 44,55% thời gian của mình cho công tác này, tiếp theo sau đó là tìm kiếm thông tin (25,26%), và nâng cao năng lực bản thân (20,11%). 3. Nhu cầu thông tin của ĐBQH Mục này trình bày quan niệm về nhu cầu thông tin của ĐBQH; phân tích nhu cầu thông tin của ĐBQH trên các phương diện: Phạm vi, dung lượng thông tin cần cho hoạt động của ĐBQH nói chung và trong từng lĩnh vực; tính chất của thông tin. Nhu cầu này được đánh giá từ các góc độ khác nhau: từ quan điểm của ĐBQH, cán bộ phục vụ, chuyên gia. 3.1. Quan niệm về nhu cầu thông tin của ĐBQH Nhu cầu thông tin của ĐBQH hàm ý nội dung thông tin, tính chất thông tin, dung lượng, phạm vi thông tin, các cách thức cung cấp thông tin mà ĐBQH thấy cần thiết. Hay nói cách khác, đại biểu cần thông tin gì, bao nhiêu, thông tin như thế nào, qua những kênh nào để phục vụ cho hoạt động đại biểu. Đó là thông tin phục vụ cho hoạt động đại diện trong cơ quan quyền lực và thực hiện các chức năng của QH: lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Như vậy, nói chung, phạm vi, dung lượng thông tin mà đại biểu cần là rất nhiều, rất rộng và chuyên sâu, bao trùm hầu như mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội… 4 Ngô Văn Minh, Thực trạng, cách thức tổ chức giúp việc của Văn phòng Đoàn ĐBQH ở Việt Nam và một số giải pháp, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.
- Báo cáo nghiên cứu 15 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội “ĐBQH cần rất nhiều thông tin khi xem xét, thông qua một vấn đề nào đó được đưa ra Quốc hội; có hiểu thì mình mới bỏ phiếu cho đúng, không thì rất tai hại” (ĐBQH phát biểu tại tọa đàm ở Quảng Trị, 18/7/2012) Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, khái niệm nhu cầu thông tin có thể giới hạn trong những nội dung đang được xem xét, thảo luận hoặc đang được giám sát. Như một cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND so sánh, “thông tin như món ăn, đại biểu cần món gì thì “gọi” để được cung cấp”; hoặc một cán bộ khác nhận xét, có những thông tin đến tại kỳ họp, ĐBQH mới có nhu cầu, hoặc tùy từng đại biểu thật sự cần thông tin để chuẩn bị bài phát biểu5. Như vậy, mỗi ĐBQH có mối ưu tiên, quan tâm riêng cho từng thời điểm, từng hoạt động, cho nên nhu cầu thông tin ở đây cũng được gắn với các ưu tiên, mối quan tâm đó. Trong khái niệm nhu cầu thông tin, có điểm khác nhau giữa các nhóm ĐBQH. Vì vậy, cần phân nhóm ĐBQH và nhu cầu thông tin, từ đó đáp ứng thông tin cho đúng, trúng yêu cầu của đại biểu. Ví dụ, cần phân biệt nhóm ĐBQH mới tham gia Quốc hội lần đầu và đại biểu tái cử. Đối với đại biểu mới tham gia Quốc hội lần đầu (thường chiếm 2/3 số lượng ĐBQH), một loại thông tin hết sức quan trọng đối với nhóm đại biểu này là những kỹ năng, kiến thức cơ bản, nhất là kiến thức, kỹ năng liên quan đến cơ quan đại diện quyền lực cao nhất, đến chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của QH để giúp đại biểu thực hiện nhiệm vụ đại biểu ngay từ các hoạt động của kỳ họp thứ nhất và các kỳ họp tiếp theo đó. Đối với ĐBQH tái cử lại có yêu cầu những thông tin có chiều sâu, mang tính chuyên đề hơn; thông tin tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận... Hoặc có thể chia các nhóm đại biểu thành nhóm có chuyên môn về lập pháp và đại biểu có chuyên môn khác… Nếu ĐBQH chỉ thuần túy có kiến thức luật học thì cần thông tin cả cơ bản và chuyên sâu về các lĩnh vực khác đang được xem xét; trong khi đó những ĐBQH có chuyên môn khác như kinh tế - xã hội, ngoại giao, quốc phòng, an ninh... thì cần