intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bảo vệ người nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trước biến đổi khí hậu qua bảo hiểm nông nghiệp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

12
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết khái quát những ảnh hưởng của BĐKH đối với sản xuất nông nghiệp và các rủi ro đối với sinh kế của người nông dân trong điều kiện BĐKH. Đồng thời, bài viết tóm lược các lợi ích của BHNN trong mối quan hệ của ba nhóm chủ thể Nhà nước - Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) - Nông hộ; từ đó, đề xuất giải pháp thúc đẩy thị trưởng BHNN nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bảo vệ người nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trước biến đổi khí hậu qua bảo hiểm nông nghiệp

  1. BẢO VỆ NGƯỜI NÔNG DÂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU QUA BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP ThS. Phạm Thị Tuyết Giang Khoa Khoa học xã hội - Trường Đại học Đồng Tháp Tóm tắt Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những thách thức lớn của nhân loại trong thế kỷ 21. BĐKH đã, đang và sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến mọi mặt của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nhất là vấn đề bảo đảm sinh kế của người nông dân và phát triển nông nghiệp bền vững. Để giải quyết các vấn đề này, việc khơi dậy và phát triển hệ thống bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) hiệu quả là nền tảng quan trọng để đảm bảo sự thịnh vượng và tăng trưởng xanh của Vùng. Bài viết khái quát những ảnh hưởng của BĐKH đối với sản xuất nông nghiệp và các rủi ro đối với sinh kế của người nông dân trong điều kiện BĐKH. Đồng thời, bài viết tóm lược các lợi ích của BHNN trong mối quan hệ của ba nhóm chủ thể Nhà nước - Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) - Nông hộ; từ đó, đề xuất giải pháp thúc đẩy thị trưởng BHNN nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL trong thời gian tới. Từ khóa: Bảo hiểm nông nghiệp, biến đổi khí hậu, nông dân, Đồng bằng sông Cửu Long 1. Đặt vấn đề Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có thế mạnh về phát triển kinh tế nông nghiệp. Đây là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất Đông Nam Á, với các điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. ĐBSCL gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, diện tích tự nhiên 4.092,2 ha, trong đó, 2.575,2 ha đất dùng cho sản xuất nông nghiệp, chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả Vùng và gần 17,5 triệu dân sinh sống, chiếm 13% diện tích tự nhiên và 18% dân số cả nước (Theo thông tin từ trang web của Tổng cục Thống kê). Ngoài ra, với hơn 700 km bờ biển, trên 360 nghìn km2 vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế, cùng với mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, hằng năm bồi đắp lượng lớn phù sa dọc Sông Tiền và Sông Hậu. Với lợi thế tài nguyên nông nghiệp, ĐBSCL góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một trong những nhà xuất khẩu nông sản lớn trên thị trường thế giới. Hằng năm, ĐBSCL sản xuất trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây; xuất khẩu 95% lượng gạo và 60% lượng cá của cả nước (Hoàng Mẫn, 9/2021). Điều này càng cho thấy ĐBSCL không chỉ giữ vai trò đảm bảo an ninh lương thực quốc gia 417