nhiều thông tin hơn về pháp luật. Nói cho cùng, ĐBQH cần thông tin là để đáp ứng nhu cầu, “đặt hàng” của cử tri. Cử tri không hẳn bầu những đại biểu biết nhiều, mà bầu những đại biểu đại diện tốt hơn cho cử tri và cho lợi ích của quốc gia, biến thông tin mình được cung cấp, mình biết thành những hành động đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của cử tri. Như vậy, một trong những khía cạnh hết sức quan trọng trong nhu cầu thông tin của ĐBQH là nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của đại đa số cử tri và “sợi dây liên hệ” gắn kết các tâm tư, nguyện vọng, mong muốn đó với các chính sách, quy định của pháp luật do Quốc hội xem xét, thảo luận và quyết định. ĐBQH khóa XIII Lê Như Tiến: “Không chỉ am hiểu luật pháp, kiến thức mà ĐBQH phải trở thành người biết hòa cùng nhịp với tiếng nói cử tri, tiếng nói nhân dân. Đây là bài học sâu sắc và thấm thía cho các đại biểu dân cử. Nếu chỉ đóng cửa phòng, chăm chăm đọc các sách vở kinh viện chứ không lo đi sâu đi sát đời sống người dân thì không thể nắm bắt được trúng tâm tư, nguyện vọng tha thiết nhất của dân”. 5 Tọa đàm về nhu cầu thông tin phục vụ hoạt động của ĐBQH, Hạ Long, Ngày 14 tháng 8 năm 2012.
- Báo cáo nghiên cứu 16 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Khái niệm nhu cầu thông tin của ĐBQH còn bao hàm khoảng cách thiếu hụt giữa những gì đại biểu cần để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và thực trạng thông tin mà đại biểu đang có. Theo một số nghiên cứu, nhu cầu đối với thông tin độc lập, khách quan dường như lớn hơn ở các nghị viện các nước đang phát triển, nơi mà chính phủ là chủ thể kiểm soát thông tin liên quan đến việc quyết định chính sách, còn các nguồn thông tin ngoài chính phủ thì ít ỏi6. Ở những nước đó, do thiếu thông tin khách quan nên khả năng, năng lực của nghị viện và các nghị sỹ bị hạn chế trong việc áp đặt trách nhiệm giải trình lên chính phủ, dẫn đến sự mất cân bằng về quyền lực giữa cơ quan lập pháp và hành pháp. Việc đối chiếu với Quốc hội Việt Nam cũng cho thấy có thực trạng như vậy. Thực tế cho thấy trước những vấn đề lớn, nhiều ĐBQH rất lúng túng vì thiếu cơ sở thông tin, không nắm được đầy đủ vấn đề. Đây chỉ là ví dụ điển hình về khoảng thiếu hụt về thông tin của ĐBQH để minh họa cho khái niệm nhu cầu thông tin; những khoảng trống đó sẽ được phân tích kỹ hơn ở các phần sau. 3.2. Phạm vi, dung lượng thông tin cần cho ĐBQH Việc ban hành chính sách của Quốc hội có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội do đó việc cung cấp thông tin cho ĐBQH cần bao quát ở phạm vi rộng (trong nước và trên thế giới), cụ thể của từng trường hợp, từng nơi, từng khu vực; không chỉ cần thông tin về một lĩnh vực mà cần thông tin về nhiều lĩnh vực. Như khảo sát này cho thấy, hơn 76% cán bộ đồng ý rằng yêu cầu cung cấp thông tin của đại biểu rất nhiều và đa dạng. Nhu cầu thông tin theo các ngành, lĩnh vực Nhìn một cách tổng thể, thông tin để giúp Quốc hội, Đại biểu Quốc hội hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ liên quan đến tất cả các ngành, các lĩnh vực. Tuy nhiên, như đã nhấn mạnh khi bàn về khái niệm nhu cầu thông tin ở trên, mỗi ĐBQH có mối quan tâm riêng. Trong các cuộc tọa đàm, nhiều đại biểu cho biết, họ quan tâm nhiều hơn đến mảng kinh tế - xã hội. Cụ thể hơn, theo kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi đối với ĐBQH, 6 ngành/ lĩnh vực được các đại biểu quan tâm nhất lần lượt là: Kinh tế - Tài chính - Ngân sách (64,7% số đại biểu trả lời phiếu hỏi); Nông nghiệp và Giáo dục đào tạo (cùng đạt 59,2%); Đất đai - Xây dựng - Quy hoạch (58,1%); Y tế - Chăm sóc sức khỏe và Lao động - Việc làm (40,6%) ; còn những ngành ít được các đại biểu quan tâm nhất bao gồm Đối ngoại (8,1%), Tôn giáo (8,5%), Văn hóa du lịch thể thao (9,9%). Qua đó, có thể nhận biết phần nào nhu cầu thông tin của ĐBQH theo từng lĩnh vực, ngành nói trên. Một điểm đáng chú ý là, phần đông các ĐBQH chưa quan tâm đúng mức vấn đề văn hóa trong phân tích chính sách; trong lúc văn hóa là yếu tố đảm bảo tính đúng đắn, toàn diện, bền vững của chính sách, pháp luật. Môi trường cũng là vấn đề quan trọng nhưng chưa được đại biểu quan tâm nhiều. Kết quả trả lời phiếu hỏi của ĐBQH cũng giúp chúng ta đối chiếu thêm, liệu các mối quan tâm đó có phản ánh đúng nhu cầu thông tin của ĐBQH phục vụ cho hoạt động tại nghị trường hay không. Đề cập đến những lý do khiến đại biểu quan tâm đến các ngành/lĩnh vực kể trên, phần lớn đều cho biết đây là những vấn đề được cử tri (87,9%) hay cá nhân Đại biểu (66,2%) quan tâm; 60,7% số Đại biểu được khảo sát đề cập đến lý do công việc ở Quốc hội, và 49,3% cho biết mối quan tâm thuộc chuyên môn của Đại biểu. 6 IPU, Report from the Conference: Informing Democracy: Building capacity to meet parliamentarians’ information and knowledge needs, Geneva, 2009, p.7.
- Báo cáo nghiên cứu 17 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Như vậy, các dữ liệu cho thấy, đại biểu quan tâm nhiều hơn đến các lĩnh vực, ngành kể trên vì trực tiếp xuất phát từ vai trò, chức năng của Quốc hội như vai trò đại diện (vì theo sự quan tâm của cử tri); chức năng lập pháp, giám sát, quyết định (vì lý do công việc của Quốc hội). Kết quả này cũng trùng với ý kiến phát biểu tại các cuộc tọa đàm, theo đó, đại biểu có nhu cầu nhiều về thông tin chủ yếu là để hoạt động ở Quốc hội và để giữ mối liên hệ với cử tri. Các lý do khác như mối quan tâm cá nhân, chuyên môn của đại biểu cũng có thể có một phần gắn với hoạt động tại nghị trường. Chẳng hạn, đại biểu có ý muốn mở rộng thêm thông tin về các vấn đề trong dự luật liên quan đến chuyên môn, ngành, địa phương. Nhu cầu thông tin theo các chức năng của Quốc hội Nhu cầu thông tin của ĐBQH có thể được xác định theo khối lượng hoạt động của Quốc hội trong từng chức năng. Trên phương diện này, các con số thống kê, ý kiến phát biểu của ĐBQH cho thấy, trong các hoạt động của Quốc hội, lập pháp chiếm nhiều thời gian nhất, sau đó đến giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. (xem thêm các bảng dưới đây). Bảng 3: Thời gian các phiên họp tổ, đoàn năm 20127 Nội dung hoạt động Số phiên họp Tỷ lệ Lập pháp 12,5 73,5 % Giám sát 1 5,9 % Quyết định các vấn đề quan trọng 3,5 20,6 % Tổng thời gian hoạt động 17 100% Bảng 4: Thời gian các phiên họp toàn thể năm 20128 Nội dung hoạt động Số phiên họp Tỷ lệ Lập pháp 47 55,3 % Giám sát 19,5 22,94 % Quyết định các vấn đề quan trọng 16,5 19,4 % Hoạt động khác (khai mạc, bế mạc, lễ nghi) 2 2,36 % Tổng thời gian hoạt động 85 100% Trong năm 2012, tại hai kỳ họp, hoạt động lập pháp chiếm hơn 55% tổng thời gian của các phiên toàn thể và 73% thời gian các phiên họp tổ. Thời lượng dành cho hoạt động lập pháp của những năm gần đây cũng tương tự như vậy. Hiện tại mỗi năm, trong lĩnh vực lập pháp, mỗi đại biểu phải tìm hiểu trung bình khoảng 20 - 25 dự luật để cho ý kiến và thông qua9. 7 Trung tâm TT, TV, NCKH, Hoạt động của Quốc hội trong năm 2012 qua các số liệu thống kê, Hà Nội, 2013. 8 Trung tâm TT, TV, NCKH, Hoạt động của Quốc hội trong năm 2012 qua các số liệu thống kê, Hà Nội, 2013. 9 Quốc hội khóa XI thông qua 84 dự án luật, khóa XII: 67 dự án. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc
- Báo cáo nghiên cứu 18 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Thậm chí, có những năm như 2012 Quốc hội đã thảo luận tại hội trường 44 văn bản có chứa quy phạm pháp luật. Kèm theo đó là các hoạt động thẩm tra tại Hội đồng dân tộc và các Ủy ban, các cuộc lấy ý kiến ĐBQH và nhân dân tại địa phương… Nghĩa là ít nhất đại biểu phải đọc hàng ngàn trang dự thảo, tờ trình, báo cáo thẩm tra và tài liệu tham khảo với những vấn đề khó, chuyên sâu, phạm vi rộng. Về các chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, các con số thống kê cũng có thể cho thấy cường độ, dung lượng hoạt động của Quốc hội theo các chức năng này, qua đó phần nào phản ánh nhu cầu thông tin của ĐBQH. Chẳng hạn, trong năm 2012, có 19,5 phiên họp toàn thể được dành cho hoạt động giám sát tại kỳ họp, chiếm khoảng 23% tổng thời gian các phiên toàn thể; nhưng chỉ có 1 phiên họp tổ dành cho hoạt động giám sát. Trong bốn năm 2009 - 2012, tỷ lệ thời gian Quốc hội dành cho hoạt động giám sát tại kỳ họp có xu hướng ổn định dần ở mức hơn 20%. Ngoài ra, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH còn tiến hành các hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp. Khối lượng hoạt động dành cho chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước cũng tương đương như đối với giám sát. Trong năm 2012, có 16,5 phiên họp toàn thể được dành cho hoạt động này, chiếm 19% tổng thời gian của các phiên họp toàn thể; 3,5 phiên họp tổ, chiếm khoảng 21% tổng thời gian dành cho họp tổ. Căn cứ vào các con số này, có thể nói, về tổng thể, phạm vi, dung lượng thông tin cần cho ĐBQH trong hoạt động giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ít hơn khá nhiều so với thông tin cần cho hoạt động lập pháp. Tuy nhiên, đây cũng là loại công việc quan trọng với khối lượng thông tin đồ sộ đối với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và dĩ nhiên là đối với cả đại biểu quốc hội và các cơ quan phục vụ Quốc hội, đại biểu quốc hội. Thậm chí trong một số trường hợp cụ thể như các phiên thảo luận về kinh tế - xã hội, chất vấn, phạm vi thông tin cần cho ĐBQH lại có thể rất rộng, bao phủ nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Bởi lẽ các phiên đó thảo luận hoặc hỏi - đáp về hầu hết mọi vấn đề đang đặt ra trong xã hội và Quốc hội. 3.3. Nhu cầu đối với các hình thức cung cấp thông tin Nghiên cứu này cũng tìm hiểu nhu cầu của ĐBQH đối với các hình thức cung cấp thông tin qua đánh giá của đại biểu về sự cần thiết của một số hình thức, cụ thể là các văn bản và báo cáo cần thiết để phục vụ cho hoạt động của Quốc hội theo từng chức năng. Trong xây dựng pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng Về các hình thức cung cấp thông tin cho ĐBQH trong xây dựng pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhìn chung, các văn bản và báo cáo thường được đánh giá cao, ngoài Bản tin kinh tế xã hội nước ngoài, đa phần các báo cáo đều được hơn 80% Đại biểu đánh giá ở mức độ “Cần thiết”, và “Rất cần thiết”. Mức độ “Rất cần thiết” được khoảng 30 - 40% số Đại biểu tán thành, tùy thuộc vào từng loại hình tài liệu cụ thể. (xem thêm Biểu đồ dưới đây). hội khóa XII gồm 85 dự án luật, 06 dự án pháp lệnh thuộc Chương trình chính thức và 38 dự án luật, 03 dự án pháp lệnh thuộc chương trình dự bị, chưa kể các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật.