  2. mà còn là vùng kinh tế trọng điểm, có vị trí quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặc dù vậy, hiện nay, trước những tác động của BĐKH và các hoạt động nhân tai đã, đang và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của vùng ĐBSCL. Những yếu tố này cũng đang đe dọa đến sự phát triển bền vững nông nghiệp của Vùng trong thời gian tới. 2. Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp và rủi ro trong sinh kế của người nông dân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long 2.1. Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long Theo Chương trình Phát triển Liên hợp quốc – UNDP (2007) và Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), BĐKH có những tác động tiềm tàng đến nhiều lĩnh vực, khu vực và các cộng đồng khác nhau. Theo đó, về kinh tế bao gồm các ngành: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản, Năng lượng, Giao thông vận tải, Công nghiệp, Xây dựng và Du lịch; về xã hội: sức khỏe con người; về môi trường bao gồm: tài nguyên nước, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, hệ sinh thái và đa dạng sinh học, chất lượng không khí. Những hậu quả của BĐKH là thách thức nghiêm trọng đối với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, mục tiêu sinh thái và phát triển bền vững của đất nước nói chung, trong đó có vùng ĐBSCL. Trong những năm gần đây, ĐBSCL là một trong những vùng chịu sự tác động nghiêm trọng của BĐKH, từ đời sống của người dân đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Do phần lớn sinh kế ở đây tập trung vào các hoạt động nông nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản nên những thay đổi bất thường của thời tiết, khí hậu cũng khiến cho sinh kế của Vùng bị ảnh hưởng. Điều đáng lo ngại hơn, BĐKH đã tác động mạnh đến đời sống của nhóm người nông dân, đặc biệt là người nghèo ở vùng ĐBSCL. Những tác động này sẽ ngày nghiêm trọng hơn nếu không kịp thời có những chiến lược ứng phó hiệu quả với BĐKH. BĐKH đã và đang đặt ra những vấn đề về sinh kế, an ninh lương thực, năng lượng và nguồn nước cho cả nước nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, BĐKH và những tác động của nó đến ĐBSCL ngày càng khó lường, diễn ra nhanh, mạnh hơn so với dự báo. ĐBSCL phải đối mặt với tình trạng sụt lún đất, xói lở bờ sông - bờ biển, thiếu nước ngọt, xâm nhập mặn, hạn hán ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại nặng nề và tiếp tục đe dọa lớn đến sản xuất nông nghiệp, đời sống của người dân trong Vùng. Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự đến năm 2100, nếu mực nước biển dâng cao thêm 01m thì khoảng 40% diện tích toàn Vùng bị ngập. Lũ lụt sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng ĐBSCL bị ngập lụt không còn khả năng canh tác, kéo theo những ảnh hưởng sinh kế của 55% người dân trong Vùng (Nguyễn Thế Chinh, 6/2020). Những ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đối với tự nhiên và sinh kế người dân là thách thức rất lớn đối với Chính phủ, chính quyền địa phương và gần 20 triệu dân sinh sống tại Vùng. Có thể nêu ra một số ảnh hưởng sau: 418
  3. Thứ nhất, BĐKH gây ra những thiệt hại nặng nề cho ngành Nông nghiệp ĐBSCL, do tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn. Vào khoảng cuối năm 2015 và đầu năm 2016, ĐBSCL chịu đợt khô hạn và xâm nhập mặn lớn nhất từ trước tới nay, làm giảm tốc độ tăng trưởng, năng suất, diện tích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, ước thiệt hại 6 tháng đầu năm 2016 gần 4.700 tỷ đồng (Hà Văn, 2016). Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hạn hán, xâm nhập mặn đã gây thiệt hại cho tổng diện tích lúa là 58.400 ha, bằng 14% so với diện tích bị ảnh hưởng năm 2015 - 2016; diện tích cây ăn trái bị thiệt hại là 25.120 ha, bằng 88% so với diện tích bị ảnh hưởng năm 2015 - 2016; có tổng cộng khoảng 96.000 hộ dân gặp khó khăn trong thời gian diễn ra hạn hán, xâm nhập mặn, bằng 54% mức ảnh hưởng năm với năm 2015 - 2016 (Quý Trọng - Tuấn Anh, 12/2021). Trước đây, tình trạng này chỉ phổ biến ở một vài nơi thì hiện nay có xu hướng ngày càng mở rộng ra các tỉnh trong vùng ĐBSCL, trong đó 6 tỉnh chịu thiệt hại nặng nhất là Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng và Trà Vinh. BĐKH đã làm cho triều cường, mực nước biển ở ĐBSCL dâng cao hơn so với 5 năm trước đây, sự dâng cao của mực nước biển đã làm sạt lở bờ biển, gây ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước. Bên cạnh đó, cũng trong báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, do ảnh hưởng của BĐKH, cụ thể là hiện tượng El-Nino, nên tình trạng xâm nhập mặn xuất hiện ở vùng ĐBSCL sớm hơn so với cùng kỳ trung bình hàng năm gần hai tháng, nước mặn từ biển vào sâu trong đất liền hơn 90 km; trong đó, 7 tỉnh ven biển gồm: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang và Kiên Giang chịu thiệt hại nghiêm trọng nhất. Nước mặn xuyên qua tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, xâm lấn tới thành phố Vị Thanh (Hậu Giang). Xâm nhập mặn gây hại nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất của người dân với tổng diện tích thiệt hại là 126.798 ha; trong đó, 78.137 ha thiệt hại trên 70% năng suất (chiếm 62%), 45.740 ha thiệt hại từ 30% - 70% năng suất (chiếm 36%), 2.921 ha thiệt hại dưới 30% năng suất (chiếm 2%). Nhiều vùng nuôi tôm bị dịch bệnh, tôm chết do nắng nóng kéo dài, thiếu nước ngọt bổ sung; nhiều vườn cây ăn trái bị khô héo; nhiều khu rừng đang trong mức độ cảnh báo cháy cao (cấp 4, 5). Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã dự báo, đến năm 2030, khoảng 45% diện tích toàn vùng ĐBSCL có thể bị nhiễm mặn nếu các đập thủy điện đầu nguồn sông Mê Kông tích nước không cung cấp đủ nước để đẩy mặn ra biển (Nguyễn Thế Chinh, 6/2020). Thứ hai, BĐKH dẫn đến sự phát triển không bền vững của ngành Nông nghiệp vùng ĐBSCL, làm thiệt hại lợi ích của các thế hệ tương lai. Trước sức hút của nguồn siêu lợi nhuận từ hoạt động khai thác tự nhiên (khai thác đất tự nhiên, hoạt động nuôi trồng thủy sản) để thỏa mãn các nhu cầu vật chất ngày càng tăng của xã hội; hoặc cũng có thể do sự phiến diện của những chiến lược, chính sách phát triển kinh tế trước đây, chính quyền, người dân đã vì lợi ích trước mắt mà có những hành vi tác động tiêu cực đến tính bền vững của ngành 419
  4. Nông nghiệp trong Vùng. Chẳng hạn, nông dân tự phát áp dụng những hình thức canh tác mới khi chưa được hướng dẫn/khuyến nghị từ các nhà khoa học/chính quyền địa phương, mặc dù đây là dấu hiệu tích cực cho thấy sự chủ động của người dân trong ứng phó với BĐKH, nhưng về lâu dài, điều này sẽ tác động tiêu cực đến tự nhiên và dẫn đến những hệ quả khó lường trong tương lai. Lý do là bởi với bất cứ việc áp dụng thực hành trồng trọt hoặc công nghệ mới nào nhưng không đáp ứng được tiêu chí “về kinh tế và sinh thái” (ngay cả việc đưa cây trồng có năng suất cao, kháng cỏ dại hay dịch hại (một số giống cây trồng biến đổi gen GMOs)), thì vẫn có thể phát sinh điều bất lợi mà chưa được đánh giá hết để kiểm soát (Khuất Đăng Long, 2013). Khi đó, những đối tượng dễ bị tổn thương từ việc làm này chính là nông dân nghèo, người già, trẻ em và phụ nữ, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer, dân tộc Chăm. 2.2. Rủi ro trong sinh kế của người nông dân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long Sinh kế là hoạt động kiếm sống của con người thông qua việc sử dụng các nguồn lực (con người, tự nhiên, vật chất, tài chính, xã hội...) trong một môi trường dễ bị tổn thương có sự quản lý của các tổ chức, định chế, chính sách. Sinh kế được coi là bền vững “khi hoạt động sinh kế thích ứng, hoặc tránh được các tác động tiêu cực từ môi trường dễ bị tổn thương, đồng thời bảo đảm duy trì, phát triển được các nguồn lực trong cả hiện tại và tương lai” (Chambers, R. và Conway, G.R, 1992). Ở ĐBSCL, nông hộ là đơn vị hạt nhân sản xuất phần lớn nông sản cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Do đó, nông hộ đóng vai trò then chốt đối với kinh tế nông nghiệp trong việc đảm bảo an ninh lương thực, nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), tạo việc làm và thu nhập cho lao động nông thôn và nền kinh tế nói chung (USAID, 2009). Vì vậy, việc hiểu rõ thực trạng đời sống và sản xuất của nông hộ để từ đó có giải pháp phù hợp cho sinh kế bền vững, góp phần tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng kinh tế là điều quan trọng. Theo một nghiên cứu của Brooks và Loevinsohn (2011), kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới để hạn chế những ảnh hưởng của BĐKH đến sinh kế của người dân, thường tập trung vào các chính sách sau: (i) đa dạng hóa hoạt động sản xuất nông nghiệp để tạo tiền đề cho sự linh động và mềm dẻo trong việc thích ứng với BĐKH; (ii) tăng cường năng lực ra quyết định cho mọi đối tượng ở tất cả các cấp độ (chính quyền trung ương, địa phương, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và hộ gia đình); (iii) nhanh chóng thực thi chính sách bảo hiểm thu nhập cho các đối tượng sinh sống dựa vào nông nghiệp. Ở ĐBSCL, lúa, thủy sản, trái cây là những nông sản chủ lực được sản xuất chủ yếu bởi nông hộ và được tiếp thị thông qua hệ thống thương lái, các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong sản xuất nông nghiệp, các loại rủi ro sau thường gặp là: rủi ro sản xuất (do thời tiết, do thảm họa thiên nhiên, do ô nhiễm), rủi ro giá (do biến động của thị trường), rủi ro chính sách (do thể chế chính sách không phù hợp), rủi ro kỹ thuật (tiến bộ của khoa học kỹ thuật). Những rủi 420
  5. ro này có thể ảnh hưởng đến toàn bộ các tác nhân tham gia trong chuỗi sản xuất nông nghiệp với các mức độ khác nhau. Trong đó, ảnh hưởng của nó đối với nông hộ là nghiêm trọng nhất, bởi sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của nông hộ - bị lệ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (kinh tế, xã hội lẫn tự nhiên), cụ thể như sau: Một là, rủi ro sản xuất Đối với sản xuất nông nghiệp, số lượng và chất lượng sản phẩm do yếu tố đầu vào tạo ra và hoàn toàn không thể biết trước một cách chắc chắn. Sự không chắc chắn này là do chịu sự ảnh hưởng từ các yếu tố không thể kiểm soát của thời tiết, khí hậu và dịch bệnh. Những yếu tố này đóng vai trò quyết định trong sản xuất, bởi chu kỳ sản xuất nông nghiệp thường kéo dài. Trên nguyên tắc, thời gian càng dài, biến động càng lớn và càng khó dự báo. Trong đó, rủi ro về thời tiết ảnh hưởng ở mức trung bình và cao đối với tất cả các tác nhân trong sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên, các rủi ro này chỉ được quản lý ở mức trung bình (trừ rủi ro thương lái). Rủi ro về sinh học và môi trường được đánh giá ảnh hưởng ở mức độ thấp và chưa có cách quản lý đáng kể (Lê Khương Ninh, 2013). Điều này là do phần lớn nông hộ chưa nhận thức rõ tác động của ô nhiễm môi trường đến sản xuất nông nghiệp và chất lượng cũng như an toàn sản phẩm. Hơn nữa, các chế tài xử lý hành vi gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp chưa thực sự được thực hiện triệt để nên việc quan tâm của mọi người vẫn còn hạn chế. Hai là, rủi ro giá Do đặc tính sinh học của đối tượng sản xuất nông nghiệp (cây trồng và vật nuôi) nên quyết định sản xuất phải được hình thành từ khá lâu trước khi có sản phẩm. Khi đó, giá sản phẩm gần như không thể dự báo được vào thời điểm tiến hành sản xuất, nên nông hộ khó tránh khỏi những rủi ro về giá. Rủi ro giá là hệ quả của biến động trong nhu cầu đối với sản phẩm nông nghiệp, có thể bắt nguồn từ thị trường thế giới. Bên cạnh đó, rủi ro sản xuất dẫn đến số cung nông sản không ổn định, cộng với nhu cầu đối với nông sản kém co giãn càng làm cho giá biến động mạnh. Rủi ro về thị trường đặc biệt ảnh hưởng lớn đến tất cả các tác nhân (giá cả, yêu cầu về số lượng và chất lượng). Tuy nhiên, với loại rủi ro này, có thể được quản lý tương đối bởi công ty và người bán sỉ/lẻ, vì họ có điều kiện dự trữ nông sản. Ba là, rủi ro chính sách cũng ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp Chính sách kinh tế ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực sản xuất trong đời sống xã hội. Điều này được thể hiện thông qua thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá, quy định pháp luật, dịch vụ công... Theo đó, sản xuất nông nghiệp cũng chịu tác động mạnh từ sự can thiệp của Chính phủ bằng các chính sách. Những chính sách này thường được điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế, nhất là khi có sự thay đổi của môi trường kinh tế thế giới và thông lệ quốc tế. Chính yêu cầu điều chỉnh này đã mang đến nhiều rủi ro cho nông hộ, đặc biệt là đối với các quyết định đầu tư dài hạn. Trong đó, chính sách thủy lợi và khuyến nông tác 421
  6. động mạnh đến nông hộ. Ngoài nông hộ thì thương lái và doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng lớn từ các chính sách về chất lượng, tín dụng và xuất khẩu. Đặc biệt, các rủi ro từ thể chế, chính sách về giá, hợp đồng (giữa các Chính phủ trong việc mua nông sản, chất lượng và số lượng nông sản) đã ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp. Các chính sách này, làm cho doanh nghiệp đôi khi bị động trong kinh doanh và sản xuất. Bên cạnh đó, cũng có các chính sách nhằm tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp như: chính sách khuyến khích tiêu dùng và hỗ trợ lãi suất; chính sách phát triển và nâng cao xuất khẩu; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và thâm nhập thị trường mới, xúc tiến thương mại (Lê Khương Ninh, 2014). Những chính sách này cũng tác động gián tiếp đến các tác nhân khác trong chuỗi nhưng không thể quản lý được hoặc có thể quản lý được nhưng ở mức thấp. Bốn là, rủi ro kỹ thuật trong dài hạn Bên cạnh chịu những rủi ro trên, nông hộ còn phải đối mặt với rủi ro kỹ thuật. Mọi sự thay đổi của các tiến bộ khoa học - kỹ thuật khiến cho kỹ thuật mà nông hộ đang áp dụng trở nên lạc hậu và nông sản thiếu sức cạnh tranh. Tính ngẫu nhiên của tiến bộ khoa học - kỹ thuật ảnh hưởng đến mọi ngành và lĩnh vực sản xuất. Song vấn đề này cần phải được quan tâm hơn ở lĩnh vực sản xuất nông nghiệp bởi kỹ thuật là sản phẩm của các nghiên cứu hầu như biệt lập với nông hộ và nông hộ chỉ biết đến khi được chuyển giao. Điều này làm các nông hộ hoàn toàn bị động và không kịp ứng phó để kịp thời chuyển sang áp dụng kỹ thuật mới, nhất là khi không có khả năng về tài chính. Ngoài những rủi ro trên còn nhiều rủi ro khác liên quan và tác động đến sản xuất nông nghiệp. Theo đó, với mỗi tác nhân sẽ có những cách ứng phó và quản lý rủi ro khác nhau. Song nhìn chung, rủi ro về mặt thị trường (chủ yếu là giá) là tác động lớn nhất đến tất cả tác nhân trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Mặc dù vậy, rủi ro này vẫn được các thương lái và doanh nghiệp quản lý tốt hơn so với các tác nhân khác trong chuỗi. Riêng những tác động của các chính sách thì nông hộ vẫn là chủ thể phải gánh chịu nhiều rủi ro nhất, từ chính sách chất lượng, tín dụng, xuất khẩu, thuế, đến chính sách khuyến nông, thủy lợi và môi trường (Lâm Văn Lĩnh, Phạm Ngọc Nhàn, Lâm Văn Tân và Nguyễn Duy Cần, 2020). Rủi ro làm cho kết quả sản xuất của nông hộ ngày càng bấp bênh, từ đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của họ. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông hộ sản xuất nông nghiệp, đảm bảo sự phát triển bền vững của các ngành hàng. Yêu cầu đẩy mạnh phát triển BHNN được đánh giá là một trong các giải pháp hiệu quả có thể khắc phục được hiện trạng trên. 422
  7. 3. Bảo hiểm nông nghiệp và vai trò của bảo hiểm nông nghiệp với sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long 3.1. Khái niệm và nguyên tắc thực hiện bảo hiểm nông nghiệp Ngành Nông nghiệp Việt Nam nói chung và ngành Nông nghiệp vùng ĐBSCL nói riêng và là một ngành luôn đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là trong bối cảnh BĐKH diễn ra ngày càng nhanh, với cường độ mạnh hơn so với dự báo. Khi đó, BHNN được đánh giá là một trong các biện pháp hiệu quả để quản lý rủi ro và góp phần bảo vệ sinh kế người nông dân trước BĐKH. BHNN xuất hiện ở các nước phát triển từ hàng trăm năm trước. Trong giai đoạn đầu, BHNN chủ yếu trên cây trồng và vật nuôi. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), các chương trình bảo hiểm ban đầu được ghi nhận sớm nhất là ở Đức là vào cuối những năm 1700. Cuối thế kỷ 19, nhiều nước châu Âu cũng như Mỹ có các chương trình bảo hiểm cây trồng, chủ yếu là chống mưa đá (Nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân điện tử, 12/2020). Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã xác định dịch vụ sản phẩm BHNN mang tính chất là dịch vụ (hàng hóa) công. Từ những năm 1982, BHNN đã được triển khai với sự tham gia của Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt (bảo hiểm cây lúa, mùa màng tại huyện Vụ Bản thuộc tỉnh Nam Định). Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế và các nhà hoạch định chính sách, BHNN là một công cụ tài chính được sử dụng để quản lý những rủi ro có thể dẫn đến tổn thất tài chính, nhờ chuyển những rủi ro cụ thể từ bên được bảo hiểm sang DNBH bằng cách trả một khoản phí, gọi là phí bảo hiểm. Do vậy, BHNN giúp chuyển một số rủi ro trong hoạt động nông nghiệp, thiệt hại tài sản và thu nhập của nông dân sang công ty cung cấp dịch vụ BHNN. Nhờ giảm thiểu rủi ro tài chính, BHNN có thể khuyến khích đầu tư nhiều hơn cho hoạt động nông nghiệp, vì khi có BHNN, nông dân dễ có khả năng được cấp các khoản vay và đầu tư vào sản xuất giá trị cao hơn. Dưới phương diện quản lý nhà nước, “BHNN là loại hình bảo hiểm cho đối tượng sản xuất trong ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản, theo đó bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm, DNBH bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” (Chính phủ, 2018). Với những cách tiếp cận này, BHNN giữ vai trò quan trọng, thiết yếu đối với sản xuất nông nghiệp, là “chỗ dựa” của người nông dân cũng như doanh nghiệp nông nghiệp. Vì vậy, việc tham gia BHNN là rất cần thiết đối các chủ thể sản xuất nông nghiệp nói chung, nhất là đối với người nông dân. Nhìn chung, mục tiêu chính của BHNN là nhằm giảm tối đa cú sốc sinh kế cho nông dân khi các sự kiện rủi ro lớn xảy ra (từ BĐKH, thiên tai, dịch bệnh) có thể dẫn đến thiệt hại lớn và đẩy nông dân đến tình trạng túng thiếu cùng cực, hoặc phải đánh đổi để ứng phó với rủi ro (phải bán đồ dùng gia đình hoặc vật nuôi hoặc tài sản khác để bù đắp tổn thất). Đồng thời, BHNN giúp người nông dân sớm phục hồi và tái sản xuất để ổn định cuộc sống, góp phần đảm bảo phát triển sinh kế nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, để loại hình bảo hiểm này 423
  8. được triển khai đồng bộ, đáp ứng nhu cầu và bảo vệ quyền, lợi ích của của các bên tham gia, thì “BHNN phải được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận, không giới hạn tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm và phạm vi địa bàn” (Chính phủ, 2018). 3.2. Vai trò của bảo hiểm nông nghiệp Theo kết quả khảo sát của FAO, hiện có khoảng 70% diện tích đất toàn cầu được sử dụng cho nông nghiệp và lâm nghiệp. Riêng ở châu Phi, nông nghiệp chiếm 70% việc làm toàn thời gian, 33% tổng sản phẩm quốc nội và 40% tổng thu nhập xuất khẩu. Mỗi năm, thiên tai và thảm họa như: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh động vật và tràn hóa chất... đã gây thiệt hại hàng chục tỷ USD cho nông dân ở các nước trên thế giới. Trong giai đoạn 2005 - 2015, thiên tai đã gây tổn thất 96 tỷ USD cho các ngành Nông nghiệp của các nước đang phát triển và một nửa là tổn thất xảy ra ở châu Á, trong đó gây thiệt hại chủ yếu là mùa màng và chăn nuôi. Như vậy, từ năm 2005 - 2015, ngành Nông nghiệp đang hứng chịu gần 1/4 tổng thiệt hại về kinh tế do thiên tai gây ra (Nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân điện tử, 12/2020). Điều đáng lo ngại hơn là quy mô và mức độ đe dọa của thiên tai, BĐKH, thảm họa đến nông nghiệp ngày càng gia tăng, làm ảnh hưởng đến nông dân và các nhà sản xuất thực phẩm. Ở Việt Nam, trong giai đoạn thí điểm BHNN từ năm 2011 - 2013, có tới 236.396 hộ nông dân tham gia (bao gồm: 76,5% hộ nghèo; 16,8% hộ cận nghèo; 6,7% hộ thường) bảo hiểm trên cây lúa; sản phẩm bảo hiểm vật nuôi cũng có 60.133 hộ nông dân tham gia (gồm: 84,1% hộ nghèo; 9,8% hộ cận nghèo; 6,1% hộ thường. Bảo hiểm thủy sản đã thu hút được 7.487 hộ nông dân tham gia (gồm: 27,4% hộ nghèo, 4% hộ cận nghèo, 68,6% hộ thường). Trong đó, các DNBH đã thực hiện bồi thường bảo hiểm kịp thời cho các hộ khi xảy ra tổn thất do rủi ro thiên tai, dịch bệnh. Cụ thể, theo thống kê từ Bộ Tài chính, với sản phẩm bảo hiểm cây lúa đã được bồi thường 17,4 tỷ đồng (tỷ lệ bồi thường 19%); tổng số tiền bồi thường bảo hiểm vật nuôi là 19,5 tỷ đồng (tỷ lệ bồi thường 23,3%); bảo hiểm thủy sản có tổng số tiền bồi thường 675,9 tỷ đồng (tỷ lệ bồi thường 309,8%) (Lê Thị Ngọc Phượng, 2019)… Điều này càng khẳng định BHNN thật sự là “chỗ dựa” của người nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp, nhất là trong bối cảnh ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và BĐKH ngày càng diễn biến khó lường, nghiêm trọng hơn ở vùng ĐBSCL. Những lợi ích chính yếu mà BHNN mang lại là: Đối với người nông dân: BHNN giúp ổn định thu nhập, tăng khả năng tiếp cận tài chính và đầu tư nông nghiệp chất lượng cao. Wenner và Arias (2003) chỉ ra rằng, một trong những hậu quả trong ngắn hạn nếu không có các công cụ quản lý rủi ro hiệu quả, đó là việc giảm đáng kể thu nhập của người nông dân. Hơn thế nữa, những rủi ro này đôi khi liên quan đến những cú sốc mang tính hệ thống và ảnh hưởng tới toàn ngành, chẳng hạn như: ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của người nông dân và dẫn đến việc mất khả năng trả trợ đối với các khoản vay. Từ đó, kéo theo việc các tổ chức cho vay sẽ có xu hướng giảm thiểu cấp vốn 424
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1