- Báo cáo nghiên cứu 19 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội Phân tích chi tiết hơn cho thấy, loại hình báo cáo phân tích, đánh giá và dự báo chuyên sâu rất được đại biểu coi trọng, với 53,4% và 40,8% số Đại biểu cho rằng những báo cáo này là “Rất cần thiết” và “Cần thiết”. Các loại tài liệu khác được đánh giá “rất cần thiết” và “cần thiết” với tỷ lệ cao gồm có: Số liệu thống kê (48,6% và 46,2% số ĐBQH), văn bản pháp luật liên quan (42,3% và 53,4%), tổng hợp ý kiến ĐBQH (38,5% và 52,8%). Biểu đồ 1. ĐBQH đánh giá mức độ cần thiết của các hình thức cung cấp thông tin trong 120 lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng 100% 10 24.5 17.7 33.7 30.3 27.7 80% 42.3 38.5 53.4 48.6 60% 60 66.1 57.9 61.3 63.5 40% 59.7 Rất cần thiết 52.8 46.2 53.4 40.8 Cần thiết 20% 29.6 7.5 11.4 9.9 12 15.7 Không cần lắm 0% 5.7 4 4 6.2 Không cần Đối chiếu với nhu cầu của đại biểu đối với thông tin đã qua xử lý đã đề cập ở phần trên, có điều đáng chú ý là ba loại tài liệu này hầu như đang ở dạng chưa được xử lý nhiều bởi cơ quan cung cấp thông tin, nhất là văn bản pháp luật liên quan là thông tin “thô”. Tuy nhiên, chúng vẫn được ĐBQH coi trọng, có lẽ vì đây là những thông tin cơ bản, nền tảng để ĐBQH làm xuất phát điểm để tự phân tích, so sánh. Bên cạnh đó, ĐBQH đánh giá cao sự cần thiết đối với tài liệu tổng hợp ý kiến của các đồng nghiệp vì một phần do nguyên tắc hoạt động tập thể, quyết định theo đa số của Quốc hội, phần khác trong các ý kiến đó thông tin cũng đã qua một lần “chắt lọc”, “tinh chế” bởi các ĐBQH khác, nhất là các đại biểu am hiểu sâu về vấn đề đang được xem xét tại Quốc hội. Hơi ngược với xu hướng trên, không nhiều ĐBQH đánh giá ở mức “rất cần thiết” đối với hai dạng tài liệu: báo cáo điều tra dư luận xã hội (33,7%) và báo cáo phân tích, so sánh với chính sách, pháp luật nước ngoài (30,3%), mặc dù đây là những dạng tài liệu cung cấp thông tin chuyên sâu, đã qua xử lý. Việc không coi trọng báo cáo phân tích, so sánh với chính sách, pháp luật nước ngoài chủ yếu cũng vì đại biểu có quan niệm công việc này thuộc trách nhiệm chính của cơ quan soạn thảo. Mặt khác, việc tiếp cận thông tin loại này gặp không ít khó khăn, do có sự khác biệt thể chế nên không dễ nắm bắt trong lúc quỹ thời gian bị hạn chế. Không có sự khác biệt nhiều giữa hai nhóm Đại biểu chuyên trách (ĐBCT) và Đại biểu kiêm nhiệm (ĐBKN) trong việc đánh giá đối với thông tin thông qua các văn bản và báo
- Báo cáo nghiên cứu 20 nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội cáo nói trên. Trong đó, cả hai nhóm đều bày tỏ sự không cần thiết tương đối cao (đều xấp xỉ 43%) đối với Bản tin tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội và 30% và 34% tương ứng đối với Bản tin chuyên đề theo lĩnh vực. Đa số cả hai nhóm (trên 95%) coi trọng tất cả những văn bản còn lại ở mức độ “Rất cần thiết” và “Cần thiết”. Trong đó, văn bản Tóm tắt kết quả kỳ họp Quốc hội và Tóm tắt giải quyết kiến nghị của cử tri được cho là rất cần thiết ở mức độ cao nhất so với các văn bản và báo cáo còn lại vì đây là những thông tin rất cần thiết cho hoạt động tiếp xúc cử tri sau kỳ họp. Trong hoạt động giám sát Mức độ quan trọng của các tài liệu được cung cấp cho công tác giám sát được đánh giá rất cao. Ngoại trừ Bản tin tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội nước ngoài và Bản tin chuyên đề theo lĩnh vực, hơn 90% Đại biểu đều cho rằng các tài liệu còn lại là rất quan trọng. Tỷ lệ Đại biểu cho rằng các tài liệu được cung cấp trong hoạt động giám sát là “Rất cần thiết” cũng cao hơn trong hoạt động lập pháp. Đối với một số tài liệu cụ thể như Tóm tắt quy định pháp luật, chính sách về nội dung giám sát; Tổng hợp các vấn đề liên quan đến nội dung giám sát; Báo cáo phân tích, đánh giá chuyên sâu, xấp xỉ ½ số Đại biểu đều đánh giá đây là những tài liệu “Rất cần thiết” (xem hình dưới). Các dạng tài liệu này đều có tính chất chuyên sâu, hoặc đã qua xử lý cho cô đọng, súc tích, trực diện hơn. Như vậy, đánh giá của ĐBQH về sự cần thiết của các tài liệu này trong hoạt động giám sát dường như có sự nhất quán hơn việc đánh giá đối với sự cần thiết của các tài liệu trong hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng. Biểu đồ 2. Tỷ lệ ĐBQH đánh giá mức độ cần thiết của các hình thức cung cấp thông tin trong hoạt động giám sát 100% 8.0 90% 25.2 19.6 36.6 36.1 32.9 30.7 80% 46.9 51.4 49.6 70% 60% 57.0 50% 57.6 40% 61.0 64.8 55.1 57.5 61.4 30% Rất cần thiết 45.90 42.6 49.2 20% 32.5 22.0 Cần thiết 10% 1.50 7.8 3.8 7.9 6.0 5.6 8.0 9.6 0% Không cần lắm Không cần Vai trò của các tài liệu này đối với nhóm Đại biểu chuyên trách và kiêm nhiệm cũng không có khác biệt quá lớn; chủ yếu sự khác biệt diễn ra đối với Báo cáo phân tích đánh giá chuyên sâu, Số liệu thống kê và Bản tin chuyên đề. 56,3% số ĐBCT cho rằng Báo cáo phân tích đánh giá chuyên sâu là tài liệu “Rất quan trọng”, trong khi chỉ 47,1% ĐBKN đánh giá
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phương pháp viết nghiên cứu đề cương nghiên cứu khoa học
18 p | 3251 | 997
-
Chương 2: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức lãnh thổ
11 p | 511 | 218
-
Báo cáo Tổng kết công tác thanh tra năm 2010 gắn với đánh giá thực hiện công tác thanh tra giai đoạn 2006- 2010
11 p | 470 | 83
-
Đánh giá cải cách hành chính nhà nước
0 p | 224 | 68
-
Lập dự án miễn phí - Mở rộng đầu tư khu du lịch Sandhills
73 p | 235 | 67
-
SO SÁNH LÝ LUẬN GIÁ TRỊ CỦA ADAM SMITH VÀ LEON WALRAS
2 p | 535 | 63
-
Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý đầu tư công trong quá trình tái cấu trúc đầu tư công
7 p | 147 | 34
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ"
11 p | 163 | 25
-
Phương pháp và công cụ thu thập số liệu
49 p | 123 | 15
-
UBND HUYỆN ĐỒNG PHÚ CỘNG HOÀ XÃ BÁO CÁO LỊCH CÔNG TÁC TUẦN Tuần lễ 32 HUYỆN ĐỒNG PHÚ
10 p | 119 | 9
-
UBND HUYỆN ĐỒNG PHÚ CỘNG HOÀ XÃ BÁO CÁO LỊCH CÔNG TÁC TUẦN Tuần lễ 33 HUYỆN ĐỒNG PHÚ
11 p | 142 | 7
-
UBND HUYỆN ĐỒNG PHÚ CỘNG HOÀ XÃ BÁO CÁO LỊCH CÔNG TÁC TUẦN Tuần lễ 31 HUYỆN ĐỒNG PHÚ
9 p | 171 | 7
-
UBND HUYỆN ĐỒNG PHÚ CỘNG HOÀ XÃ BÁO CÁO LỊCH CÔNG TÁC TUẦN Tuần lễ 24+25 HUYỆN ĐỒNG PHÚ
13 p | 110 | 6
-
Tiểu luận kinh tế chính trị P162
20 p | 112 | 5
-
Tiểu luận kinh tế chính trị P144
16 p | 91 | 5
-
Khảo sát nhu cầu đào tạo của các tổ chức xã hội dân sự: Phát triển tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng xây dựng chính sách ở Việt Nam
89 p | 47 | 5
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu kinh tế: Chương 8 - TS. Kiều Thanh Nga
26 p | 13 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn